Antôn nói, Chúa chứng duyệt (3-6)
Trích sách Tiểu sử Thánh Antôn Pađua, Françoise Bouchard, nxb. Salvator
Chết giả
Lúc đó có một người đàn ông hối hận về các thủ đoạn của mình. Antôn coi sóc việc xây một tu viện mới ở Génome và thợ thì đang thiếu đá, tay cầm bay thợ nề, Antôn chận một nông dân đang đẩy chiếc xe bò trống không, trên xe là con trai ông đang ngủ: “Anh bạn ơi, vì tình yêu của Chúa, anh bạn đừng từ chối nhé, anh cho chúng tôi mượn xe bò của anh để chở đá được không?” Dù đã viện đến tình yêu của Chúa nhưng người chủ xe bò cũng không mềm lòng, ông buồn bã giả vờ: “Bạn ơi, tôi cũng muốn lắm nhưng không thể được. Tôi đang đưa xác con tôi ra nghĩa trang như bạn thấy đó.”
Antôn hiểu anh nói dối nên không năn nỉ. Antôn chỉ trả lời: “Anh cứ làm như anh nói.” Đi một lúc, người nông dân dừng lại để đánh thức con dậy để kể cho con nghe mẹo mình đã dùng để đánh lừa ông tu sĩ. Nhưng con trai ông không thức dậy, ông lay mạnh, con cũng không dậy. Vì con ông thật sự đã chết! Người cha hiểu được bài học cay đắng. Ông khóc lóc rên rỉ chạy đến xin Antôn tha thứ và xin Antôn cứu con mình. Antôn động lòng trắc ẩn với người cha khổ sở này, đồng thời Antôn đặt hết lòng tin tưởng vào Chúa. Antôn đi theo người cha đến xe bò; làm dấu thánh giá trên thi thể người con và cầm tay nâng người con dậy. Người chết đứng dậy, đầy sự sống… Thêm một phép lạ khác hỗ trợ cho việc truyền giáo của Antôn và câu chuyện này kết thúc giai đoạn của năm 1227.
Các bài giảng cho hậu thế
Antôn rời Gémone để đến Pađua, nơi Antôn sẽ giảng Mùa Chay bắt đầu từ ngày 9 tháng 2 năm 1228. Được biết tiếng qua các lần giảng và các phép lạ trước đó, thành phố Génome nồng nhiệt đón Antôn. Ngay từ các bài giảng đầu tiên, dân chúng ở mọi nơi, thuộc mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi cùng với các tu sĩ, các linh mục đi theo giám mục của mình để đến nghe. Đám đông ước chừng đến hơn ba mươi ngàn người. Một sự việc chưa bao giờ thấy ở Pađua! Thiết nghĩ chúng ta không cần phải thuật lại các cử chỉ hòa bình, hòa giải và trở lại với đức tin của người nghe. Sau lần giảng thứ tư, các người vị vọng trong thành phố đã đến cám ơn Antôn vì Antôn đã mang hòa bình đến cho thành phố và đã làm thay đổi trái tim người dân. Họ xin Antôn viết ra giấy các bài giảng, lời yêu cầu này đã làm cho các tác phẩm “Các bài giảng ngày chúa nhật” và “Các bài giảng của thời gian” ra đời.
Trang giấy trắng
Chính trong Mùa Chay này một phép lạ đã xảy ra minh chứng cho sức mạnh tha thứ của Chúa qua quyền lực của linh mục trong phép bí tích hòa giải. Một ngày nọ, Antôn giảng say sưa hơn bình thường, được tác động bởi bài giảng, một người nghe đến xưng tội, anh buông ra tiếng thở dài sườn sượt. Anh nức nở khóc đến không thốt ra lời nên Antôn khuyên anh nên viết ra giấy để đọc cho tiện. Anh viết và đưa Antôn đọc. Nhưng khi Antôn cầm tờ giấy lên, ngài quá đổi ngạc nhiên với những gì xảy ra dưới mắt mình. Khi Antôn đọc to giọng các tội kèm theo là cử chỉ xác nhận của tội nhân, từng tờ giấy tờ này tiếp theo tờ kia biến mất. Khi đọc xong thì tờ giấy trắng tinh, trên tờ giấy không còn dấu vết gì của chữ viết. Đây là bằng chứng cho thấy cần phải đi xưng tội như Đức Thánh Cha thường xin chúng ta. Lời khuyên và khích lệ của linh mục dưới sự hướng dẫn của Thần Khí đã mang lại bình an không gì so sánh cho tâm hồn của người đi xưng tội.
Bàn chân được gắn lại
Trong số các hoa trái của việc chân thành xưng tội có câu chuyện không kém phần xúc động. Một ngày nọ một người đến xưng tội với Antôn anh đã lấy chân đá mẹ mình một cú. Antôn đau đớn trả lời: “A! bàn chân đá mẹ mình đáng bị chặt!” Chàng thanh niên tưởng thiệt chạy về nhà lấy cái rìu chặt chân mình. Bà mẹ đáng thương tìm đến Antôn, cha vẫn còn ngồi tòa. Bà khóc lóc làm cho Antôn phải ra khỏi tòa, bà trách Antôn đã cho con trai mình việc đền tội này. Antôn giải thích cho bà hiểu, con trai bà hiểu lầm vì anh không xem đây là cách nói để chân thành ăn năn. Antôn đi theo bà về nhà thăm anh con trai. Antôn đến gần anh, mỉm cười lượm bàn chân lên cắm lại vào mắt cá và làm dấu thánh giá trên đó. Vết “hàn” lành lặn và anh đứng dậy đi như thường lệ.
Ba cột trụ của Dòng
Antôn ở Pađua một thời gian, từ Pađua, Antôn điều khiển các công việc bên ngoài trong chức vụ bề trên Tỉnh dòng của mình. Nhưng trước hết, Antôn muốn củng cố người Pađua qua ba cột trụ của Dòng: các tu sĩ Dòng Phanxicô, các “Nữ tử Thánh Clara” và Dòng Ba.
Các tu sĩ Dòng Phanxicô là những người đầu tiên được hưởng lợi từ sự hiện diện của Antôn vì Antôn ở lại đan viện Mẹ Maria, đan viện này do Thánh Phanxicô xây dựng ở trung tâm thành phố.
Khi Antôn giảng, Antôn làm cho họ ý thức hơn tầm cao cả ơn gọi của mình và nhắc cho họ nhớ các đòi hỏi của Dòng. Theo gương Antôn, họ có một cuộc sống đều đặn hướng dẫn cho người dân. Antôn cũng thường xuyên đi thăm các nhóm nhỏ tu sĩ Phan sinh ở ngoài thành, gần đan viện Arcella, đan viện này cũng do Thánh Phanxicô thành lập để đón nhận các Nữ tử Thánh Clara mà ngài đảm trách phần hướng dẫn thiêng liêng cho họ. Antôn cũng thích tĩnh dưỡng ở đan viện khiêm nhường này. Ngài mời họ sưởi ấm lòng nhiệt thành của mình trong trái tim Chúa Giêsu và sức mạnh của họ trong việc đọc “quyển sách cao đẹp Thập giá”. Ngài cũng nhấn mạnh đến sự cao cả và các phần thưởng do sự hy sinh đời sống bây giờ của mình và sau khi mình qua đời để giúp cho người có tội ăn năn trở lại và cho cự cứu rỗi của thế giới.
Antôn cũng muốn giúp cho những người mộ đạo và những người trở lại gần đây để họ can đảm duy trì quyết tâm của mình. Ngài kêu gọi họ mua một mảnh đất gần bức tường thành tu viện để xây nhà đón tiếp và một nhà nguyện dâng kính Đức Mẹ có tên là “Mẹ Maria Bồ Câu” mà người Pađua gọi là “Columbini”. Dưới sự hướng dẫn của Antôn, sau đó được các anh em hèn mọn của đan viện Đức Mẹ Maria trợ giúp, họ được nhận vào Dòng ba Phan Sinh và trở thành gương mẫu cho đời sống truyền giáo.
Marta An Nguyễn dịch
Xin đọc thêm: Lời nói đầu sách Tiểu sử Thánh Antôn Pađua