Một hồng y trong xe điện ngầm

269

Một hồng y trong xe điện ngầm

Trích sách “Phanxicô, giáo hoàng của người nghèo”, Andrea Tornielli, nxb. Novalis

Đã xa cái ngày xưng tội 21 tháng 9, ngày cảm nhận mình được thương xót và được chọn để sống đời sống tu trì, bây giờ con người ấy sống đời sống cầu nguyện như thế nào?

“Đối với tôi, cầu nguyện là một hình thức buông bỏ,” Bergoglio kể trong quyển sách phỏng vấn El Jesuita (Tôi tin tưởng ở con người), “theo đó, mình đặt trọn con người mình trong sự hiện diện của Chúa. Đó là lúc đối thoại, lắng nghe, biến đổi. Nhìn Chúa nhưng trước hết để Chúa nhìn mình. Đối với tôi, đó là khi tôi lần chuỗi, khi đọc Thánh Vịnh hay khi dâng thánh lễ ca tụng Bí Tích Thánh Thể. Tuy nhiên tôi phải nói, giây phút tôi sống trải nghiệm sâu đậm nhất là lúc có thì giờ ngồi chầu Mình Thánh Chúa lâu dài. Đôi khi tôi ngồi ngủ, cứ để Chúa ở với mình. Tôi có cảm tưởng như tôi thuộc về một người khác, như Chúa đang cầm tay tôi. Tôi nghĩ phải đến được sự chân tình siêu việt của Thiên Chúa, là Đấng toàn năng nhưng lúc nào cũng tôn trọng tự do của chúng ta.”

Jorge Mario Bergoglio tiếp tục xem mình trước tiên là người cần lòng thương xót ấy, lòng thương xót mà cha rao giảng và làm chứng. “Sự thật tôi là người có tội mà lòng thương xót Chúa đã gọi tôi một cách ưu đãi. Từ khi còn trẻ, cuộc sống đã đưa đẩy tôi đến chỗ lãnh nhận những công việc mà tôi ở chức vụ điều khiển – từ khi chịu chức, tôi được đặc trách làm giáo tập, hai năm sau làm Giám tỉnh – tôi phải vừa làm vừa học, đi từ những sai lầm của mình, tôi phải nói thật, tôi phạm rất nhiều lỗi lầm. Các sai lầm, các tội lỗi. Sẽ đạo đức giả nếu bây giờ tôi nói: “Tôi xin tha thứ về những tội và những tấn công mà tôi đã có thể phạm. Hôm nay, tôi xin tha thứ về những tội và những tấn công mà tôi đã thật sự phạm.”

Bergoglio kể cho hai ký giả: “Điều làm cho tôi khổ là có những lúc, tôi đã không thông cảm và không công minh. Trong kinh cầu nguyện buổi sáng, khi đến lời nguyện, tôi xin được thông cảm và công minh, sau đó tôi xin một số những chuyện khác có liên quan đến những yếu kém trên con đường phục vụ của tôi.”

Vị tân giáo hoàng dạy học trong một thời gian dài. Trong lối dạy dỗ của ngài, gặp gỡ với người khác là yếu tố then chốt. Cũng trong quyển sách trên, Bergoglio đưa ra ví dụ: “Tôi còn nhớ lại hồi đầu những năm 90, lúc tôi làm giám mục phó ở Flores, có một nữ sinh trẻ ở trường Villa Soldati mang thai khi đang học lớp đệ thất hay đệ lục. Đây là một trong những trường hợp đầu tiên của trường này. Có nhiều phương cách để xử lý trạng huống, kể cả việc trục xuất ra khỏi trường nhưng không ai chú ý đến tâm trạng của cô gái. Cô sợ phản ứng của người khác và không muốn ai đến gần. Cho đến một ngày, có một nam giáo sư trẻ, ông đã lập gia đình và cha của nhiều đứa bé, một người tôi rất quý mến, ông đề nghị đến gặp cô gái để tìm giải pháp. Giờ ra chơi ông đến gặp, hôn cô, cầm tay cô và dịu dàng nói: “Em sắp làm mẹ?” và cô gái bật khóc. Gần gũi thân tình đã giúp cô mở lòng và để chúng ta hiểu chuyện gì đã xảy ra với cô. Điều này đã giúp chúng tôi tìm ra một giải pháp có đắn đo và trách nhiệm, tránh cho cô phải bỏ học và phải ở một mình với đứa con. Và cũng để tránh, vì đây cũng có thể là một nguy cơ, cho các bạn gái khác xem cô như người  hùng vì cô dám mang thai.

Vị giáo sư khi đến gặp cô gái là đã làm chứng tá cho cương vị của ông. Ông có thể có rủi ro sẽ nghe cô trả lời: “Việc này có dính gì đến ông?”, nhưng ông có một tấm lòng nhân đạo to lớn và một hành vi đầy tình yêu thương. Khi giáo dục chỉ dựa trên nguyên tắc lý thuyết, quên đi điều quan trọng là người trước mặt, thì dễ rơi vào con đường trào lưu chính thống, mà con đường này không hiệu lực với giới trẻ. Vì giới trẻ chỉ đồng hóa việc giảng dạy với chứng tá của cuộc sống và của sự tiếp xúc gần gũi.”

Bergoglio dùng đây là một bài học cho các cha khi họ giải tội. Cha xin họ, khi vào tòa giải tội, đừng quá nghiêm nhặt, cũng đừng quá khoan hòa. “Người nghiêm nhặt sẽ là người đơn thuần áp dụng tiêu chuẩn, không có một cái gì được phép ra khỏi luật: Luật là luật, chấm hết.” Người khoan hòa “để luật qua một bên, nó chẳng quan trọng cũng chẳng có hệ quả… cứ tiếp tục như vậy!” Vị giáo hoàng tương lai giải thích, “Vấn đề là không có ai trong hai người này sẽ săn sóc người đối diện.” Và như thế các cha giải tội phải làm gì? “Phải có lòng thương xót.”

Ai đã quen cha Bergoglio đều biết tầm quan trọng cha đặt ở quan hệ, gặp gỡ, chú tâm đến người khác. Họ sẽ hiểu cha hơn qua câu chuyện sau đây. Vào thời đó, cha Jorge Bergoglio còn là giám mục phụ tá ở địa phận Buenos Aires. Một ngày nọ, sau khi xong việc, cha nhìn đồng hồ, các nữ tu ở một dòng thuộc giáo phận Buenos Aires đang chờ cha đến giảng tỉnh tâm, cha chỉ còn đúng thì giờ để ra ga xe lửa. Nhưng cha cũng vòng lại nhà thờ vì cha có thói quen vào chầu Thánh Thể dù chỉ vài phút, để cầu nguyện trước khi đi công việc khác. Trên đường đi, có một thanh niên trẻ, có vẻ như bị vấn đề tâm lý, đến xin cha giải tội. Anh như đang say, có thể đang bị ảnh hưởng của thuốc ngủ hay thuốc an thần. “Tôi, một chứng nhân cho Phúc Âm, tôi nói với anh: “Một cha khác sẽ đến và giải tội cho anh. Tôi đang trễ giờ.” Tôi biết là vị linh mục đó sẽ không đến trước bốn giờ, nhưng tôi tự nhủ, vì anh đang dưới ảnh hưởng của thuốc, anh cũng sẽ không biết đâu, và tôi ra đi, lòng nhẹ nhõm. Nhưng sau đó, tôi cảm thấy xấu hỗ khủng khiếp, tôi quay trở lại và nói với anh: “Cha đó sẽ đến trễ, cha sẽ giải tội cho con.” Sau khi giải tội cho anh, tôi đưa anh đến trước tượng Đức Mẹ để xin Đức Mẹ gìn giữ anh và lúc đó tôi nghĩ xe lửa đã đi rồi. “Khi đến nhà ga, tôi được tin xe lửa đến trễ và tôi kịp giờ đi như chuyến dự trù. Trên chuyến về, tôi không về nhà ngay mà đi thẳng đến cha giải tội của tôi, câu chuyện này đè nặng trên lương tâm tôi. Tôi nghĩ, nếu tôi không xưng tội thì ngày mai tôi không thể dâng lễ…”

Đối với Bergoglio, chuyến xe lửa trễ là “dấu hiệu của Chúa nói với tôi: ‘Con thấy đó, mọi chuyện đều do Ta sắp xếp.’ Bao nhiêu lần trong cuộc sống, cần phải ngừng lại, đừng muốn mọi chuyện phải giải quyết ngay lập tức!” Phải kiên nhẫn, đừng tự phụ tìm được giải pháp cho tất cả mọi chuyện và “phải tương đối hóa một chút huyền nhiệm của hiệu năng.”

Tháng 3 năm 1986, Cha Bergoglio đến thành phố Munich ở Đức để hoàn tất luận án tiến sĩ. Khi về Buenos Aires, bề trên cử cha dạy học ở trường Đại học del Salvador, làm người hướng dẫn thiêng liêng và cha giải tội của dòng Tên ở Cordoba. Cha giải tội rất nhiều và khi làm giám mục, cha vẫn tiếp tục ngồi tòa. Vài năm sau, cha được phong giám mục Buenos Aires, việc phong chức này là một chuyện hoàn toàn bất ngờ.

Đó là ngày 13 tháng 5, 1992. Cha Bergoglio giữ một quan hệ tốt với sứ thần tòa thánh lúc đó là Đức cha Ubaldo Calabresi. Dù sau khi đức cha Calabresi chết, cha vẫn giữ liên lạc với gia đình của ngài, mỗi lần có dịp về Roma, cha đều thu xếp thì giờ để ăn sáng hoặc ăn tối với em của đức cha. Cha Calabresi vẫn hay hỏi ý kiến tôi về các linh mục có thể là ứng viên hàng giám mục. Ngày hôm đó, cha gọi tôi và xin tôi đến gặp riêng cha. Vì công ty hàng không có chuyến bay đi đi về về Buenos Aires, Cordoba và Mendoza nên cha hẹn gặp tôi ở phi trường khi chuyến bay từ Cordoba về Mendoza. Đó là ngày 13-05-1992 khi chúng tôi nói chuyện với nhau. Cha hỏi tôi về nhiều chuyện khác nhau, khi máy bay sắp cất cánh bay về Buenos Aires, hành khách được mời lên tàu, cha nói với tôi: “A! một chuyện sau cùng… tân giám mục phụ tá Buenos Aires đã được chỉ định và tin chính thức sẽ được công bố vào ngày 20…” Cha đơn giản báo với tôi như thế.

Như mỗi lần nhận tin vui hay tin buồn, cha Bergoglio như tê dại, bị nghẹn dưới tác động của cảm xúc. Và thế là cha bắt đầu chức vụ giám mục phụ tá hồng y Antonio Quarracino. Cha không thay đổi gì cách làm việc – gần giáo hữu, sống đơn giản, từ chối mọi xa hoa phù phiếm.

Trong quyển sách El Jesuita, (Tôi tin tưởng ở con người), cha kể câu chuyện đã xảy ra, năm năm sau đó, khi cha đang làm giám mục phụ tá Buenos Aires, đi từ chức phụ tá qua chức giám mục với quyền kế vị vì lúc đó hồng y Quarracino đau nặng. “Lúc đó tôi là tổng đại diện của hồng y Quarracino, ngài xin La Mã cho một vị giám mục phó với quyền kế vị, tôi xin cha cho tôi đừng phụ trách một giáo phận nào, mà chỉ là giám mục phụ tá phục vụ giáo phận Buenos Aires… Nhưng ngày 27 tháng 5 năm 1997, vào buổi sáng, hồng y Calabresi gọi tôi và mời tôi đến ăn sáng. Chúng tôi đang uống càphê, tôi sắp nói cám ơn cha đã mời tôi và sửa soạn về thì tôi thấy có người đem bánh ngọt và chai sâm banh đến. Tôi nghĩ là sinh nhật của cha, tôi sắp chúc mừng. Nhưng tôi ngạc nhiên khi cha trả lời tôi với một nụ cười rạng rở: “Không, không phải sinh nhật của tôi, nhưng là để mừng cha vì cha sẽ là giám mục phó với quyền thừa kế của địa phận Buenos Aires.”

Từ khi làm giám mục phụ tá ở tòa giám mục đến khi hồng y Quarracino chết, ngày 28-2-1998, Bergoglio được sự kính trọng của hàng giáo sĩ, đặc biệt là các tu sĩ trẻ. Tất cả các linh mục ở Buenos Aires đều mến chuộng tính nhân đạo, đơn sơ, những lời khuyên khôn ngoan, và cha vẫn giữ như thế cho đến khi ngài làm chủ chăn của giáo phận. Cha bắt một đường giây điện thoại trực tiếp để các linh mục có thể gọi cha bất cứ lúc nào họ gặp vấn đề. Không có hàng rào cản, thư ký, hệ thống lọc. Giám mục luôn luôn ứng trực với thuộc cấp của mình.

Bergoglio tiếp tục ngủ đêm ở giáo xứ, ở bên cạnh các linh mục bị đau, đến ngồi ở bệnh viện hàng giờ bên cạnh linh mục bị đau. Mới đầu cha từ chối đến ở trong căn biệt thự lịch sự của tòa giám mục Olivos và vẫn ở trong căn hộ nhỏ. Nhưng rồi cuối cùng cha dọn về một phòng ngủ khiêm tốn của biệt thự. Cha vẫn còn thích nấu ăn cho khách và chẳng nệ hà gì công việc rửa chén. Cha đón về ở và săn sóc một giám mục phụ tá lớn tuổi cần người săn sóc.

Cha tiếp tục trả lời riêng các cuộc gọi điện thoại, giữ một quyển sổ hẹn. Cha không có thư ký riêng nhưng có một vài cộng sự viên và một vài nữ tu giúp một số việc khác nhau. Cha tiếp tục đi xe buýt và thích đi xe buýt hơn là xe điện ngầm vì ngồi xe buýt có thể thấy được dân chúng ngoài đường. Dân thủ đô quen dần với cha và biết cha nhiều hơn. Cha ăn mặc đơn giản. Khi đi du lịch, Jorge Mario – thích được gọi là “vị linh mục thích được là linh mục” – không bao giờ quên quyển sổ ghi chú, cha ghi tay các số điện thoại của bạn bè và người quen biết.

Và lúc nào cha cũng mang quyển kinh nhật tụng, trong đó có kẹp bản chúc thư của bà nội, bà viết trước khi cha chịu chức, phòng hờ lúc bà không còn sống để dự lễ phong chức. “Tôi rất gắn bó với quyển kinh nhật tụng, đó là quyển sách đầu tiên tôi mở ra trong ngày và cũng là quyển tôi đóng lại trước khi đi ngủ.” Trong quyển sách này có kẹp bài thơ “Rassa nostrana” của Nino Costa.

Theo lời yêu cầu của hai ký giả, cha Bergoglio mở quyển nhật tụng và lấy ra bức thư của bà nội: “Trong ngày tuyệt vời mà con cầm trong bàn tay thiêng liêng của con Đấng Kitô Cứu Chuộc và cái ngày mở trước mắt con một con đường tông đồ vừa dài vừa sâu đậm nhất, bà tặng con món quà nhỏ này, nó có rất ít giá trị vật chất nhưng mang một giá trị tinh thần rất lớn.” Cùng với bức thư này, bà nội cũng viết một chúc thư – dù ngày chịu chức của cha Jorge bà có dự lễ -, trong chúc thư có câu: “Các cháu mà bà hiến tặng hết cả tâm hồn, bà mong các cháu sống lâu và hạnh phúc,  nhưng nếu có ngày nào các con bị bệnh, bị đau, bị mất người thân làm cho các con buồn thì các con nhớ, một tiếng thở dài hướng về Nhà Tạm, nơi có người thánh tử đạo cao cả nhất, uy nghiêm nhất và một ánh nhìn về Đức Mẹ dưới chân thánh giá có thể nhỏ một giọt dầu xoa dịu trên vết thương sâu thẳm nhất và đau đớn nhất.”

Năm 2001, đức giáo hoàng Gioan Phaolô II phong chức hồng y cho cha. Đó là một công nghị có tính cách lịch sử của Giáo hội, một công nghị phong rất nhiều hồng y. Về tính kham khổ của cha, người ta kể cha không mua áo đỏ mới, thích mặc áo cũ vị tiền nhiệm để lại. Nhân dịp này, cha xin giáo dân đừng qua Roma dự lễ, để tiền vé máy bay giúp người nghèo. Cha cũng nói như vậy khi lên chức giáo hoàng.

Dịp phong chức hồng y cũng là dịp cha về thăm nguồn gốc Piémont của cha. Bà Maria Elena em của cha kể: “Đúng, khi cha được phong hồng y, chúng tôi có dịp đến Portacomaro, làng của cha tôi. Tôi phải thú nhận là rất xúc động. Phong cảnh rất đẹp và chúng tôi cùng đi một vòng chung quanh các ngọn đồi này. Nhìn căn nhà nơi cha tôi sinh ra, căn vườn cha tôi chơi khi còn nhỏ, hầm rượu của bác tôi, thật không tả được, xúc cảm không thể diễn tả bằng lời.”

Giáo hội của Bergoglio thì cởi mở và có tính cách truyền giáo. Năm 2007, trả lời phỏng vấn của bà Stefania Falasca cho nguyệt san 30 Ngày, vị giáo hoàng tương lai giải thích: “Tôi không nói các hệ thống mục vụ là vô ích. Ngược lại. Tự chính nó, những gì dẫn đến con đường đưa đến Chúa là tốt. Với các linh mục của tôi, tôi nói: “Xin các cha làm tất cả những gì các cha phải làm, các cha đã biết sứ vụ của mình: xin nhận trách nhiệm và xin để cánh cửa mở ra.” Các nhà xã hội học về tôn giáo cho biết vùng ảnh hưởng của một giáo xứ có chu vi là sáu trăm mét. Ở Buenos Aires, khoảng cách giữa hai giáo xứ là hai cây số. Tuy vậy, một ngày nọ tôi đề nghị với các cha xứ thuộc quyền của tôi, tôi sẽ thuê cho họ một nhà xe, với điều kiện họ tìm một giáo dân rỗi rãnh đến đó, để ở gần dân chúng một thời gian, dạy giáo lý, cho người bệnh rước lễ hay những ai cần rước lễ. Một cha xứ nói nếu làm như vậy thì người ta sẽ không đi lễ nữa. Tôi nói: “Tại sao vậy? Bây giờ có nhiều người đi lễ không?” Cha xứ trả lời: “Không.” Vậy thì! Phải đi ra khỏi chính con người mình, ra khỏi tường rào của chính hình ảnh cá nhân, nếu nó trở thành trở ngại, nếu nó đóng cửa con đường đến với Chúa. Và đối với giáo dân cũng vậy…”

Tân giáo hoàng xem tu hội hóa giáo dân là một sai lầm: “Các linh mục muốn tu hội hóa giáo dân và giáo dân thì yêu cầu được tu hội hóa… Đó là một thông đồng đáng lên án. Chỉ có rửa tội là đủ. Tôi nghĩ đến những cộng đồng kitô ở Nhật, họ vẫn duy trì được cộng đồng dù hơn hai trăm năm không có linh mục. Khi các nhà truyền giáo trở lại, họ thấy ai cũng được rửa tội, học giáo lý, làm đám cưới theo đúng nghi thức Giáo Hội. Hơn nữa họ còn thấy người chết được an táng theo nghi thức công giáo. Đức tin vẫn còn nguyên, được bảo vệ nhờ ân sủng và đời sống của giáo dân được thánh hóa; là người được rửa tội, các giáo dân này đã sống được sứ vụ tông đồ của họ. Đừng sợ mình bị lệ thuộc vào sự Hiền Dịu của Ngài.”

Về vấn đề này, trong cuộc phỏng vấn của nguyệt san 30 Ngày, cha nhắc lại đoạn Thánh Kinh của tiên tri Giôna: “Giôna đã có những ý nghĩ minh bạch. Về Thiên Chúa, về điều thiện điều ác. Trên những gì Thiên Chúa làm và những gì Ngài muốn, về các tín hữu trung thành và không trung thành với Giao Ước. Ông là mẫu tiên tri giỏi. Và Thiên Chúa bỗng xuất hiện trong cuộc đời của ông. Chúa gởi ông đến thành phố Ninivê. Ninivê tượng trưng cho tất cả những người bị cô lập, những người thất bại, những nơi sâu thẳm của nhân loại. Của tất cả những người ở bên ngoài, ở xa. Giôna hiểu công việc Chúa giao phó cho ông: Nói với tất cả những người này, bàn tay Chúa vẫn mở rộng, Chúa ở đó để chờ họ, để chữa lành bằng tấm lòng tha thứ của Ngài, nuôi dưỡng họ bằng tấm lòng êm ái dịu dàng của Ngài. Chỉ chính vì điều này mà Chúa gởi ông đi. Chúa gởi ông đến Ninivê, nhưng ông lại trốn về vùng khác, về Tarsis.”

Bà Stefania Falasca hỏi: “Có lẽ ông muốn trốn một sứ vụ khó khăn?” Cha Bergoglio trả lời: “Không, điều ông ấy trốn không phải là thành phố Ninivê nhưng là trốn tình yêu không bờ bến của Thiên Chúa đối với con người. Điều này không đóng khung trong kế hoạch của Ngài. Ngày xưa Chúa đã đến một lần… “Còn tôi, tôi sẽ lo phần còn lại”: đó là câu Giôna đã nói. Ông muốn làm mọi sự theo cách của ông, ông muốn điều khiển! Sự ngoan cố của ông khép ông trong các thành kiến, các phương pháp, các ý kiến đã được ước định của ông. Những sợi chỉ có gai có ngạnh quấn chặc tâm hồn ông với những xác quyết mà theo lẽ phải để Thiên Chúa mở lòng ông ra với người khác, nhưng rốt cuộc tâm hồn bị nghẽn. Nhận thức cách biệt đã làm tâm hồn bị chai cứng như thế nào! Giôna không biết thế nào là Thiên Chúa, Chúa Cha đã dẫn dắt dân mình như thế nào.”

Vị giáo hoàng tương lai nói tiếp: “Các xác quyết của chúng ta có thể trở thành bức tường, nhà tù giam hãm Thần Khí. Ai để nhận thức của mình đi xa con đường của dân Chúa sẽ không biết niềm vui của Thần Khí, đấng mang hy vọng. Đó là nguy cơ của một nhận thức cách biệt, từ thế giới Tarsis khép kín của họ, họ than thở mọi chuyện hoặc cảm nhận bản sắc riêng của họ bị đe dọa, họ lao mình trong những trận chiến mà cuối cùng họ chỉ quay vòng vòng chung quanh mình.”

Ở Buenos Aires, Bergoglio là một tổng giám mục bình dân theo nghĩa đầu tiên là “gần với dân.” Bằng chứng là các thánh lễ của ngài được cử hành trong những khu vực bình dân barrios của thủ đô Argentina. Tháng 8, năm 2008, nhân dịp lễ San Cayetano, vị giáo hoàng tương lai đã đối thoại với giáo hữu trong bài giảng: “Tôi xin hỏi quý vị một câu hỏi: Giáo hội có phải là một nơi chỉ dành cho những người tốt không? “Không!” Giáo hội có chỗ cho người xấu không? “Có!” Ở đây người ta có đuổi ai ra vì người đó xấu không? Không! Ngược lại, chúng ta đón họ với một tình yêu bao la. Và ai đã dạy cho chúng ta điều này? Chính Chúa Giêsu đã dạy cho chúng ta. Quý vị tưởng tượng quả tim của Thiên Chúa kiên nhẫn với chúng ta dường nào.”

Chúng ta cũng có thể tìm thấy những ví dụ thế nào là một “Giáo hội của giáo dân” như Bergoglio mong muốn, một Giáo hội làm “dễ dàng” cho đức tin của giáo hữu hơn là “đóng khung vào luật lệ,” trong bài phỏng vấn năm 2009 của nguyệt san 30 Ngày do người bạn ký giả của cha, ông Gianni Valente thực hiện. “Chỉ mới cách đây vài ngày, tôi rửa tội cho bảy em bé con của một người đàn bà góa, nghèo, đi ở, bà có bảy người con với hai người đàn ông khác nhau. Tôi gặp bà năm ngoái trong ngày lễ San Cayetano. Bà nói với tôi: “Thưa cha, con phạm tội trọng, con có bảy đứa con và con chưa cho đứa nào rửa tội.” Thật sự bà không đủ tiền để mời cha mẹ đỡ đầu ở xa đến, hoặc không có tiền để tổ chức lễ vì bà phải làm việc… Tôi đề nghị bà đến gặp tôi. Tôi gọi bà và bà đến gặp tôi, bà nói không cách nào để mời tất cả cha mẹ đỡ đầu đến cùng một lúc… Cuối cùng, tôi nói: Chúng ta chỉ mời hai cha mẹ đại diện cho tất cả cha mẹ đỡ đầu khác. Tất cả đã đến đây, sau một buổi học giáo lý ngắn ngũi, tôi đã rửa tội cho tất cả các em ở nhà nguyện của tòa tổng giám mục. Sau buổi lễ, chúng tôi có một bữa ăn nhỏ, coca-cola và bánh mì kẹp thịt. Bà nói với tôi: “Thưa cha, con không thể tin được, nhờ cha mà con cảm thấy con quan trọng…” Tôi trả lời cho bà: “Nhưng con ơi, cha làm gì trong chuyện này? Chính Chúa Giêsu đã làm cho con cảm thấy con quan trọng.”

Đối với Bergoglio, điều tiên quyết là phải nhắc lại nguyên tắc căn bản trong Giáo luật: luật tối thượng là phần rỗi của các linh hồn. Cha rất thất vọng khi biết một vài linh mục trong giáo phận đã từ chối rửa tội cho các em bé sinh ngoài giá thú, cha nói: “Trẻ con không chịu trách nhiệm về tình trạng hôn nhân của cha mẹ. Và thường thường việc rửa tội của trẻ con cũng là dịp để cho cha mẹ trở lại.” Theo thói quen, trước khi rửa tội có một buổi ôn lại giáo lý ngắn, khoảng một giờ; sau đó trong phụng vụ có phần giáo lý khai tâm. Kế tiếp, các linh mục, các giáo dân sẽ thăm những gia đình này, đồng hành với họ trong công tác mục vụ hậu rửa tội. Cũng có khi các cha mẹ chưa làm bí tích hôn nhân, họ xin được làm bí tích hôn nhân trên bàn thờ. Thỉnh thoảng các tu sĩ, các giáo dân đồng hành với họ có thái độ gần như “bảo trợ,” xem như quyết định làm hay không làm các phép bí tích là quyền của họ.”

Vị giáo hoàng tương lai giải thích, “ở đây, dân chúng rất mộ đạo, họ muốn con cái của họ rửa tội càng nhanh càng tốt. Họ gọi các ông các bà “người rửa tội” đến rửa tội cho con họ khi con họ vừa lọt lòng, trong khi chờ đợi linh mục đến để hoàn tất thủ tục, như xức dầu thánh.”

Trong phiên họp Aparecida của Hội đồng hàng Giám mục Châu Mỹ Latinh tổ chức ở Brésil năm 2007 mà ngài đóng góp một phần lớn, vị giáo hoàng tương lai kêu gọi mọi người có một tinh thần truyền giáo.

“Phiên họp Aparecida mời gọi chúng ta rao giảng Phúc Âm bằng cách đi đến với giáo hữu chứ không chờ giáo hữu đến với chúng ta. Lòng nhiệt thành truyền giáo không đòi hỏi một biến cố phi thường nào. Sứ vụ truyền giáo được làm trong cuộc sống bình thường. Trong tất cả những chuyện này, rửa tội được dùng như một ví dụ. Các bí tích là để cho con người, những người có thể không làm gì to lớn nhưng thiện hướng trung thành, sensus fidet của họ nắm vững thực tại của bí tích rõ ràng hơn khá nhiều chuyên gia.”

Đối với Bergoglio, Giáo hội không phải chỉ dành riêng cho những người ưu tú. Và cũng không phải là một Giáo hội thuần túy, dành cho một thiểu số, đối nghịch với một Giáo hội tập thể, đông đảo tất cả những người mà theo họ kitô giáo gồm một số ít các điều căn bản và thực hành cần thiết. Vị tân giáo hoàng không đồng ý với những người có ý muốn mãnh liệt loại những người không-giữ đạo ra khỏi bí tích rửa tội và các bí tích khác.

Chính vì lý do đó ngài nói: “nhìn con người thật chứ không nhìn người khác theo con mắt mong chờ của mình và phải nhìn những gì mình cần phải làm. Không công thức, không dự đoán nhưng là hành vi cởi mở phóng khoáng. Thiên Chúa nói với những người bị thương tổn, những người yếu đuối mong manh. Hãy để cho Thiên Chúa nói… Trong một thế giới mà lời nói chúng ta không thuyết phục được, chỉ có sự hiện diện của Đấng thương yêu chúng ta, cứu chúng ta mới thuyết phục được. Lòng nhiệt thành tông đồ sẽ được làm mới lại nếu chúng ta là chứng nhân cho Đấng đã thương yêu chúng ta đầu tiên.”

Phanxicô, Giáo hoàng của người nghèo, chương 7, Andrea Tornielli, Nguyễn Tùng Lâm dịch