Ủng hộ hay phản đối Đức Phanxicô? Đức Lêô biết cách hành động, ngài đã học ở trường các Giáo phụ

233

Ủng hộ hay phản đối Đức Phanxicô? Đức Lêô biết cách hành động, ngài đã học ở trường các Giáo phụ

belgicatho.be, , 2025-05-02, Giáo sư Lugaresi, chuyên gia về các Giáo phụ.

Giáo sư Lugaresi là chuyên gia về các Giáo phụ, Giáo sư hiểu tư tưởng Thánh Augustinô một cách sâu sắc hiếm có. Cũng như Đức Lêô, giáo sư thường trích dẫn tư tưởng các Giáo phụ, bắt đầu từ “người ông” Âugustinô. Theo Giáo sư Lugaresi, chính sự quen thuộc này của Đức Lêô với “truyền thống” kitô giáo vĩ đại là chìa khóa chính để hiểu cách ngài thực hiện chức vụ người kế vị Thánh Phêrô, không chỉ theo bước chân Đức Phanxicô mà còn theo toàn bộ lịch sử Giáo hội, qua đó ngài đưa “mọi thứ trở về với chân lý ban đầu”.

Bài viết này chỉ là bản tóm tắt của nguyên bản được đăng trên blog “Vanitas ludus omnis” của Giáo sư Lugaresi.

Bức tranh của danh họa Bernini minh họa bục giảng của Thánh Phêrô với các Giáo phụ Ambrose, Augustine, Athanasius và John Chrysostom ở Đền thờ Thánh Phêrô.

Về việc áp dụng đúng đắn truyền thống. Một lưu ý về “phong cách” của Đức Lêô XIV.  Leonardo Lugaresi

Trong hầu hết các phân tích của nhiều quan sát viên về những bước đầu của triều Đức Lêô, cho đến nay việc dùng các điểm liên tục và gián đoạn vẫn chiếm hàng đầu khi so sánh triều của ngài với triều của Đức Phanxicô.

Nhưng theo tôi, tiêu chuẩn này có vẻ không đủ để hiểu ý nghĩa của những gì đang diễn ra trong Giáo hội, nó không giúp chúng ta hiểu các phong cách trong tư tưởng và quản lý của Đức Lêô, đang lộ lên rõ ràng, đặc biệt ở cấp độ phương pháp.

Trong các can thiệp đầu tiên của ngài, việc ngài liên tục nhắc đến truyền thống của Giáo hội qua các tác giả vĩ đại làm chứng cho truyền thống: từ Ignatius thành Antioch đến Ephrem người Syria, Isaac thành Nineveh, Simeon tân thần học gia, đến Biển Đức thành Nursia, Lêô Cả, và dĩ nhiên là với “người ông Âugustinô”. Tài liệu tham khảo ngắn gọn nhưng không mang tính hình thức, tất cả đều liên quan đến các chủ đề Đức Lêô đề cập. Các tài liệu tham khảo về giáo phụ thường đi kèm với các tài liệu tham khảo về giáo huấn của các giáo hoàng hiện đại, đặc biệt của Đức Lêô XIII và Đức Phanxicô.

Chính xác đây là yếu tố tôi muốn lưu ý. Chúng ta có thể dễ dàng diễn giải điều này như bằng chứng cho sự liên tục đáng kể của hai giáo hoàng, nhưng chỉ mới phân biệt các khác biệt bề ngoài về tính tình; hoặc ngược lại, như một tư thế hoàn toàn mang tính chiến thuật và công cụ nhằm ngăn chặn hoặc xoa dịu những phản ứng thù nghịch tiềm tàng với một giáo hoàng muốn khởi xướng một đoạn tuyệt đáng kể với cái gọi là “Giáo hội Phanxicô”.

Tôi nghĩ cả hai cách tiếp cận này đều sai. Những gì Đức Lêô thể hiện trong từng lời nói, từng hành động trong những tuần đầu tiên là quan niệm đích thực về truyền thống công giáo. Theo tôi, có vẻ như cả những người “truyền thống và tiến bộ” ngày nay đều có cùng một hiểu lầm phổ biến: liên kết truyền thống với quá khứ, dù với mục đích bảo tồn và tái đề xuất quá khứ này hay ngược lại, với mục đích từ chối và vượt qua truyền thống một cách dứt khoát.

Trên thực tế, truyền thống, hiểu theo nghĩa công giáo đích thực, không chỉ định một đối tượng mà là một quá trình, thậm chí là một quan hệ. Nó đề cập đến mối quan hệ trao truyền, hay đúng hơn là mối quan hệ ban tặng, về cơ bản bao gồm các tác nhân còn sống (người tặng và người nhận) và các tương tác qua lại vượt ngoài thời gian.

Theo nghĩa này, truyền thống vẫn còn tồn tại: truyền thống thuộc về hiện tại, không phải quá khứ, vì truyền thống đang diễn ra ngày hôm nay. Chính xác vì truyền thống còn sống nên truyền thống có thẩm quyền và sức mạnh để đòi hỏi sự tuân thủ trong hiện tại. Truyền thống nằm ở trọng tâm đức tin, mang đến khía cạnh thiết yếu, nếu không có truyền thống sẽ không còn kitô giáo. Thật vậy, về bản chất, đức tin kitô giáo luôn là lời đáp trả cho tiếng gọi đến từ Thiên Chúa, Đấng đầu tiên mặc khải chính mình cho chúng ta. Đó là đức tin của các tổ phụ Abraham, Môsê, của các tiên tri, của các tông đồ trên đó đức tin của chúng ta được xây dựng.

Theo nghĩa này, lời của Giáo hội chỉ có thể là lời được chấp nhận, và do đó về bản chất là “truyền thống”. Vì đã được đón nhận, lời này phải được bảo tồn và truyền lại cho người khác một cách trung thực, theo các phương thức mà Thánh Phaolô đã nêu rõ vào buổi bình minh của lịch sử kitô giáo: “Trước hết, tôi đã truyền lại cho anh em điều này, điều mà chính tôi đã nhận được” (1 Cr 15:3). Việc định nghĩa lời của Giáo hội là lời được tiếp nhận có nghĩa khẳng định Giáo hội, kể cả Giáo hoàng không có quyền lực gì với Lời này: Giáo hội phục vụ chứ không sử dụng lời này. Vì thế không thể xử lý Lời theo cách chúng ta thấy phù hợp, làm cho Lời phù hợp hơn với tâm lý và kỳ vọng của xã hội đương đại, theo nghĩa chúng ta hiểu.

Tuy nhiên, có một khía cạnh khác cần được nêu bật để đánh giá tốt hơn bản chất công giáo của một quan niệm như vậy: Lời Chúa, mà mỗi chúng ta đáp lại một cách cá nhân, không đến với chúng ta qua mặc khải trực tiếp và cá nhân (như sự soi sáng nội tâm ‘sola Scriptura’ của quan niệm Tin lành), nhưng được truyền cho chúng ta qua các vị “tử đạo”, các nhân chứng tin cậy, không bị gián đoạn và do đó đến với chúng ta một cách phong phú, được sống với tất cả những đáp trả đã được nhận trong suốt lịch sử kitô giáo. Như Đức Joseph Ratzinger đã viết rất chính xác khi ngài đề cập đến vai trò của các Giáo phụ trong thần học đương đại: “Chỉ vì Lời đã tìm được đáp ứng nên Lời vẫn như vậy và hiệu quả. Bản chất của Lời là thực tại của mối quan hệ, Lời tồn tại không chỉ khi không còn ai công bố,  không còn ai lắng nghe. Đó là lý do vì sao chúng ta không thể đọc và lắng nghe Lời mà không nghĩ đến phản hồi đầu tiên: Lời đã được nhận, được cấu thành nên sự vĩnh cửu của nó.”

Đây là lý do trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Giáo hội không bao giờ có thể phá vỡ truyền thống hoặc bỏ qua truyền thống: “Giáo hội luôn bước theo các Giáo phụ và tất cả những người đi trước trong đức tin, đã truyền đức tin cho chúng ta qua Kinh thánh, qua Sách Khải huyền. Vì thế truyền thống có một thẩm quyền mà không ai trong Giáo hội có thể thoát khỏi: ngay cả Giáo hoàng cũng không thoát khỏi. Vì vậy, Giáo hội duy nhất chúng ta biết là Giáo hội của Chúa Kitô, và danh xưng duy nhất thuộc về Giáo hội là Giáo hội ‘tông truyền’dựa trên nền tảng truyền thống, vốn phải được chấp nhận và hiểu một cách toàn bộ.”

Điều này có nghĩa – dù người theo chủ nghĩa truyền thống có thích hay không – ngay cả Công đồng Vatican II và các triều giáo hoàng sau đó đều thuộc về truyền thống.

Dĩ nhiên lịch sử Giáo hội, xét về khía cạnh con người đầy cả sai lầm và các hành vi sai trái; không khoan nhượng, chúng ta cần phải phân định vấn đề này. Nhân cơ hội này, tôi muốn nhấn mạnh một khía cạnh tôi đặc biệt ấn tượng trong các hành động đầu tiên của Đức Lêô: “Chrêsis” hay “thực hành tốt” mà các Giáo phụ đã đề cập đến.

Ở đây chúng ta ghi công học giả Christian Gnilka (1935–2025) vừa qua đời, học giả đã đưa ra khái niệm này trong cách tiếp cận của các Giáo phụ áp dụng với văn hóa thế tục, văn hóa “của cải thế giới”. “Chrêsis” là thái độ đi ra khỏi tình trạng phân cực hiện nay, giữa bao gồm và loại trừ, vì bảo vệ chúng ta khỏi cả sự chấp nhận mà không phán đoán (sau đó thoái hóa thành phục tùng) và khỏi sự từ chối trên nguyên tắc (sau đó thoái hóa thành chủ nghĩa bè phái), nhưng “Chrêsis” hướng đến việc đi ra ngoài để gặp gỡ người khác trong mọi dịp, “phân định giá trị của mọi thứ, giữ chặt điều gì là tốt”, theo thư Thánh Phaolô gởi tín hữu Têsalônica (1 Th 5:21): quan tâm đến mọi thứ, tham gia với mọi người, nhưng trong mọi thứ phải phân biệt điều gì là tốt, đẹp và chân thực và điều gì không đúng với tiêu chuẩn này. Dựa trên tiêu chuẩn nào? Tiêu chuẩn duy nhất người tín hữu kitô có thể có: điều mà Thánh Phaolô gọi là “noûs”, tư tưởng về Chúa Kitô (1 Cr 2:16).

Đưa mọi thứ về với chân lý ban đầu: đó là “thực hành tốt”, “Chrêsis” mà các Giáo phụ nói đến, và Thánh Phaolô đã nói trong sách Công vụ: “Đấng quý vị không biết mà vẫn tôn thờ, thì tôi xin rao giảng cho quý vị” (Cv 17:23). Đó là cách sứ mệnh thành “muối, đất và ánh sáng” được Chúa Kitô giao cho các môn đệ thực hiện ở thế gian, không chỉ áp dụng trong mối quan hệ với thế gian mà theo một nghĩa nào đó với chính Giáo hội trong nhân bản tính của con người. Thật vậy, mọi thứ thuộc về con người đều phải được thanh tẩy, sửa chữa và đặt lại đúng vị trí: đưa trở lại với chân lý của chương trình hoạch định của Thiên Chúa. Đây chính là nguồn gốc của nguyên tắc “ecclesia semper reformanda, Giáo hội luôn cải cách”, không phải thích nghi vĩnh viễn cho thời điểm đó.

Về cơ bản, sứ mệnh của ngai Thánh Phêrô là bảo vệ chân lý đức tin và sự hiệp nhất của dân Chúa. Một hiểu lầm phổ biến trong những năm gần đây là Giáo hoàng phải “đưa ra các tiến trình thay đổi mà không ai biết phải đi theo hướng nào: chúng ta nghĩ đến tất cả những phản hồi mơ hồ về “tính đồng nghị”. Nhưng ngày nay có một sai lầm cho rằng trách nhiệm này là của Giáo hoàng. Nếu được phép dự đoán, tôi nghĩ điều này sẽ không xảy ra. Ngược lại, chúng ta có thể chờ Đức Lêô có những sửa đổi rõ ràng hơn hoặc chính thức rút lại một số khía cạnh mơ hồ, khó hiểu và trong một vài trường hợp là do có vấn đề với triều giáo hoàng trước hơn là “cách sử dụng tốt” mà tôi có thể nói, “đặt chúng vào đúng vị trí của chúng”.

Kinh nghiệm trong những tuần đầu tiên của triều Đức Lêô cho chúng ta cảm nhận an toàn. Không giống như tiền nhiệm của ngài, chúng ta không phải lo Đức Lêô là giáo hoàng “muốn làm gì thì làm”. Ngài đã làm rõ điều này ngay từ đầu khi ngài trích dẫn Thánh I-Nhã (ngài lặp lại các suy tư của Đức Bênêđíctô XVI đã làm) mô tả “một cam kết ai trong Giáo hội cũng phải làm: xóa mình để Chúa Kitô hiện hữu, làm cho mình trở nên nhỏ bé để Chúa Kitô được biết đến, được tôn vinh, cống hiến hết mình không tính toán để không ai không có cơ hội biết Chúa Kitô và yêu mến Ngài”. Theo nghĩa này, tôi mạnh dạn nghĩ phong cách của Đức Lêô sẽ mang tính Ratzinger và các Giáo phụ.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch