Trích đoạn tâm sự của Đức Lêô trong quyển tiểu sử đầu tiên của ngài
lepoint.fr, Jérôme Cordelier, 2025-11-19
Nhà báo Elise Ann Allen đã phỏng vấn Đức Lêô về cuộc đời, phong cách lãnh đạo của ngài và một số vấn đề cấp bách. Một Giáo hoàng truyền giáo, quan tâm đến việc chống phân cực cả trong và ngoài Giáo hội, bằng cách xây dựng cầu nối, phát triển đối thoại với tất cả các dân tộc và quốc gia, thúc đẩy trí tuệ tập thể – Vatican gọi đây là tính công đồng. Tất cả được nói lên trong quyển tiểu sử đầu tiên của Đức Lêô, được bầu ngày 8 tháng 5 năm 2025: Giáo hoàng Truyền giáo của một Giáo hội Toàn cầu hóa (Léon XIV, pape missionnaire d’une Église mondialisée, nhà xuất bản Éditions du Rocher/Artège xuất bản), phát hành ngày 19 tháng 11, nhân dịp chuyến tông du đầu tiên của ngài đến Thổ Nhĩ Kỳ kỷ niệm 1700 năm Công đồng Nicaea và sự xích lại gần với giáo dân Chính thống giáo và Lebanon. Nhà báo Elise Ann Allen, phóng viên người Mỹ tại Rôma của trang Công giáo trực tuyến Crux.

Điểm mạnh của quyển sách: Đức Lêô tiết lộ về ngài, chia sẻ quan điểm của ngài về một số vấn đề cấp bách Giáo hội đang phải đối diện. Quyển sách làm sáng tỏ phong cách và tính cách của một chàng trai trẻ mộ đạo, sinh ngày 14 tháng 9 năm 1955 ở ngoại ô Chicago, trong một gia đình giữ đạo sốt sắng, từ khi còn nhỏ đã muốn làm linh mục để “làm một cái gì đó cho người khác”, một sinh viên xuất sắc được đào tạo làm nhà truyền giáo ở Châu Mỹ la-tinh.
Sinh ra trong sự đa dạng
Robert Prevost, hay còn gọi là “Rob”, tên các anh thường gọi ngài, sinh ngày 14 tháng 9 năm 1955 tại Bronzeville, khu phố ở phía Nam Chicago. Được bầu làm Giáo hoàng khi 69 tuổi, là con út của ông bà Mildred Agnes Prevost và Louis Marius Prevost, lớn lên cùng hai anh Louis Martin và John Joseph. Di sản gia đình của ngài cho thấy ngài có nhiều nguồn gốc khác nhau.
Bà Mildred Agnes Prevost: mẹ của ngài sinh ở Chicago trong một gia đình lai Creole Louisiana, có nguồn gốc Châu Phi, Pháp và Tây Ban Nha. Bà ngoại của ngài sinh ở Santo Domingo, nay thuộc Haiti. Trong những năm nuôi dạy con cái, bà là nhà giáo, thủ thư ở Trường Trung học Công giáo Mendel, do các tu sĩ Dòng Augustinô điều hành, hai anh Louis và John của ngài cũng học trường này. Mối liên hệ chặt chẽ với Dòng Augustinô là hạt giống đầu tiên cho ơn gọi đi tu của Giáo hoàng tương lai.
Ông Louis Marius: cha của ngài cũng sinh ở Chicago và lớn lên tại Hyde Park phía nam thành phố, có gốc gác Pháp và Ý. Trong Thế chiến thứ hai, ông phục vụ trong Hải quân Hoa Kỳ, chỉ huy một tàu đổ bộ bộ binh Ngày D ở Normandy. Sau đó, ông tham gia Chiến dịch Dragoon ở miền Nam nước Pháp. Sau chiến tranh, ông phục vụ trong ngành giáo dục, ông là Giám đốc Học khu Brookwood 167 tại Glenwood, Illinois.
Từ nhỏ, Robert Prevost lớn lên trong một môi trường đa dạng văn hóa, được giáo dục đúng quy cách, hình thành kỹ năng lãnh đạo và qua nhiều năm, góp phần tạo nên tài năng quản lý nổi bật của ngài.
Là nhà truyền giáo, khi được hỏi về giai đoạn khó khăn khi ngài đến Peru và cách ngài thích nghi với bối cảnh, ngài chia sẻ trải nghiệm khi đến đất nước Nam Mỹ sau khi sống và học tập tại Rôma: “Tôi đến Peru sau bốn năm sống tại Rôma. Rõ ràng đây là kinh nghiệm thay đổi cuộc đời. Đơn giản là rời xa quê hương, đất nước và ngôn ngữ để học một ngôn ngữ mới, gặp những con người mới. Dĩ nhiên khi sống ở Rôma, chúng ta có một tầm nhìn về Giáo hội mà có lẽ không thể có được ở bất kỳ nơi nào khác trên thế giới.” Vì vậy, việc rời Rôma đến Peru (gần như ngay lập tức vì tôi đã dành hai tháng ở Chicago, nghỉ dưỡng sau 4 năm học tập) giống như bắt đầu một cuộc phiêu lưu khác. Tôi đã có một chút ý niệm về những gì sẽ xảy ra, vì tôi đã quen một số tu sĩ Augustinô lớn tuổi đang làm việc tại Peru, và khi họ trở về Hoa Kỳ, tôi đã nói chuyện nhiều với họ. Rõ ràng, quyết định là của bề trên, nhưng sự quan tâm và cởi mở của tôi với Peru cũng là kết quả của sự khích lệ từ các anh em Dòng Augustinô. Họ thường nói với tôi: “Anh hãy đến Peru và tự mình trải nghiệm.” Robert Prevost không chắc chắn điều gì sẽ xảy ra trong hoàn cảnh mới này, đặc biệt khi ngài thấy mình ở trong một đất nước bị nạn đói nghèo tàn phá, bị các căn bệnh truyền nhiễm ảnh hưởng trực tiếp đến ngài: “Tôi thực sự không biết trước được điều gì, nhưng tôi nhớ tôi đến Chulucanas năm 1985. Đó là năm sau trận lũ lụt khủng khiếp năm 1983 và 1984. Đường sá còn bị phá hủy, một tình trạng nghèo đói cùng cực, khác xa với ngày nay, tôi nhìn quanh và tự hỏi: Lạy Chúa, Chúa đưa con đến đâu?”
Khoảng một tháng rưỡi hoặc hai tháng sau, tôi bị bệnh thương hàn. Tôi nhớ tôi đã đánh thức Giám mục John McNabb, Giám mục đầu tiên của Chulucanas, ngài từ Wisconsin, nước Mỹ đến. Tôi sống cùng ngài, tôi là Chưởng ấn của ngài. Tôi bị sốt thương hàn và mất nước nghiêm trọng. Vì vậy, tôi đánh thức ngài dậy lúc ba giờ sáng, ngài đích thân chở tôi đến phòng khám gần nhất ở Piura, cách đó 40 phút lái xe, nhưng hồi đó chuyến đi mất khoảng một tiếng rưỡi. Ngài đưa tôi đến phòng khám tư “Clínica Roma”. Tôi chỉ nằm trên giường với những suy nghĩ vụn vặt chạy qua chạy lại trong đầu: “Chúa ơi, hoặc Chúa chữa lành cho con, hoặc Chúa mang con đi vì tình trạng này quá kinh khủng.” Đó là lần duy nhất trong đời tôi vào bệnh viện, được truyền dịch, và tôi đã nói: “Nếu đây là khiếu hài hước của Chúa, Chúa ơi, con nghĩ Chúa có thể làm tốt hơn một chút”, vì tôi đã sống ở Rôma 4 năm và yêu Rôma nên thật khó để rời Rôma. Bất cứ nơi nào tôi sống, tôi đều yêu mến nơi đó. Vậy nên khi từ Rôma về Peru, đó là một thay đổi lớn lao, và khi thấy mình ở Clínica Roma, tôi đã kêu lên: “Chúa ơi, con đã nhận được thông điệp.” Rõ ràng tôi đã sống sót, tôi đã hồi phục, nhưng đó là giai đoạn rất quan trọng với tôi, vì nó giống như: Được rồi, con đã đối diện với bệnh tật, con thấy nhu cầu ở đây là gì, Dòng tu, các tu sĩ Dòng Augustinô, Giáo hội đang nói với con, ‘Chúng tôi cần con ở đây, hãy cố gắng lên.’ Tôi không bao giờ ngoảnh lại. Tôi không hối hận vì đã đến, tôi không nghĩ “Vì sao họ ép mình đến đây? Họ không nói cho mình biết trước!” Tất cả là một cuộc phiêu lưu; có rất nhiều điều mới mẻ. Vẫn có một số giai đoạn rất khó khăn, nhưng tôi chỉ tự nhủ: “Mình sẽ cố gắng hết sức,” và từ đó, mọi thứ cứ thế tiếp diễn.”
Phong cách lãnh đạo
Điều gì đã làm cho Robert Prevost trở thành nhà lãnh đạo được kính trọng như vậy?
Tôi nghĩ tôi là người biết lắng nghe. Khi ở bên mọi người, tôi tôn trọng ý kiến của họ, nhưng rồi tôi cũng đạt đến điểm mà khi có thể, tôi nói với họ: “Chúng ta phải đưa ra quyết định ở đây, các bạn của tôi ạ.”
Bằng cách này hay cách khác, tôi cố gắng kết nối ý tưởng của mọi người lại với nhau. Vấn đề không chỉ là thỏa hiệp. Vấn đề không chỉ là tìm ra điểm chung nhỏ nhất. Vấn đề là hướng tới tương lai và đưa mọi người đi cùng. Tôi không phải là con sói đơn độc; tôi chưa bao giờ như vậy. Vấn đề là xây dựng tinh thần “hãy cùng nhau làm việc này” và tôn trọng từng thành viên trong nhóm, trong cộng đồng, trong Giáo hội…
Trong quá trình đào tạo của riêng tôi, theo tinh thần Công đồng Vatican II, tôi cố gắng tham gia xây dựng một Giáo hội như thế này, một Giáo hội thực sự mời gọi sự tham gia của tất cả các thành viên. Tôi chắc chắn còn nhiều khía cạnh khác nữa. Tôi thích phiêu lưu. Một số người sẽ cho là “can đảm”, nhưng cũng có người sẽ nói “tôi điên rồ”, nhưng tôi sẵn sàng dấn thân. Đó là một khía cạnh khác của lãnh đạo mà đôi khi mọi người còn thiếu. Chúng ta không thể cứ luẩn quẩn trong vòng luẩn quẩn, cứ suy nghĩ và thảo luận mãi. Chúng ta phải đưa ra quyết định để tiến về phía trước. Tôi có khả năng làm điều đó, và tôi không ngại làm. Không phải lúc nào chúng ta cũng đưa ra quyết định đúng đắn, đôi khi chúng ta mắc sai lầm, nhưng tôi cho rằng mọi người cảm thấy được mời gọi, được lắng nghe và biết rằng sẽ có tiến triển trong một vấn đề nào đó.
Vì thế, ban lãnh đạo của Đức Lêô đề xuất rất nhiều đối thoại, đi tìm tiếng nói chung, nhưng cũng hành động, không sợ hãi hay tê liệt. Theo ngài, đây là cách duy nhất để tiếp tục tiến về phía trước: mời gọi mọi người, lắng nghe và hành động phù hợp.
Cách tiếp cận của Đức Lêô để giải quyết các vấn đề cụ thể là gì?
Ngài nói: “Nó khác nhau tùy thuộc vào bản chất của vấn đề. Tôi mỉm cười khi nghe một số điều mà những người lớn tuổi đã kể với tôi trong nhiều năm, chia sẻ kinh nghiệm của họ. Tôi nhớ một Tổng Giám mục đã nói với tôi: ‘Có ba loại vấn đề. Một số vấn đề không có giải pháp, vì vậy đừng quá lo lắng về chúng. Một số vấn đề có giải pháp, nếu chúng ta có giải pháp, chúng ta cố gắng thực hiện, rồi sẽ tìm ra giải pháp và có thể tiến về phía trước. Và còn nhiều vấn đề khác sẽ tự giải quyết.”
Vậy nên, để chia sẻ với quý vị một góc nhìn triết học như thế này: đừng quá lo lắng về các vấn đề, nhưng tìm giải pháp khi có thể, và bạn sẽ tiến về phía trước. Vì vậy, tôi không gọi đó là một cách tiếp cận khắc kỷ, nhưng là khả năng nhìn nhận vấn đề và nói: “Được rồi, chúng ta cần giải quyết vấn đề này. Chúng ta sẽ tìm ra những lựa chọn khác nhau, chúng ta sẽ đưa ra quyết định, và chúng ta sẽ tiến về phía trước.” Tôi không sợ vấn đề. Đôi khi bạn mất ngủ cả đêm để suy nghĩ về một số vấn đề nào đó, nhưng nhìn chung, chúng tôi làm việc với mọi người, cố gắng giải quyết những khó khăn. Tôi không cảm thấy mình phải giải quyết tất cả các vấn đề của Dòng tu trong quá khứ hoặc phải giải quyết các vấn đề của Giáo hội ngày nay. Thay vào đó, tôi muốn nói: hãy đoàn kết và tìm cách giải quyết những vấn đề này.”
Ngày D
Sau hai tháng làm Giáo hoàng, Đức Lêo kể: “Ngay cả khi mật nghị sắp diễn ra, dù tên tôi được nhắc đến trong danh sách ứng viên, cho đến phút cuối cùng, tôi vẫn tin chắc phiếu bầu cuối cùng sẽ là người khác.”
Khi được hỏi liệu có phần nào trong ngài nghi ngờ điều đó không, ngài trả lời: “Thành thật mà nói, không. Tôi đã cố gắng không nghĩ về điều đó, nếu không có lẽ tôi đã không ngủ được. Nhưng đêm trước mật nghị, tôi cố gắng ngủ vì tôi tự nhủ, ‘Họ sẽ không bao giờ bầu một người Mỹ làm Giáo hoàng.’ Cứ như thể tôi đang dựa vào điều đó để thư giãn, đừng để nó làm phiền mình. Vì rõ ràng, trong các buổi họp trước mật nghị, tôi đã nghe được một số điều. Có những tin đồn.”
Nhưng tôi cũng đã nghĩ về vấn đề bạn đề cập trước đó (các cáo buộc ở Chiclayo) liên quan đến một số Hồng y khác, cụ thể là vấn đề lạm dụng tình dục này có nảy sinh hay không, và những lý do khác: kinh nghiệm, sự thiếu kinh nghiệm của một Giám mục, của một Hồng y. Và đó là lúc tôi nghĩ lại câu nói nổi tiếng: “Sẽ không bao giờ có giáo hoàng người Mỹ.” Hồng y Blase Cupich nói trên một tờ báo ở Chicago vài ngày trước mật nghị, khi được hỏi ai sẽ là giáo hoàng tiếp theo, ngài trả lời: “Tôi nói cho anh biết, đó sẽ không phải là một người Mỹ.” Vì vậy tôi nghĩ: “Đó là tin tốt, vì tôi thực sự không ngờ tới điều này.” Và rồi mọi chuyện đã diễn ra như vậy. Đức Lêô nhớ lại Đức Phanxicô đã nói, một ngày nào đó Giáo hoàng có thể sẽ gỡ bỏ sự bí mật xung quanh Nhà nguyện Sistine. Đức Lêô thừa nhận: “Hiện tại, tôi thậm chí không muốn bào chữa cho tôi. Vào thời điểm đó, có một số yếu tố có thể viết được một quyển sách tuyệt vời, nhưng khi mọi thứ phát triển, tôi đã cầu nguyện: ‘Lạy Chúa, dù có chuyện gì xảy ra, Giáo hội này là của Chúa, Giáo hội này nằm trong tay Chúa.’”
Câu hỏi về LGBTQ+
“Với một số người, bản dạng giới tính của một người chỉ giới hạn ở bản dạng giới tính của họ, và với nhiều người ở những nơi khác trên thế giới, đó không phải là vấn đề chính trong cách chúng ta cư xử với nhau. Tôi thừa nhận điều này đã ám ảnh tôi, vì như chúng ta đã thấy tại Thượng Hội đồng, bất kỳ chủ đề nào liên quan đến các vấn đề LGBTQ+ đều rất gây chia rẽ trong Giáo hội. Hiện tại, dựa trên những gì tôi đã cố gắng thể hiện và trải nghiệm để hiểu vai trò của Giáo hoàng tại thời điểm cụ thể này trong lịch sử, tôi cố gắng để không có chia rẽ trong Giáo hội. Đức Phanxicô đã nói rất rõ ràng: “Tất cả mọi người, tất cả mọi người, tất cả mọi người.” Mọi người đều được mời, nhưng tôi không mời ai vì danh tính riêng của họ, tôi mời vì họ là con cái của Chúa. Mọi người đều được đón nhận, chúng ta tìm hiểu và tôn trọng nhau. Mọi người muốn giáo lý Giáo hội thay đổi, họ muốn tư duy thay đổi. Tôi nghĩ chúng ta cần thay đổi tư duy trước khi nghĩ đến việc thay đổi lập trường của Giáo hội về bất kỳ vấn đề nào. Theo tôi, dường như rất khó có khả năng, đặc biệt là trong tương lai gần, giáo lý của Giáo hội sẽ thay đổi liên quan đến giáo huấn về tình dục và hôn nhân. Tôi đã nói về hôn nhân, như Đức Phanxicô đã nói về gia đình – gia đình là một người nam-một người nữ được long trọng cam kết và ban phép lành qua bí tích hôn phối. Nhưng ngay cả khi nói điều này, tôi hiểu một số người hiểu sai ý tôi. Ở Bắc Âu, các nghi lễ đã được công bố để ban phép lành cho “những người yêu thương nhau” – như họ nói – điều này hoàn toàn trái ngược với văn kiện Tuyên ngôn Fiducia supplicans về mục vụ của các chúc lành đã được Đức Giáo hoàng Phanxicô phê chuẩn, về cơ bản có nội dung: “Dĩ nhiên, chúng ta có thể ban phép lành cho tất cả mọi người, nhưng chúng ta không nên tìm cách nghi lễ hóa bất kỳ chúc phúc nào, vì đó không phải là điều Giáo Hội dạy. Điều này không có nghĩa là những người này xấu, nhưng tôi nghĩ điều rất quan trọng, một lần nữa, là phải hiểu cách chấp nhận những người khác biệt chúng ta, chấp nhận và tôn trọng những người có lựa chọn cho Chúa của họ. Tôi hiểu đây là vấn đề gây tranh cãi và một số người đòi hỏi “chúng tôi muốn hôn nhân đồng giới được công nhận, chúng tôi muốn người chuyển giới được công nhận” để có thể nói “điều này được Giáo Hội chính thức công nhận và chấp thuận”. Mọi người sẽ được chấp nhận và chào đón. Mỗi linh mục đều đã giải tội cho những người thuộc mọi tầng lớp xã hội, với nhiều vấn đề, hoàn cảnh sống và lựa chọn khác nhau của họ. Giáo huấn của Giáo Hội sẽ vẫn như vậy, và đó là điều tôi phải nói lúc này. Tôi nghĩ điều đó rất quan trọng. Các gia đình, cái mà chúng ta gọi là gia đình truyền thống, cần được hỗ trợ. Gia đình là cha, mẹ và con cái. Vai trò của gia đình trong xã hội, vốn đã bị ảnh hưởng trong những thập kỷ gần đây, cần được công nhận và củng cố.
Khủng hoảng lạm dụng tình dục
“Chắc chắn việc bảo vệ trẻ vị thành niên và cách ứng phó với cuộc khủng hoảng này đặt ra những vấn đề nghiêm trọng. Tôi nghĩ đây là một cuộc khủng hoảng thực sự – cuộc khủng hoảng tài chánh ít nghiêm trọng hơn – nhưng Giáo hội phải tiếp tục giải quyết vì nó vẫn chưa được giải quyết. Cuộc khủng hoảng lạm dụng cần thời gian, vì các nạn nhân phải được đối xử với sự tôn trọng tối đa và với sự hiểu biết họ đã chịu đựng những vết thương sâu đậm của lạm dụng, đôi khi họ phải mang chúng theo suốt cuộc đời. Sẽ thật ngây thơ cho tôi, hay bất kỳ ai, nếu nghĩ rằng chỉ cần bồi thường tài chính cho họ là đủ, hoặc xử lý vụ việc, cách chức linh mục, như thể các vết thương này sẽ tự biến mất. Trước hết, cần phải thể hiện sự nhạy cảm và lòng trắc ẩn chân thành và sâu sắc với nỗi đau mà các thừa tác viên của Giáo hội phải chịu đựng, dù là linh mục, giám mục, giáo dân, tu sĩ, giáo lý viên, nam hay nữ, v.v. Đây là vấn đề liên quan đến tất cả chúng ta, và tôi tin nó phải được giải quyết với sự tôn trọng sâu sắc. Hơn nữa, một trong những yếu tố phức tạp – và điều này ngày càng rõ ràng – là người bị cáo buộc cũng có quyền, và nhiều người trong số họ cảm thấy những quyền này không được tôn trọng. Thống kê cho thấy hơn 90% người nộp đơn khiếu nại là nạn nhân thực sự. Họ nói sự thật. Họ không bịa đặt. Nhưng cũng có những trường hợp cáo buộc sai sự thật đã được chứng minh. Các linh mục đã bị hủy hoại cuộc đời vì những cáo buộc này. Luật pháp tồn tại, và chúng ta có thể nói về luật dân sự hoặc luật giáo luật, luật pháp tồn tại để bảo vệ quyền của tất cả mọi người. Nhưng việc thiết lập, trong phạm vi có thể, một hệ thống tư pháp đáng tin cậy tôn trọng quyền của mọi người cần có thời gian.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
“Đức Giáo hoàng không phải là một ngôi sao. Ngài không dự Năm Thánh LGBTQ+.”
Trích đoạn tâm sự của Đức Lêô trong quyển tiểu sử đầu tiên của ngài






























