Moussa Diabate: “Khi tôi đang muốn giết một tín hữu kitô thì tôi gặp Chúa Giêsu”
Moussa Diabate nói chuyện về việc anh trở lại ở Paris ngày 22 tháng 11-2018
fr.aleteia.org, Sylvain Dorient, 2018-11-26
Nhân dịp công bố bản báo cáo hàng năm về tự do tôn giáo trên thế giới, cơ quan Giúp Giáo hội đang gặp khó khăn (AED) đã mời anh Moussa Diabate đến nói chuyện về việc anh trở lại. Anh có các buổi nói chuyện ở Paris ngày 22 tháng 11, ở Marseille ngày 23, ở Le Mans ngày 26, ở Troyes ngày 27 và ở Bordeaux ngày 28.
Người hồi giáo triệt để, anh đã chọn con đường chiến đấu khủng bố, 15 tuổi anh nhận nhiệm vụ đi giết một tín hữu kitô, anh gặp Chúa Giêsu và trở lại. Anh bị đuổi khỏi Mali và bây giờ sống ở Ba Tây.
Khăn quấn đầu, đó là cà-vạt của người Tu-a-réc (người thuộc bộ lạc du mục sa mạc Sahara-Trung). Người dân Tu-a-réc không bao giờ bỏ truyền thống này. Từ quá khứ, anh Moussa Diabate chỉ còn giữ y phục truyền thống của mình. Năm nay 40 tuổi, anh sống ở Ba Tây và lo công việc đón tiếp người di dân. Khi nghe câu chuyện của anh, người nghe nghĩ ngay đến Thánh Phaolô, người đi bách hại trở thành tông đồ của Chúa Kitô.
Sau đây là chứng từ của anh.
Câu chuyện bắt đầu ở Mali, vùng sa mạc Azawad miền Bắc. Gia đình Moussa là gia đình lớn của bộ lạc Tu-a-réc, người du mục sống trong sa mạc, giữ đạo hồi giáo sunnit triệt để. Gia đình tôi là gia đình vị vọng trong bộ lạc Tu-a-réc, giữ nhiệm vụ trọng yếu trong cộng đoàn của vài trăm người Tu-a-réc. Tôi sẽ kế vị cha tôi. Từ 3 đến 6 tuổi, tôi học thuộc lòng kinh Coran, tôi đọc kinh Coran trong ánh sáng ban ngày, ban đêm trong căn lều của tôi, tôi nhớ lại, tôi đọc lại. Đến 6 tuổi là tôi đã thuộc lòng kinh, đến 11 tuổi tôi qua giai đoạn chú giải kinh. Từ năm 11 đến 15 tuổi, tôi áp dụng kinh Coran. Tôi là một môn đồ, người không sống cho mình mà sống cho tôn giáo, ngay cả phải hy sinh mạng sống của mình.
Năm 1994, khi ở trường Bamako, tôi được biết Alou, một bạn trẻ cùng tuổi với tôi, anh đã phản bội, Alou theo kitô giáo! Tôi biết một chút về Alou, Alou không ở trong cộng đồng của tôi. Việc Alou trở lại làm gia đình anh rất giận dữ, họ xin người hồi giáo loại kẻ phản bội này. Câu chuyện này đè nặng trong lòng tôi và đã làm cho tôi không còn chăm chú khi đọc kinh.
Ra đi chiến đấu cho khủng bố
Tôi 16 tuổi. Lúc đó là 4 giờ sáng, giờ đọc kinh đầu tiên, tôi cùng người thân đọc kinh thờ phượng Chúa. Sự hiện diện của Chúa là rõ ràng như sao trên trời, gần như có thể chạm vào chúng tôi. Đứng trước nét đẹp hùng vỹ của Tạo dựng, việc phản bội của Alou như tát vào mặt tôi, đó là vết nhơ cho sự huy hoàng thần thánh. Tôi quyết tâm loại anh ta. Tôi chọn con đường chiến đấu khủng bố, tôi sẽ làm cho kẻ phản bội xuống địa ngục. Vào thời đó, tôi biết có hai chuyện giúp tôi có được cứu rỗi: đi chiến đấu khủng bố hay tìm một kafir, kẻ thù của Chúa để giết họ.
Đó là việc giữa Allah và tôi. Sáng hôm đó tôi ra đi một mình với khẩu súng lục tôi mua khi 14 tuổi. Tôi ra thành phố vì tôi biết tôi sẽ gặp Alou ở đó. Tôi phải đi bộ 400 cây số. Đối với người tu-a-réc, các phương tiện chuyên chở và lạc đà là dành cho trẻ em và người lớn tuổi. Đến thành phố tôi phải đi xe buýt để tìm nhà chú tôi vì tôi không biết đường ở thành phố, đây là lần đầu tiên tôi đi xe. Tôi sống ở nhà chú, tôi đi học, cùng một lúc tôi hỏi tin tức để biết kẻ phản đạo ở đâu.
Cuối cùng tôi biết Alou cũng đang đi học, anh ở trong một sứ mạng. Tôi chờ anh trước cửa. Khi anh đi ra, anh chào tôi và để tôi đưa anh ra riêng. Anh nói với tôi: “Tôi biết vì sao anh đến đây. Anh muốn tôi tuyên xưng chahada (lời thề trung thành với đức tin hồi giáo). Và nếu tôi không tuyên xưng anh sẽ giết tôi.” Tôi chưa rút khẩu súng của tôi ra. Alou tiếp tục nói: “Giết tôi, đó là chuyện tốt nhất anh có thể làm cho tôi, anh làm cho tôi khẳng định đức tin của tôi.” Tôi như bị vào bẫy, anh nói tiếp: “Trước khi anh giết tôi, tôi muốn nói cho anh biết một chuyện, có người yêu thương anh. Đó là Issa.”
Tôi biết Issa, là Chúa Giêsu trong tiếng Ả rập, một tiên tri lớn của kinh Coran, Nhưng Alou nói với tôi với một nghĩa rất lạ. Issa như một tử đạo, Issa đã hy sinh mạng sống của mình vì chúng tôi. Câu “Giêsu yêu anh” đã làm tôi chấn động. Lời của Alou làm cho tôi bối rối. Alou toát ra một sự bình tâm đáng ngưỡng mộ. Tôi chưa bao giờ thấy ai cương nghị như thế trước cái chết. Tôi có cảm tưởng khi nói sắp giết anh thì sẽ tốt cho anh. Tôi chưng hửng, tôi không giết Alou lúc đó. Trước khi ra đi, Alou nói: “Bạn nghe tôi, bạn nghĩ lại tất cả những chuyện này và trở lại gặp tôi”.
Đêm hôm đó, tôi không ngủ, tôi cứ nghĩ đến lời Alou nói. Tôi biết tôi sẽ không đi giết Alou nữa. Đã có một cái gì xảy ra trong lòng tôi. Tất cả đã thay đổi từ đó.
Về lại nhà ông chú, tôi sống trong hoài nghi. Tôi không còn đi giảng, vì là con của một người vị vọng, nhiều người nghe tôi giảng. Tôi xao lãng cầu nguyện. Những ngày sau đó, một trong các ông chú của tôi thấy tôi thay đổi thái độ, ông đến hỏi thăm tôi, cảm thấy được tin tưởng, tôi kể hết và nói tôi không còn tin ở Chúa nữa. Nhưng phản ứng của ông thật kinh khủng: “Vì con mang cùng tên với dòng họ của chú, chú sẽ không giết con. Nhưng con phải đi ra khỏi nhà! Chú sẽ nói với gia đình con là con theo kitô giáo!”
Bị gia đình ruồng bỏ sỉ nhục
Tôi đi từ trạm này qua trạm kia để về nhà. Buổi chiều, gia đình chuẩn bị nhóm lửa. Tôi vui vì như thế là giống những ngày lễ lớn, nhưng tôi hiểu ngay đây không phải là lễ lớn. Cha mẹ, chú bác, ông bà nội ngoại và 200 người quây chung quanh tôi. Ông bà tôi thử tôi, bắt tôi tắm gội và cầu nguyện, tôi từ chối. Một trong các bác tát tôi. Ông tôi lên tiếng: “Vậy là thật sự con theo đạo người da trắng?
– Không, con không còn tin ở Chúa, thế thôi!
– Con tuyên xưng chahada!
– Không, con không còn tin nữa!”
Đó là bắt đầu giai đoạn khổ nạn của tôi. Họ muốn biết tên người đã nói về Chúa Giêsu cho tôi nghe. Họ hỏi Giáo hội cho tôi bao nhiêu để tôi trở lại vì họ nghĩ Vatican cho tiền để người hồi giáo trở lại. Họ sẵn sàng bán con lạc đà để trả tiền lại cho Vatican!
Tôi im lặng, họ nhào đến tôi, lột quần áo tôi, đánh đập và cột tôi vào một cái cây. Tôi còn mang vết sẹo ở cổ tay. Họ ra tối hậu thư: phải trở lại hồi giáo trước ngày thứ sáu nếu không tôi sẽ bị giết.
Tôi ở trong đêm lạnh giá trong vòng 5 ngày. Đến ngày thứ năm, biết là họ không thay đổi ý kiến, một người anh họ đến cắt dây trói và cho tôi một bộ áo quần. Anh nói với tôi: “Đi trốn đi, họ sắp giết anh! Nhưng đừng đi qua các trạm Tu-a-réc.”
Tôi ra đi, tôi đến Bamako, ở nơi những người Peul và tôi trở về trường ở thành phố. Tôi ngủ trên băng ghế và ăn ở căng-tin.
Các ân nhân huyền bí
Một cách không giải thích được, tôi nhận thư ở trường. Thư là các tài liệu của cơ quan Giúp Giáo hội đang gặp khó khăn, họ cho tôi biết các trường hợp tín hữu kitô bị đau khổ trên thế giới. Các đau khổ giống đau khổ của tôi làm cho tôi rất xúc động. Lúc này tôi gặp Chúa Giêsu đau khổ vì chúng tôi trong giai đoạn này, trước khi tôi biết Ngài qua Phúc Âm.
Đến ngày thứ ba, một người ở tòa sứ quán Thụy Sĩ đến tìm gặp tôi. Sứ quán tiếp tôi, tôi không biết vì sao họ biết câu chuyện của tôi. Vì lý do an ninh, tôi phải rời Mali. Sứ quán cho tôi một hộ chiếu với ngày sinh mới, tên mới. Họ đổi tên Mohamed thành Moussa, là Môsê, và họ chọn tên Diabate, tiếng Mali có nghĩa là “sứ giả hòa bình.”
Một ngày nọ có một chiếc xe dừng lại, một phụ nữ da trắng tôi không quen biết nói với tôi: “Anh đi theo chúng tôi, gia đình đang tìm anh để giết anh.” Tôi lên xe, xe chở tôi đến tòa đại sứ Thụy Sĩ ở Mali. Chính bà đại sứ cho tôi hộ chiếu ngoại giao. Tôi được tiếp đón ở Thụy Sĩ và tôi thấy Giáo hội ở đây cầu nguyện cho các tín hữu kitô bị bách hại và cố gắng rất nhiều để giúp họ.
Một tiến trình lạ lùng
Tôi ở ba năm trong một gia đình Thụy Sĩ. Năm 19 tuổi tôi rửa tội, tôi về Mali, và đến lượt tôi, tôi truyền giáo ở xứ sở tôi. Như những người đã kín đáo giúp tôi khi tôi thiếu thốn. Tôi làm việc có lương, trung thành với truyền thống, tôi gởi tặng số tiền lương đầu tiên cho mẹ, tôi gởi tấm thiệp và tiền cho mẹ tôi. Tôi nhận thư trả lời như một cái tát: tiền trả lui và lời giải thích, tôi đã chết khi tôi theo đạo kitô. Tôi không còn liên lạc với gia đình. Đó là chuyện làm cho tôi đau khổ khủng khiếp và bây giờ chuyện này vẫn còn làm cho tôi khổ.
Mỗi tối tôi đều cầu nguyện cho gia đình, tôi tha cho gia đình và như thế là đã 25 năm nay.
Năm 2012, khi tôi đang làm việc trong lãnh vực giáo dục và giúp các em mồ côi thì quân nổi dậy Tu-a-réc trong đó có gia đình tôi tiến về miền Nam, bắt đầu cuộc chiến ở Mali. Tôi phải rời Mali thêm một lần nữa. Tôi xin tị nạn ở Ba Tây. Tại đây tôi thành lập một tổ chức Phi Chính Phủ Người Samaritanô nhân hậu, tiếp đón và giúp các người tị nạn trên toàn thế giới.
Sau khi kể câu chuyện hãi hùng đời mình, Moussa Diabate giữ một lúc thinh lặng. Anh lặp lại câu Thánh Kinh nằm lòng từ ngày anh trở lại: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24).
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Xin đọc thêm: Linh mục Jacques Mourad, cựu con tin của nhóm Hồi giáo ISIS: “Tôi cảm nhận là tôi sắp bị chặt đầu”
“Tôi đã từng thấy các tên khủng bố rất gần, ngay cả với họ cũng phải nói chuyện”
Linh mục Jacques Mourad làm chứng cho nỗi đau khổ dai dẳng của dân tộc Syria