Các huyền thoại của thập kỷ: Nút “like” trên Facebook
lefigaro.fr, Paul Sugy, 2020-07-17
Vào những năm 1950, khi nước Pháp chìm trong văn hóa đại chúng, triết gia Pháp Roland Barthes (1915-1980) đã mô tả một mớ hỗn độn các đồ vật, các tác phẩm và các biểu tượng. Kể từ đó, các “huyền thoại” khác đã gây chấn động trong thập kỷ vừa qua. Bắt đầu với ngón tay cái nhỏ màu xanh lam, đã trở thành biểu tượng cho hai tỷ người dùng Facebook.
Đông Berlin, năm 1984. Bề ngoài hai ông bà Georg và Christa-Maria có một cuộc sống gần như bình thường – họ sống âm thầm kín đáo với niềm đam mê kịch nghệ chung của cả hai người. Ông là nhà viết kịch, bà là diễn viên: trong thế giới riêng tư căn hộ của họ, tiếng đàn dương cầm vang lên hàng ngày, tiếng gõ lách tách của máy đánh chữ và những buổi tối đọc sách lâu dài. Cả hai không thể tưởng tượng, sau tòa nhà của căn hộ, đặc viên Wiesler đang nghe trộm mọi cuộc nói chuyện của họ! Không có gì có thể thoát khỏi viên cảnh sát mật vụ Stasi với các máy móc nghe và ghi âm cực mạnh của họ, từ các cuộc tranh cãi của họ hay thuốc mà bà Christa-Maria kín đáo uống: nước Cộng hòa Dân chủ Đức cấm dùng thuốc chống trầm cảm… Cuốn phim Đời sống của người khác (The Lives of Other, 2006) của Florian Henckel von Donnersmarck không phải là tác phẩm được mong đợi như tiểu thuyết của Orwell, nhưng minh chứng cho một thời không xa, không có gì thoát được một quyền lực quyết đoán thiếu tôn trọng đời sống riêng tư.
Đương nhiên kể từ khi Bức tường sụp đổ, đặc viên Wiesler trở thành người giao báo bình thường và các nhà văn ít bị nguy cơ có ngày căn hộ nhà mình bị đặt máy thâu lén. Thực sự chuyện này chẳng mấy ai quan tâm: cho đến năm 2013, một nghiên cứu của Anh tiết lộ, một thuật toán đơn giản với độ chính xác đáng kể, là đủ để xác định xu hướng tôn giáo, tình dục hoặc thậm chí chỉ số thông minh của hầu hết người dùng Facebook, đơn giản được biết qua nút like trên mạng xã hội. Cho tôi biết bạn thích gì, tôi sẽ cho bạn biết bạn là ai…
Washington, tháng 6 năm 2018. Christopher Wylie hiên ngang băng qua làn sóng các nhà báo trụ ở các bậc cấp, băng qua bậc thềm, bước vào đại sảnh rộng lớn, vào thang máy rồi từ từ vào nội cung Capitol, ông bị hai người đàn ông mặc y phục sẩm màu vây quanh. Một tấm biển trên cánh cửa thép: “Khu vực quy định, cấm công chúng và báo chí”, cảnh báo ông về tính bảo mật của các trao đổi sẽ diễn ra sau đó. Điện thoại của ông bị tịch thu, rồi ở cuối dãy hành lang dài quanh co, đâu đó ở tầng hầm thứ ba của Quốc hội Mỹ, cuối cùng ông đến được nơi linh thiêng của Quốc hội, căn phòng nơi Trung tâm Thông tin tế nhị rào kín (SCIF) họp. Tại đây cơ quan thẩm vấn ông nhiều giờ về sự tham gia của ông vào công ty Cambridge Analytica, một công ty của Anh có các mánh khóe mà ông vừa tiết lộ trên báo Guardian vài tháng trước đó. Chuyên về lãnh vực ảnh hưởng và tiếp thị chính trị, công ty Cambridge Analytica đã khai thác lỗ hổng trong chính sách bảo mật quyền riêng tư của Facebook, cho phép Facebook có trong tay các dữ liệu cá nhân của 87 triệu người dùng trang mạng ảo lớn nhất hành tinh.
Nguyên tắc khá đơn giản: chúng ta hình dung cuộc bầu cử là “cuộc chiến”, trong đó thách thức không phải là phân tán các mục tiêu, nhưng chỉ tập trung vào một số ít mục tiêu – các cá nhân mà phiếu bầu sẽ quyết định kết quả cuộc bỏ phiếu. Họ là các cử tri dễ bị thao túng hơn các cử tri khác, đặc biệt là do cấu trúc tâm lý của họ. Trong một mô hình nổi tiếng, các nhà nghiên cứu gọi hành vi ứng xử này là “loạn thần kinh”, đặc trưng của một nhân cách thích tiếp nhận các cảm xúc tiêu cực. Thuyết phục các cử tri này mọi thứ đều không tốt, rồi đề nghị họ một chính sách chống lại lý do làm họ lo lắng: vậy là xem như bạn đã có tiếng nói của họ…
Như ông Christopher Wylie giải thích trong quyển sách hấp dẫn Khốn khổ. Cambridge Analytica âm mưu chiếm lấy bộ não chúng ta (Mindfuck. Le complot Cambridge Analytica pour s’emparer de nos cerveaux, Grasset, 2020), đưa ra chân dung tâm lý của một người dùng Facebook, đó là trò chơi trẻ con cho bất cứ ai biết làm điều này. Ông kể: “Các lượt like, cập nhật trạng thái, thuộc về nhóm nào, số người theo dõi và số lần nhấp của người dùng mạng xã hội, tất cả đều là số liệu cá biệt nhưng khi tổng hợp, nó có thể cho thấy chính xác hồ sơ tâm lý của người dùng.” Đó là những gì ông khám phá được với Aleksandr Kogan, nhà nghiên cứu trẻ tuổi về nguồn gốc ứng dụng, giúp thu thập dữ liệu từ một số lượng rất lớn các “hồ sơ” và người đã từng thố lộ với ông: “Facebook biết về bạn nhiều hơn bất cứ ai khác, kể cả vợ bạn”.
Đó là lỗi của ai? Cách đây vài năm, một họa sĩ biếm họa người Đức đã đăng bức hoạt hình vẽ một người dùng internet đang ở giữa các mạng kỹ thuật số: “Làm sao bạn biết tất cả chuyện này về tôi?” Và Google, Facebook và các người khác trả lời: “Chính BẠN đã cho chúng tôi điều đó!”
Mỗi phút có bốn triệu ngón tay cái nhỏ màu xanh bấm nut like
Và đó chính là thiên tài của con chuột nhắt: không như đặc viên Wiesler, Facebook không do thám bất kỳ ai bằng chiếc micro giấu trên trần nhà… Chính người dùng cho biết sở thích của họ. Chỉ trong vài năm, cử chỉ nhấn ngón tay vào nút màu xanh để nói mình thích hình này của một người bạn, video nhạc kia của một ca sĩ thời trang hay một quảng cáo dầu gội đầu đã trở thành một công việc máy móc. Mỗi phút có đến bốn triệu người dùng Facebook bấm nút like gởi đi khắp thế giới. Ngay cả động từ “like” còn được ghi vào Tự điển Larousse năm 2019…
Biểu tượng nổi tiếng này xuất hiện lần đầu tiên trên mạng ngày 9 tháng 2 năm 2009, hai năm sau khi ý tưởng này nảy mầm trong đầu một số nhà khai triển Facebook, như nhà khoa học máy tính Andrew Bosworth cho biết trên mạng Quora – một bách khoa toàn thư trực tuyến phổ biến trong giới lập trình viên. Đầu tiên họ do dự giữa ngôi sao hay dấu +, trước khi cuối cùng họ chọn bàn tay từ ống tay áo màu xanh lam và giơ ngón cái lên không, như kiểu nổi lên hiện đại của các đấu sĩ thời cổ đại được huyền thoại hóa qua bức tranh nổi tiếng của Jean-Léon Gérôme vào thế kỷ 19. Cử chỉ này đã được các phi công chiến đấu của tàu sân bay Mỹ trong Thế chiến Thứ hai dùng để báo cho các nhóm khác biết họ sẵn sàng cất cánh. Ở Trung Quốc, nó vẫn còn là dấu hiệu của sự tôn trọng lịch sự, nhưng dấu hiệu này lại không mang một ý nghĩa nào ở các xứ khác như ở châu Phi hoặc Trung Đông.
Dù sao điều này không thành vấn đề: với hơn hai tỷ người dùng, bây giờ Facebook áp đặt huyền thoại riêng của mình lên hành động đã trở thành biểu tượng của nền văn hóa toàn cầu hóa, lan truyền từ các người khổng lồ kỹ thuật số đến các nơi xa xôi hẻo lánh nhất thế giới.
Trong một bài đăng ngay ngày hôm sau xuất hiện nút “like”, cô Leah Pearlman, người thiết kế đã giải thích cách nút đơn giản này sẽ đơn giản hóa giao tiếp giữa bạn bè như thế nào: “Chúng tôi đã đơn giản giới thiệu, với một cú nhấp nhỏ, các bạn cho bạn bè mình biết những gì mình muốn chia sẻ với họ trên Facebook”. Ba năm trước đó, ông Jack Dorsey cũng có cùng trực giác tương tự và khủng khiếp khi ông thành lập Twitter, một trang mạng mà trên đó các tin nhắn được giới hạn trong một số lượng rất nhỏ ký tự: chỉ một ứng dụng internet có thể làm cô đọng, và thậm chí đơn giản hóa tất cả các tương tác xã hội của chúng ta.
Nhưng lại có nguy cơ mất đi sự tinh tế. Tất nhiên, kể từ đó Facebook đã làm phong phú thêm phạm vi nhấp chuột, bây giờ người dùng có thể thêm bất cứ biểu tượng nào, trái tim, nụ cười… nhưng các khả năng vẫn còn rất ít. Và đó là mục đích – và cũng là bí quyết thành công đáng kinh ngạc: bằng cách tiêu chuẩn hóa truyền thông kỹ thuật số ở mức độ dần dần bỏ mẫu tự, chỉ còn dùng ký tự, các biểu tượng cảm xúc “émoji”, các mạng xã hội làm tất cả chúng ta nói cùng một ngôn ngữ. Đó là một trò chơi đã được lưu hành rất nhiều trên internet: chỉ dùng các biểu tượng cảm xúc để chép lại một câu chuyện nổi tiếng, một quyển tiểu thuyết, một bộ phim… Sự bá chủ này càng đáng lo ngại hơn khi mạng xã hội và các mặt bằng đã dần dần thu hút một số lượng lớn truy cập trực tuyến, điều này có được là nhờ nội dung truyền thông được người dùng chuyển tiếp. Sau đó nút “like” đã trở thành đơn vị tiền tệ để đổi lấy một vụ tống tiền độc hại: để có thêm vài “like” màu xanh, các phương tiện truyền thông truyền thống bị yêu cầu từ bỏ gần như toàn bộ doanh thu quảng cáo của họ – điều này có nghĩa là trong trung hạn các hoạt động của họ bị biến mất. Để khôi phục sự công bằng được thăng bằng hơn, theo chỉ thị được thông qua vào tháng 3 năm 2019, Liên minh Châu Âu đã buộc các mặt bằng trả thù lao cho các nhà sản xuất nội dung về “quyền lân cận” thay cho bản quyền tác giả.
Những gì cảm xúc thu được ở bề mặt…
Nhưng chúng ta hãy quay lại với nút “like”: nút này đã trở thành một trong các biểu tượng tiêu biểu nhất của thập kỷ qua, nút này có thể sẽ không sống còn được. Ở một số quốc gia, mạng Instagram đã xóa bộ đếm “lượt thích” khỏi ứng dụng của họ. Và từ các vị trí cao của Facebook, chúng ta nghe nói tính gây nghiện và đặc biệt hời hợt của ngón tay cái màu xanh đang được xem như một lý do đáng lo ngại. Có lẽ vì vậy nút “like” đang ở các giờ cuối cùng của mình…
Nhưng ngay cả khi nút “like” biến mất, tầm quan trọng mà định mệnh của nó đảm nhận trên các phương tiện truyền thông khắp thế giới, vẫn là bằng chứng không thể phủ nhận về ảnh hưởng văn hóa khổng lồ của công ty Mỹ trên các biểu hiện tập thể, và điều này lan khắp bốn chân trời hành tinh. Nếu có một bài học rút ra từ tầm quan trọng của Facebook và các mạng xã hội lớn khác trong thập kỷ qua, đó là chúng ta thấy, đến mức nào chúng ta đã từ bỏ chủ quyền của mình trong các trao đổi trên internet, để chúng ta dễ bị tổn thương, và ngay cả không thương tiếc bị thấm nhập vào đời sống chúng ta. Do đó, câu hỏi không chỉ là liệu Facebook có trả thuế hay không, mà ngay cả chính sách kiểm soát nội dung của họ có đủ minh bạch hay không: nút “like” trước hết là lời kêu gọi chúng ta xem lại tầm quan trọng mà chúng ta đặt trong các tương tác kỹ thuật số của mình.
Vì thế chúng ta sẽ không bao giờ suy ngẫm cho đủ câu này của nhà thơ Louis-Philippe Robidoux: “Những gì cảm xúc thu được ở bề mặt, nó sẽ mất đi ở chiều sâu”.
Marta An Nguyễn dịch