Chống lại chủ nghĩa báo động về tương lai của Kitô giáo

71

Chống lại chủ nghĩa báo động về tương lai của Kitô giáo

fr.aleteia.org, Jean Duchesne, 2024-04-23

Các nhà sử học và xã hội học đánh giá tương lai của kitô giáo không phụ thuộc vào sự tiến triển của việc giữ đạo. Tiểu luận gia Jean Duchesne nhắc lại Giáo hội không chỉ là một thực thể có thể đo lường được.

Cách đây gần nửa thế kỷ (năm 1977) sử gia Jean Delumeau (1923-2020), giáo sư tại Collège de France đã xuất bản một quyển sách với tiêu đề đầy khiêu khích: Kitô giáo có sắp chết không? (Christianisme va-t-il mourir?, nxb. Hachette), câu trả lời của ông ít đáng báo động hơn nhiều. Chúng ta có thể tóm tắt trong một câu trích dẫn (trang 149): “Chúa của những người theo kitô giáo ít sống động hơn chúng ta nghĩ và ngày nay Ngài lại ít chết hơn nhiều so với những gì chúng ta đã nói”. Liệu chuyên gia uy tín về Nỗi sợ ở phương Tây, mà ông đã thấy cao điểm giữa thế kỷ 14 và 18 trong một tác phẩm lớn do nhà xuất bản Fayard xuất bản năm 1978, La Peur en Occident, hiện nay có nói điều gì khác ngoài sự thờ ơ và tình trạng mù chữ về tôn giáo tiếp tục gia tăng một cách dường như không ngừng không?

Không còn nghi ngờ gì, thực sự không có lý do gì để xem thời kitô giáo hay trước Công đồng Vatican II là thời hoàng kim đáng tiếc đã qua, khi mà niềm tin và sự thuộc về Giáo hội chiếm đa số. Nỗi hoài niệm này chỉ dẫn đến việc đánh cược mọi thứ về mặt thẩm mỹ của phong cách tân gôtic về mặt trí tuệ vào chủ nghĩa kinh viện tân Tôma, nhưng kiến trúc đối xứng một cách máy móc và có hệ thống này không có tính đa dạng linh hoạt cũng như tính sáng tạo của các thánh đường thời Trung cổ. Và hệ thống triết học-thần học vốn tự cho là vượt thời gian đã loại bỏ chúng mà không tính đến chúng, như Thánh Tôma Aquinô đã làm, những khó khăn các nghiên cứu lúc này đã cho thấy.

Những u minh

Nhưng chúng ta phải đi xa hơn và đặt ra một câu hỏi có vẻ như không phù hợp: nếu đức tin trước đây bị những người ngoại đạo xa xôi, những kẻ hoang dã man rợ lên án thì đức tin đó có sâu sắc hơn, mãnh liệt hơn, chân thực hơn nhiều hay không? Chúng ta không thể biết. Thứ nhất là thiếu dữ liệu để nghiên cứu: vào thời mà chúng ta chưa nói đến “tâm linh”, rất ít người có khuynh hướng xem xét tâm trạng của mình và thể hiện đời sống nội tâm của mình; chúng ta chưa được dạy cách bày tỏ và chia sẻ cảm xúc.

Sự thiếu hiểu biết sâu sắc về tính tôn giáo của tổ tiên chúng ta được chứng minh rất rõ qua tính chất đặc biệt trong mối quan hệ của mỗi người với Thiên Chúa.

Và sự thiếu hiểu biết này về lòng đạo sâu xa của tổ tiên chúng ta được chứng minh rất rõ ràng do tính chất đặc biệt trong mối quan hệ của mỗi người với Thiên Chúa. Chắc chắn là có những bên thứ ba dứt khoát tham gia, vì đức tin luôn là đức tin được trao truyền, và ai tưởng tượng tự mình tìm thấy một mình thì họ cũng nhận đức tin, dù gián tiếp: họ không thể phát minh ra nó ex nihilo và cũng không thể là con Thiên Chúa nếu không có anh chị em (và ngay cả cha mẹ) trong Giáo Hội. Nhưng những trung gian thiết yếu trước hết là công cụ nhằm vào mối quan hệ cá nhân của người tín hữu kitô với Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Chuộc mình. Khả năng liên hệ và mô tả hiệp thông này tự nó là một ơn riêng biệt, không tự động, được ban cho để góp phần vào việc truyền bá Tin Mừng.

Vào thời của những người theo và tôn trọng phong tục tập quán

Cần nói thêm, ơn của Chúa sẽ bị biến dạng nếu chúng ta chiếm hữu chúng cho mục đích hưởng thụ hoặc để thực thi quyền lực. Đó là những gì đã xảy ra trong mọi trường hợp lạm dụng (không phải chỉ trường hợp của các giáo sĩ), dưới mọi hình thức. Ngày nay chúng ta đặc biệt nói đến việc săn mồi tình dục và những ảnh hưởng mang tính thao túng khác. Ngày xưa chúng ta chỉ phẫn nộ nhiều về việc buôn thần bán thánh, buôn của cải thiêng liêng, buôn chức trong giáo hội. Thực tế ơn của Chúa giải phóng, ơn Chúa không làm cho chúng ta trở nên không sai lầm và không bị cám dỗ, nhưng đón nhận ơn và truyền lại để dự phần dâng mình như Ngài và với Ngài.

Tất cả những điều này giúp chúng ta ước đoán, trong quá khứ không bao giờ thiếu chủ nghĩa tôn trọng phong tục tập quán, những tuân thủ không trọn vẹn hoặc hời hợt. Không thể xác định theo tỷ lệ nào. Điều chắc chắn ít nhất là ngay cả các thánh lớn cũng chỉ hoàn thiện nhờ lòng thương xót Chúa, Đấng bù đắp những gì còn thiếu trong công nghiệp của họ cho đời sống đời đời. Và nếu đúng như vậy thì lòng thương xót nhưng không của Chúa đã rất tốt, có thể mang lại ân sủng cho một số cá nhân rõ ràng là kém đạo đức, nhưng có khả năng nảy sinh lòng sám hối. Và lòng quảng đại này vẫn có thể sinh lợi ích cho người thiện tâm, mà sự tự mặc khải của Thiên Chúa qua các sứ giả của Ngài không chạm đến được đời sống cụ thể của họ để họ có thể đáp trả đầy đủ.

Chỉ số giữ đạo được quan sát không bao giờ là phong vũ biểu không thể sai lầm về lòng trung thành của Giáo hội với sứ mệnh của mình cũng như sự thành công của kế hoạch của Thiên Chúa.

Các nhà thống kê, nhà xã hội học, nhà sử học, nhà khảo cổ học và các nhà phân tích khác về các biểu hiện nghệ thuật và văn học về lòng mộ đạo nghiên cứu những manh mối hữu hình và tiếng vang có thể đo lường được. Không điều nào trong số này giúp chúng ta kết luận, kitô giáo đang ở trên điểm, hoặc ít nhất ở địa phương (hầu như không còn phản kháng) quyền cai trị của Chúa trên trái đất, hoặc ngược lại sẽ lụi tàn (khi các niềm tin bị gạt bên lề mà không cần phải đàn áp chúng). Tóm một lời, việc giữ đạo không bao giờ được xem là phong vũ biểu không thể sai lầm về lòng trung thành của Giáo hội với sứ mệnh của mình cũng như sự thành công của kế hoạch của Thiên Chúa. Và không có lý do gì để bây giờ nó phải khác đi.

… thời đại của “các tín hữu kitô”

Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là vị trí của đức tin trong xã hội sẽ không mấy quan trọng. Ngược lại, nó rất quan trọng vì, như chúng ta đã thấy, ngay cả khi chắc chắn Chúa có thể hiển lộ trực tiếp với bất kỳ ai Ngài muốn, thì ý tưởng mà chúng ta có về Ngài vẫn bị ảnh hưởng, thậm chí bị định hình và trong mọi trường hợp đều được người nói về Ngài làm rõ. Đó là lý do vì sao các tín hữu kitô không thể chấp nhận chuyện từ bỏ việc được lắng nghe và cầu xin càng nhiều càng tốt. Rõ ràng là nhiều người do dự đã cảm thấy khó chịu khi hình ảnh của Giáo hội trên các phương tiện truyền thông và văn hóa bị tổn hại, bị các tuyên truyền thù nghịch hoặc các vụ bê bối làm mất uy tín. Nhưng thường thường, hình ảnh này chỉ đơn giản bị mờ đi, chỉ để  lộ một thể chế bảo vệ truyền thống và đạo đức, với một di sản thậm chí không còn hoàn toàn thuộc về nó nữa. Do đó, chúng ta gặp một số “người theo kitô giáo”, theo chủ nghĩa tân thần học do triết gia Rémi Brague đặt ra: những người mà kitô giáo chỉ là một ‘từ’ chủ nghĩa như các chủ nghĩa khác. Từ này cho họ cảm nghiệm một lòng nhân từ nhuốm màu hoài niệm, để những gì họ có hoặc tiện nghi của họ không bị ảnh hưởng. Các “tín hữu kitô” này thể hiện ồ ạt sau vụ Nhà thờ Đức Bà Paris cháy năm 2019. Chúng ta có thể cho họ là người kế thừa các tín hữu thụ động mà chúng ta không thể loại trừ họ ra khỏi binh đoàn ngày xưa.

Bài học của các dự tòng

Một hiện tượng gây tò mò có thể xác định, về cơ bản, tương lai của Giáo hội trên trái đất không phụ thuộc vào mức độ phổ biến của nó: đó là năm nay số người lớn rửa tội đã gia tăng rất nhiều. Đây không phải là kết quả của việc “trở lại đạo công giáo” được phát hiện trong các cuộc khảo sát, cũng không phải từ sự thành công của một chiến dịch truyền thông hay một chiến lược tông đồ. Các động lực dường như rất đa dạng, đến mức có thể thấy rõ sự khéo léo của Chúa Thánh Thần. Họ không những chỉ quyết định bất đồng, nhưng còn là cả một kiên trì, họ vào Giáo hội một cách có ý thức – có nghĩa là không hoàn hảo, nhưng cũng không ảnh hưởng đến thực tế cơ bản và không thể định lượng được, nhưng được cụ thể hóa và trải nghiệm qua thánh lễ. Đây là điều mà những người dự tòng này đã có thể nhận thức được và vẫn luôn được mọi người khám phá lại – kể cả những “người chính quy” – và đây là lý do vì sao Giáo hội không thất bại miễn là cử hành Bí tích Thánh Thể với những cánh cửa mở rộng.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Họ quyết định là tín hữu kitô: “Tôi giận cha mẹ vì đã không cho tôi học đạo” (1)

Họ quyết định là người tín hữu kitô: “Tôi giận cha mẹ vì đã không cho tôi học đạo” (2)