Bài xã luận “Người Samaritanô nhân hậu”
Lời của Đức Lêô XIV, lời tiên tri của Đức Ratzinger
vaticannews.va, Andrea Tornielli, 2025-06-09
“Trước khi là tín hữu, chúng ta đã được kêu gọi để là con người.” Đây là một trong những đoạn bài giáo lý của Đức Lêô XIV trong buổi tiếp kiến chung ngày thứ tư 28 tháng 5.
Suy gẫm về dụ ngôn Người Samaritanô nhân hậu, ngài giải thích các cuộc gặp gỡ tạo nên cuộc sống của chúng ta: “Chúng ta thể hiện con người thật của mình khi đối diện với sự mong manh và yếu đuối của người khác, chúng ta có hai lựa chọn: hoặc chăm sóc họ, hoặc xem như không có chuyện gì xảy ra và bỏ đi”. Như câu chuyện Chúa Giêsu kể: hai giáo sĩ ở Đền thờ Giêrusalem đã không dừng lại trước nạn nhân bị kẻ cướp hành hung nằm bên vệ đường. Người thương xót là người Samaritanô, người bị người Do Thái cho là ô uế. Nhưng chính “người ô uế” này là người chăm sóc cho nạn nhân mà theo truyền thống do thái bị cho là “kẻ thù”. Đức Lêô giải thích: “Việc giữ đạo không tự động dẫn đến lòng trắc ẩn. Trên thực tế, trước khi là vấn đề tôn giáo, lòng trắc ẩn là vấn đề nhân đạo!”
Là tín hữu, là người giữ đạo, là người phục vụ Chúa nhưng không nhờ đó mà chúng ta không bị “tổn thương” trước thực tế, trước các cuộc gặp gỡ, trước các tình huống cần giúp chúng ta gặp: trước khi là tín hữu, chúng ta được kêu gọi để là con người. Chính bản chất trắc ẩn, đức tính đặc trưng của con người đã giúp chúng ta làm chứng cho Phúc Âm.
Từ năm 1959, giáo sư trẻ Joseph Ratzinger dạy thần học ở Đại học Bonn, đã ghi nhận điều này với sự sáng suốt mang tính tiên tri: “Người tín hữu kitô phải là một người vui vẻ giữa những người khác, người anh em ở nơi mà họ không thể là người anh em. Trong quan hệ với người anh em không có đức tin, người tín hữu trước hết và trên hết là con người, không phải là người đi giảng, nhưng chính xác trong cởi mở và giản dị tuyệt đẹp: là con người.”
Đức Ratzinger nói rõ về cách Giáo hội được sinh ra và cách Giáo hội luôn có thể được tái sinh: từ chứng tá của những người nam và nữ được Chúa Kitô thu hút và có khả năng làm chứng cho Ngài bằng cuộc sống của họ, qua lòng trắc ẩn, qua việc trở thành bạn đồng hành của bất kỳ ai. Mặt khác, ngài nhận thấy thật viển vông khi nghĩ đến việc ngăn chặn sự suy tàn kitô giáo ở phương Tây bằng cách tự nhốt mình trong pháo đài, thu hẹp đức tin thành chủ nghĩa truyền thống, thành chất keo gắn kết bản sắc nhóm, thành một hệ tư tưởng để hỗ trợ cho một dự án chính trị nào đó.
Về cơ bản, đây chính là chìa khóa cho sứ mệnh, sức mạnh của lời loan báo trong sự thay đổi mang tính thời đại chúng ta đang trải qua: con người được kêu gọi trước hết và quan trọng nhất là phải trở nên con người, cởi mở và giàu lòng trắc ẩn. Người tín hữu kitô không cảm thấy mình cao trọng hơn người khác, họ biết chính những “người xa cách”, những người bị cho là “ô uế” mới là những người làm chứng cho lòng trắc ẩn, như Người Samaritanô nhân lành trong Phúc Âm.
Marta An Nguyễn dịch
“Trong tôi có một tu sĩ”: Giáo sư Kinh Thánh của Đức Lêô, nhà giảng đạo hướng nội
Hành trình tâm linh của Chân phước Carlo Acutis: vị thánh đầu tiên của thiên niên kỷ