Home Blog Page 9

Ngày Alzheimer Thế giới: “Chúng ta phải chấp nhận người thân yêu của mình không còn là người chúng ta đã từng biết!”

Ngày Alzheimer Thế giới: “Chúng ta phải chấp nhận người thân yêu của mình không còn là người chúng ta đã từng biết!”

Trong vở kịch “Mọi con chó đều màu hồng” (All Dogs Are Pink) đang được trình diễn tại Paris, đạo diễn kiêm diễn viên Cédric Ingard đối diện với căn bệnh thoái hóa thần kinh của mẹ. Ông gởi đến chúng ta lời kêu gọi giải thoát: “Xin quý vị đừng sợ!”

lavie.fr, Véronique Durand, 2025-09-21

Trong vở kịch, Cédric Ingard thủ vai người con đấu tranh với căn bệnh của mẹ do Sylvie Fiora diễn. Hình ảnh La Vie

Xung quanh căn bệnh Alzheimer, và Ngày Thế giới bệnh Alzheimer 21 tháng 9 hàng năm, nhiều người lên tiếng để mang lại an ủi cho các gia đình bị ảnh hưởng.

Có những thực tế mới phải đối diện khi mọi quy chiếu đều mất vì căn bệnh tiến triển. Có những cái nhìn của người khác và địa vị xã hội phải duy trì khi mọi thứ sụp đổ. Có những cuộc đối đầu không thể tránh khỏi với người đang đi vào một thế giới xa lạ và đáng sợ.

Và rồi một ngày, sự ra đi đến một bến bờ khác ập đến, đôi khi để lại những tiếc nuối cay đắng. Đó chính là điều mà Cédric Ingard, tác giả kiêm diễn viên của vở kịch Tất cả các con chó đều màu hồng muốn chia sẻ.

Trong vở kịch, Cédric đóng vai José, người suy sụp vì căn bệnh của bà Suzie, mẹ của anh.

Tôi đang dọn dẹp nhà cửa và tôi bị cuốn vào các kỷ niệm của mẹ tôi. Mẹ là người hay can thiệp, bà được ban cho khả năng thuyết phục tuyệt vời. Mối quan hệ của chúng tôi rất phức tạp nhất là khi tôi ở địa vị người chăm sóc.

Vào giai đoạn này trong cuộc đời, tôi bối rối, tôi đã thất bại trong hôn nhân, mọi thứ không như ý tôi muốn. Tôi muốn biết mẹ tôi có thương tôi không, vì sao bà yêu tôi ít hơn anh tôi. Tôi muốn mẹ tôi trả lời câu hỏi cốt yếu này: “Mẹ có thương đứa trẻ ngày xưa là tôi không?” Nhưng bà không trả lời; bà dành thời gian để không trả lời.

Ông đề cập đến một chủ đề mà xã hội chúng ta đang lo sợ: bệnh Alzheimer. Vì sao ông mạo hiểm như vậy?

Tôi là diễn viên, tôi có điều muốn nói. Căn bệnh này liên quan đến tất cả chúng ta. Tôi cần kể câu chuyện này.

Vở kịch này nói về tình thương và hy vọng; nó làm cho bạn buông bỏ, muốn cho người khác một cơ hội, và muốn khán giả hiểu khi chứng kiến người thân yêu bị bệnh, chúng ta không bao giờ hình dung được những khó khăn của họ. Chính điều này làm cho chúng ta hiểu lầm nhau.

Các diễn viên của vở kịch

NICOLAS FRIESS / HANS LUCAS / LA VIE

Ngay từ buổi biểu diễn đầu tiên ở Colombes ngày 8 tháng 3 năm 2025, chúng tôi đã thấy vở kịch rất xúc động, tiếng cười vang khắp khán phòng đã khơi dậy vô vàn cảm xúc tích cực. Trong vở diễn, mỗi người khi nghĩ lại những gì mình đã trải qua hoặc đang trải qua đều có thể tự nhủ: “Tôi không phải là người duy nhất có những suy nghĩ hay phản ứng như vậy.” Họ ra về với cảm giác được giải thoát.

Vở kịch mang tính chính trị, vì mỗi màn đều mang tính chính trị, nhưng tôi đặt mình vào địa hạt thơ ca và tình yêu trước hết.

Đây là vở kịch mang lại điều tốt đẹp. Đây có phải là ý định của ông không?

Căn bệnh này ảnh hưởng đến tất cả chúng ta; nó làm chúng ta sợ hãi, vì thế chúng ta thường tránh né. Ở đây tôi đề cập đến những điều không nói ra, câu hỏi về anh chị em ruột, vợ chồng, cha mẹ, và thái độ của Suzie – người mẹ và người vợ.

Tất cả các chủ đề này đều bị kìm nén trong xã hội. Tôi nghĩ những cảm xúc bị kìm nén chính là nguồn gốc của bệnh. Ý tưởng của tôi là mở rộng vấn đề, đó là mục tiêu của vở diễn.

Trong năm qua tôi gặp một số đạo diễn tài năng ở Paris, tất cả đều nói với tôi: “Vở kịch của anh rất hay, nhưng tôi muốn nó hài hước hơn.” Tôi đã trả lời: “Nó hài hước rồi.”

Diễn viên Sylvie Fiora / NICOLAS FRIESS / HANS LUCAS – LA VIE

Bruno Banon đến với góc nhìn, sự chính xác, tính nhân văn của ông, để văn bản trở nên nhẹ nhàng. Sylvie Fiora (vai Suzie trong vở kịch) mang đến nguồn năng lượng đáng kinh ngạc và góc nhìn nhân văn cho màn trình diễn của cô. Nhờ cô mà vở kịch này ra đời, vì rất ít diễn viên có đủ tài năng để diễn vai này.

Vở kịch có được cảm hứng từ một câu chuyện cá nhân không?

Tôi dựng vở kịch này dựa trên kinh nghiệm của tôi năm tôi 24 tuổi, một kinh nghiệm tôi không bao giờ quên. Tôi làm việc ở viện dưỡng lão để có tiền trả học phí, trong ba tháng, tôi liên lạc với một phụ nữ bị bệnh Alzheimer, bà cứ nói với tôi: “Anh đẹp trai quá. Anh là ai? Anh có con không? Quan trọng là phải có con.”

Ban đầu, tôi muốn trả lời, tôi muốn giải thích cho bà, tôi muốn lặp lại lời giải thích, nhưng chỉ ba giây sau, bà lặp lại câu hỏi tương tự.

Đứng trước tình trạng này, chúng ta hoàn toàn bất lực. Khi chúng ta hiểu ra cha mẹ mình không còn nhận ra mình, chúng ta hoàn toàn mất phương hướng, chúng ta hiểu mối dây liên hệ của chúng ta trong đời sống đã không còn, nên phải thực tế với tình trạng này.

Làm sao giữ liên hệ với người thân yêu trong thế giới hoàn toàn xa lạ với chúng ta?

Căn bệnh này rất phức tạp, phải chấp nhận buông bỏ, chấp nhận người thân của mình không còn là người như trước, người chúng ta đã biết, đó là cách duy nhất để chúng ta đi với họ. Tôi nghĩ đó là vết nứt giữa hai thế giới, giúp chúng ta thấy sự thật và bỗng nhiên mọi sự được sáng tỏ. Lúc này lúc kia chúng ta có câu trả lời khi trực tiếp khi gián tiếp, nhưng không trả lời cũng là một cách trả lời. Chấp nhận người kia không còn là người như trước và sẽ không bao giờ là người như trước, đó cũng là một câu trả lời.

Căn bệnh này có làm ông sợ không?

Không! Chết là một phần của đời sống. Tôi không nói là tôi không thông cảm với sự lệ thuộc và lo lắng của cha mẹ tôi, của những người tôi thương yêu đã mất tự lập.

Đâu là thông điệp ông muốn gởi đến các gia đình có thân nhân bị bệnh Alzheimer?

Chúng ta ở đây để chia sẻ các kinh nghiệm khó khăn, nó giúp chúng ta trở nên con người thật của mình, con người của chúng ta trước khi chúng ta có kinh nghiệm biến đổi này. Chúng ta biết những gì nuôi dưỡng chúng ta là nhờ kinh nghiệm truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, và chúng ta tiếp tục sống qua người khác. Tôi thích câu này của đạo diễn Denis Imbert, nhà thực hiện phim Trên các con đường: “Chúa Giêsu nói đứng dậy và đi, Ngài không nói để chữa lành.”

Cách đây hai năm khi tôi lên đường đi Compostelle, hôm đó trời mưa, bình thường tôi đi với các bạn, nhưng hôm đó tôi đi một mình. Tôi đọc câu của Chúa: “Đứng dậy và đi!” Và tôi lên đường, đó là hành trình đẹp nhất tôi đã đi. Khi chúng ta đi, chúng ta nhìn, chúng ta tiếp nhận, chúng ta suy niệm, chúng ta được nuôi dưỡng. Chúng ta không được tạo dựng để ngồi một chỗ, vì thế tôi ra đi, tôi muốn nói: “Đừng sợ!”

“Nếu có khả năng, ông sẽ nói gì với những người ra đi?” Đó là đường hướng chỉ dẫn của vở kịch của ông.

Đúng! Nếu chúng ta may mắn có được lời cảnh báo: “Chỉ còn một giờ để ở với người này, bạn muốn nói gì với họ?”

Cơ hội cuối cùng này đến với chúng ta, đó là lúc chúng ta buông tất cả những gì làm chúng ta vướng bận để tận hưởng sự hiện diện của Ngài, sợi dây liên kết vẫn còn đó. Chúng ta đã mất quá nhiều năng lực để giữ lấy mọi sự, đã đến lúc chúng ta phải biết buông bỏ, như thế sẽ giải thoát chúng ta hơn là cứ nắm giữ bằng mọi giá!

Chúng ta cần người khác để bỏ những thứ cồng kềnh. Chính vì thế, tương tác là quan trọng.

Ít người biết diễn tả cảm xúc của họ trước căn bệnh này. họ trải qua thử thách này một cách đặc biệt không? 

Cảm xúc của đàn ông-đàn bà thì gần giống nhau, nhưng đàn ông ít nói ra hơn. Chúng ta không thể đánh giá cách họ chịu đựng đau đớn mạnh hơn hay yếu hơn. Tôi thấy tương tác giữa mẹ và con trai rất hay. Nhưng trong cách nói lên những chuyện hiểu ngầm thì không có gì khác biệt, vì các bí mật gia đình không có giới tính. Tôi thắc mắc về quan hệ giữa mẹ và con trai, một người cha đã trả lời rất hay: “Dù sao tôi cũng chỉ đứng hàng sau, vì hàng đầu là người mẹ, họ có 9 tháng với con trai của họ trước tôi.”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Hồng y Newman, vị thánh của thời chúng ta

Tại Chicago, chân dung của Đức Lêô XIV: “Nhân đạo, lắng nghe, luôn đứng về phía người đau khổ”

Hồng y Newman, vị thánh của thời chúng ta

Hồng y Newman, vị thánh của thời chúng ta

fr.aleteia.org, Marzena Devoud, 2025-09-28

Hồng y John Henry Newman được tôn vinh ngày 9 tháng 10, hội tụ đầy đủ mọi yếu tố cần thiết để trở thành bậc thầy tâm linh đích thực của thời hiện đại. Linh mục Keith Beaumont, một trong các chuyên gia lớn nhất về Hồng y Newman nói về ngài.

Là thần học gia, tiểu thuyết gia, triết gia, nhà thơ, anh hùng dân tộc, một quý ông đích thực, Hồng y Newman (1801-1890) đã vun đắp nghệ thuật kết bạn không ai sánh bằng, ngài luôn thu hút và ảnh hưởng đến nhiều người đi tìm ý nghĩa cuộc sống như một nam châm. Sinh ra vào đầu thế kỷ 19 tại Anh, ngài đã trở thành người lãnh đạo công cuộc đổi mới Giáo hội Anh giáo trước khi trở lại đạo công giáo. Ngài là một trong những nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời đại.

Tuy nhiên, việc tập trung vào hình ảnh trí thức lỗi lạc sẽ là hiểu lầm về cuộc đời của ngài. Bản tính khép kín, ngài cư xử rất nồng hậu. Ngài được công nhận qua tài năng lắng nghe người khác một cách trọn vẹn. Việc ngài chọn huy hiệu hồng y cho thấy rất nhiều điều về ngài: Cor ad cor loquitur (Trái tim nói với trái tim). Ngài trở thành vị thánh có ảnh hưởng thực sự của thời hiện đại.

Cha Keith Beaumont, tu sĩ dòng Oratorian, tác giả các tác phẩm tham khảo về Thánh Newman, trong đó có quyển Thiên Chúa Bên Trong: Thần Học Tâm Linh của John Henry Newman.

Newman là người cầu nguyện với đời sống tâm linh vô cùng phong phú. Linh mục Keith Beaumont giải thích trên trang Aleteia: “Các bài giảng và thư từ của ngài để lại cho chúng ta một di sản tâm linh phong phú dựa trên một tâm lý học sâu sắc, thực tế và phê phán. Điều này làm cho ngài là một trong những bậc thầy tâm linh vĩ đại của thời hiện đại.”

Hồng y đồng hành cùng hàng ngàn người đến nghe ngài giảng đạo hoặc viết thư xin ngài lời khuyên về cả thần học lẫn tâm linh. Linh mục Beaumont nhấn mạnh: “Theo Hồng y Newman, có hai điều không thể tách rời: Thần học phải phục vụ đời sống tâm linh, thần học thường bị tách rời khỏi đời sống tâm linh. Có lẽ đây là lý do vì sao ngài biết cách nói về Chúa một cách rất nhẹ nhàng, không bao giờ hiếu chiến, không bao giờ đạo đức giả.”

Một người của Chúa đi tìm chân lý

Newman là người của Chúa theo nghĩa sâu sắc nhất của từ này. Ngài tuyệt đối đi tìm kiếm chân lý. Vì thế ngài bị Anh giáo tẩy chay chỉ sau một đêm, khi ngài trở lại đạo công giáo. Tuy nhiên, ngài không hề thay đổi bất cứ điều gì trong các tác phẩm của ngài trước khi ngài trở lại. Với ngài, các tác phẩm này vẫn còn giá trị vì chúng được dẫn dắt bởi chính hành trình đi tìm chân lý của ngài. Linh mục Beaumont giải thích: “Từ năm 15 tuổi, ngài đã có một kinh nghiệm sâu sắc về Chúa, ngài mô tả đó là sự hiện diện trong phần sâu thẳm nhất của chính mình.” Trong tác phẩm tự truyện Apologia pro vita sua, ông nói lên sự hiện diện này của Chúa, điều không bao giờ rời xa ngài.

Nhà thuyết giáo được lắng nghe nhiều nhất ở Anh

Hồng y Newman là người hành động không biết mệt mỏi. Ngài lãnh đạo phong trào đổi mới rộng lớn trong Giáo hội Anh giáo, ngài tiếp tục thành lập Đại học Công giáo Ireland ở Dublin và Nhà nguyện Thánh Philip Neri ở Anh.

Là tác giả của vô số sáng kiến khác, gần như ngài làm “mục tử” suốt đời: linh mục giáo xứ, lãnh đạo cộng đồng, hướng dẫn thiêng liêng cho hàng ngàn người. Trong khoảng 15 năm, ngài là nhà thuyết giáo được lắng nghe và đọc nhiều nhất ở Anh!

Một nhà văn Anh vĩ đại

Newman là một trong những nhà văn Anh vĩ đại nhất của thế kỷ 19, là một trong những nhà châm biếm vĩ đại nhất mọi thời. Linh mục Beaumont nhận xét: “Thật đáng tiếc khi, sự mỉa mai tinh tế và rất ‘Anh’ của ngài đã không được các dịch giả Pháp nhận ra!” Ngài là tác giả của khoảng 60 quyển sách và vẫn còn nhiều tác phẩm chưa được xuất bản.

Ngài cũng là tác giả của một khối lượng thư từ đồ sộ, gồm hơn 20.000 lá thư. Vẫn còn rất nhiều lời cầu nguyện, suy ngẫm, thơ ca, và hai quyển tiểu thuyết chưa được xuất bản. Vì thế trong suốt cuộc đời của ngài, khi một số người gọi ngài là “thánh”, ngài phản đối, ngài nói các thánh không viết tiểu thuyết!

Một tín hữu kitô, không chỉ là người công giáo

Trước khi trở lại đạo công giáo, ngài đã có những cải cách sâu sắc với Anh giáo. Khi ngài qua đời năm 1890, Keith Beaumont, người bạn Anh giáo và là Viện trưởng Nhà thờ St. Paul ở London giải thích: “Ngài là người sáng lập Giáo hội Anh giáo như chúng ta biết ngày nay. Cần lưu ý, chỉ một phần Giáo hội Anh giáo được biến đổi, đó là lý do vì sao ngày nay nhiều tín hữu Anh giáo tôn vinh ngài như người tái lập Giáo hội của họ. Giống như người công giáo, họ tôn kính ngài gần như một vị thánh!”

Ngài sẽ là Tiến sĩ Hội thánh

Nếu Newman hoàn toàn xứng đáng được công nhận là mẫu mực của thánh thiện, thì đó không phải chỉ vì cuộc đời ngài nhưng còn vì bản chất mẫu mực trong tư tưởng của ngài. Là nhà văn và bậc thầy tâm linh, việc ngài được phong thánh sẽ cho phép ngài được tuyên bố là Tiến sĩ Hội thánh. Đây là điều mà mọi giáo hoàng kể từ Đức Piô XII đều mong muốn, Đức Phaolô VI và đặc biệt là Đức Bênêđictô XVI am hiểu sâu sắc về tư tưởng và công trình của Hồng y Newman.

Kể từ khi ngài được phong chân phước năm 2010, Đức Bênêđictô XVI đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng trong tư tưởng của Hồng y Newman, đặc biệt là những hiểu biết sâu sắc của ngài về lương tâm, mối quan hệ giữa đức tin và lý trí, vị trí quan trọng của tôn giáo mặc khải trong xã hội, và một cách tiếp cận mới về giáo dục.

Linh mục Beaumont nói trên trang Aleteia: “Tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng đặc biệt với quan niệm của ngài về giáo dục, một quan niệm đã có ảnh hưởng to lớn trong việc hình thành nên tinh thần, động lực thúc đẩy các trường học và cao đẳng Công giáo ngày nay. Tôi hy vọng Đức Phanxicô sẽ nhanh chóng mở đường cho việc công nhận ngài là thần học gia vĩ đại.”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Ngày Alzheimer Thế giới: “Chúng ta phải chấp nhận người thân yêu của mình không còn là người chúng ta đã từng biết!”

Tại Chicago, chân dung của Đức Lêô XIV: “Nhân đạo, lắng nghe, luôn đứng về phía người đau khổ”

Cha Robert và Thời của các giáo dân ở Peru

Cha Robert và Thời của các giáo dân ở Peru

osservatoreromano.va, Paola Ugaz, 2025-09-25

Năm 1990, khi 23 tuổi, bà Alicia Azabache đã gặp Đức Lêô tương lai ở Trujillo, thủ phủ của La Libertad, miền bắc Peru, khi đó ở đây chưa có giáo xứ, nhưng linh mục Robert Prevost đã xin làm việc ở nơi chưa có gì: “Chúng tôi bắt đầu dọn dẹp và sắp xếp mọi thứ với các bạn trẻ ở đó. Những chiếc ghế dài bằng gỗ là những chiếc ghế chúng tôi đã dùng trước đây.”

Bà Alacia nhớ lại: “Ngài cử hành Thánh lễ theo một cách hoàn toàn khác với những gì tôi đã biết, vì ngài nói chuyện với chúng tôi như thể chúng tôi là một phần của gia đình. Vì thế ngài đã khơi dậy niềm tin và sự tín nhiệm trong chúng tôi, cho chúng tôi cảm giác mọi thứ rồi sẽ ổn”, giáo xứ Santa Rita da Cascia được xây nhờ các hoạt động gây quỹ cộng đồng như chơi bingo và các lễ hội ẩm thực.

Năm 1988, Robert Prevost và các anh của ngài bắt đầu làm việc tại Trujillo theo kế hoạch mục vụ Nueva Imagen de Parroquia (Nip), vốn đã mang lại kết quả tốt đẹp tại Chulucanas, thuộc vùng Piura của Peru.

Tại Hội nghị Medellín (tháng 8 năm 1968), nơi Công đồng Vatican II được suy ngẫm, việc thành lập các cộng đồng giáo hội được xem như con đường để sống đức tin.

Trong hồi ký của Giám mục Dòng Augustinô Juan McNabb, Dẫn đến nơi tôi không định đến (2012), ngài đề xuất thành lập một mạng lưới các cộng đồng kitô giáo nhỏ bao gồm tất cả những người đã được rửa tội, chứ không chỉ những người đi lễ, ngài nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đào tạo liên tục về Kinh Thánh cho các tín hữu.

Các tu sĩ dòng Augustinô định cư tại giáo phận Chulucanas và Trujillo đã tổ chức mục vụ truyền giáo của họ thành các “khu vực mục vụ”, mỗi khu vực có một điều phối viên, thư ký, sứ giả, giáo lý viên, chuyên viên phụng vụ, quản lý dịch vụ xã hội và các nhân viên khác. Tổ chức này hoạt động rất hiệu quả, giáo dân rất đông và vì thiếu điện và đường xá, đôi khi không có phương tiện liên lạc. Mục tiêu là xác định các vấn đề của cộng đồng trong các lĩnh vực y tế, giáo dục và dinh dưỡng ngay từ đầu, để tìm ra giải pháp chung.

Đến năm 1976, tại Chulucanas, linh mục Arturo Purcaro đã thành “chuyên gia về Chương trình Truyền giáo Quốc gia (NIP)” và đã giúp đào tạo nhiều nhà truyền giáo mới cho chương trình, tác giả John Joseph Kelly ghi lại trong quyển sách Câu chuyện về Giáo hạt Chulucanas, xuất bản năm 1989.

Trong một phỏng vấn với tờ L’Osservatore Romano, Juan Lydon nhớ lại, ngoài Purcaro, Tôi tớ Chúa Juan McKniff là người quảng bá rộng rãi Hội Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm (NIP) ở ngoại ô Chulucanas. Ngài là giáo sĩ bị trục xuất khỏi Cuba, nhưng khi trở về Hoa Kỳ, ngài xin gia nhập một phái bộ truyền giáo.

Một người “phi thường”

McKniff là nhân vật “phi thường”, ngài đến Chulucanas khi đã 68 tuổi. Ngài đi bộ đến thăm các cộng đồng, tin chắc Giáo hội phải đến nơi có giáo dân, chứ không ngược lại. Ngài là hình ảnh phản chiếu trung thực của Hội Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm, một tổ chức ưu tiên cho giáo dân, tách khỏi quan điểm cố định của Giáo hội, theo đó không có gì hoạt động nếu không có linh mục.

Mặc áo dòng trắng, đội mũ rơm rộng và với một năng lực phi thường, ngài tổ chức Hội Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm ở mỗi làng. Nhờ ngài, có nhiều nhóm Hội Dòng Đức Mẹ ở Chulucanas hơn các nơi khác trên khắp Peru. Ngài hết lòng kính mến Đức Mẹ, nhấn mạnh đến tầm quan trọng của Mẹ trong việc đồng hành với giáo dân. Cầu nguyện và công tác mục vụ là điều thiết yếu. Ngài luôn làm việc vì người nghèo, ngài sống cuộc sống thánh thiện. Ngài qua đời tại Miami, các anh em của ngài đã đưa ngài từ Hoa Kỳ về Peru, họ chuẩn bị một nơi đặc biệt để chôn cất ngài tại Chulucanas (tháng 5 vừa qua), vì ngài đã làm phần lớn công việc mục vụ của ngài ở đây.

Năm 1991, khi bà Alicia Azabache 23 tuổi, bà được chọn làm điều phối viên cho khu vực của bà: “Ngay lập tức tôi hỏi Cha Prevost, ‘Con nên làm gì?’ Trước hết, ngài truyền cho tôi sự bình tĩnh, và sau đó ngài nói tôi phải tích cực tham gia vào Giáo hội, tổ chức khu vực của mình và học hỏi Kinh Thánh.”

“Ngài đã giúp tôi mọi việc với tư cách là điều phối viên mục vụ”

Hội Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm đã đoàn kết tất cả chúng tôi. Khi tôi nghe Đức Phanxicô nói về một Giáo hội Công đồng, tôi nghĩ chúng tôi đã sống điều này từ lâu: đoàn kết và cùng nhau làm việc, tôn trọng lợi ích của cộng đồng.

Khi đó Linh mục Robert Prevost đã làm việc tại khu vực gần Cầu Moche, nơi người di cư chạy trốn khỏi dãy Andes sau khi nhóm khủng bố Shining Path đến. Bà Alicia nhớ lại: “Mỗi nơi chúng tôi đến, Cha Robert đều nói, ‘Alicia, hãy cùng với các bạn trẻ đi gõ cửa từng nhà. Chúng tôi bắt đầu làm việc tại khu vực Cầu Moche vì có rất nhiều người sống trên chiếu trong những túp lều nhỏ. Năm 1993, tôi làm việc tại Caritas và tại Giáo xứ. Với chiếc xe tải, chúng tôi mang theo thức ăn, quần áo và đồ chơi vào dịp Giáng sinh. Chúng tôi tổ chức các chiến dịch y tế và các khóa học giáo lý, tiếng Anh và toán vào mùa hè.”

Khoảnh khắc gia đình

Trong các khu vực mục vụ, vai trò của phụ nữ luôn được khuyến khích. Đó là lý do vì sao khi bà Alicia trở thành điều phối viên đầu tiên và bắt đầu xây dựng nhà thờ Santa Rita da Cascia, tính cách quyết đoán nhưng vui vẻ của bà đã làm bà có biệt danh “linh mục giáo xứ”. Việc giao tiếp giữa các khu vực được duy trì để đáp ứng nhu cầu của từng cộng đồng về sức khỏe, giáo dục và dinh dưỡng.

Vào những năm 1990, với sự hỗ trợ của các tu sĩ dòng Augustinô, các bếp ăn từ thiện được thành lập, tại đây các nhóm phụ nữ làm việc để nấu ăn cho cộng đồng, họ được cung cấp dụng cụ nấu nướng và thức ăn cho rất nhiều người. Bà Alicia nhớ lại: “Một ngày nọ, tôi bị đau lưng khi chơi bóng chuyền và không thể đi được. Mỗi ngày, Cha Robert đích thân hoặc cha nhờ người đến thăm tôi vì tôi rất yếu. Một ngày nọ, một người mặc áo dòng Augustinô xuất hiện, tôi không nhìn thấy mặt ông, ông nói với tôi: ‘Alicia, mọi chuyện rồi sẽ qua.’ Từ ngày đó, vết thương ở lưng tôi biến mất, và tôi có thể đi lại được.” Bà khẳng định với đôi mắt mở to: “Đây là lời chứng của tôi.”

Sau kinh nghiệm bị suy yếu này, bà Alicia nhớ lại những khoảnh khắc hạnh phúc bên Cha Robert, gia đình và người dân trong vùng: “Chúng tôi nhảy theo mọi điệu nhạc. Trong những năm 90 có bài hát nổi tiếng El meneíto của Natusha. Gia đình tôi và tôi đều nhảy theo bài hát này mỗi dịp sinh nhật, Giáng sinh và đêm giao thừa. Sau đó, Cha Robert cử hành thánh lễ, kết thúc bằng giờ chia sẻ.”

Hiện nay bà Alicia tiếp tục làm việc tại nhà thờ Santa Rita da Cascia, tự hào nhớ lại hành trình dài mà bà và cộng đoàn cùng người bạn Robert làm việc chung với nhau: “Chúng tôi có nhiều thành tựu, và nhờ những lời dạy của ngài, chúng tôi tiếp tục gieo hạt giống trên đường đi.”

Dòng Chúa Cứu Thế ra đi và Dòng Thánh Augustinô đến

Cuộc gặp với Socorro Cassaro và Alicia Chang tại nhà của Socorro tràn ngập kỷ niệm, tiếng cười và các giai thoại đan xen, đáng chú ý nhất là ngày họ gặp Cha Robert năm 1989. Họ mong đợi một linh mục lớn tuổi mặc áo dòng, nhưng thay vào đó, một linh mục đến trong bộ quần jean và trang phục trẻ trung.

Socorro và Alicia là thành viên của cộng đồng giáo dân tại Nhà thờ Monserrate ở Trujillo. Đầu năm 1994, do tình hình khó khăn, Dòng Chúa Cứu Thế sắp rời Peru, cộng đoàn xin Giám mục Trujillo cho phép Dòng Augustinô thay thế Dòng Chúa Cứu Thế để hỗ trợ Giáo hội địa phương.

Ngay lập tức Dòng Augustinô bắt tay vào việc phát triển các khu vực mục vụ và xây dựng Giáo xứ Monserrate tại Trujillo. Cả Alicia Chang và Socorro Cassaro đều cảm thấy mình là một phần thiết yếu của Giáo hội. Socorro hiện chịu trách nhiệm truyền cảm hứng cho giáo dân.

Alicia Chang được mệnh danh là “chuyên viên phụng vụ” nhờ kiến thức sâu rộng về Kinh Thánh, chuẩn bị chu đáo tài liệu cho các bài giảng, lo các lớp học giáo lý và hướng dẫn người đọc trong thánh lễ. Chang và Cassaro chào đón các tu sĩ Augustinô đến Trujillo, và vì lý do này, bà được gọi là “Mẹ”.

Bà Alicia giải thích: “Chúng tôi là tu sĩ Augustinô, chúng tôi dần dần hiểu Thánh Augustinô ‘Con tìm kiếm Chúa ở bên ngoài, và Chúa ở trong con,’ chúng tôi tự tổ chức dù có linh mục hay không.” Socorro Cassaro cười to kết luận: “Chúng tôi cũng là tu sĩ Augustinô như các Cha Dòng Augustinô. Họ biết điều này.”

Nhà đào tạo mới

Ngày 28 tháng 8 năm 1990, Tổng Giám mục Manuel Prado Pérez-Rosas của Trujillo làm phép Nhà Đào Tạo San Vicente, nơi những người đào tạo đầu tiên là Robert Prevost, Cha Juan McKniff và Gerardo Theis, cả hai đều đã qua đời. Các chủng sinh đến nhà này từ các giáo hạt San Juan de Sahagún, San Agustin de Apurímac và Iquitos.

Đức Lêô XIV đã lãnh đạo việc đào tạo các ứng sinh Dòng Augustinô tại Chulucanas, Iquitos và Apurímac từ năm 1988 đến năm 1999. Ngài cũng từng là đại diện tư pháp của tổng giáo phận, giáo sư Giáo luật và Luân lý tại Đại Chủng viện, giám đốc học vụ và quyền giám đốc.

Đó là thời điểm khó khăn: ngày 5 tháng 4 năm 1992, Tổng thống lúc bấy giờ là Alberto Fujimori đã giải tán ngành tư pháp, Viện Công tố Văn phòng Tổng thống và Quốc hội. Hơn nữa, có những báo cáo về các vụ giết người ngoài vòng pháp luật được cho là do nhóm Vladimiro Montesinos, cánh tay phải cũ của Fujimori, thành lập, có tên là Colina.

Cha John Lydon nói với chúng tôi: “Họ tham gia các hội nghị và tuần hành để cố gắng nâng cao nhận thức về nhân quyền. Đó không phải là vấn đề chính trị. Giáo hội bảo vệ phẩm giá con người. Và chúng tôi cố gắng đóng góp vào việc khôi phục nền dân chủ như một giá trị Phúc Âm. Chúng tôi đào tạo những người trẻ vì họ là một phần trong tầm nhìn mục vụ và Phúc Âm của chúng tôi.”

Cha Amiro Castillo, cha sở Dòng Augustinô tại Trujillo, nhớ lại tuần lễ thần học do Đức Lêô tổ chức, trong đó hai vị đã thảo luận về việc chính quyền Fujimori đã chiếm kênh truyền hình của Baruch Ivcher: “Tôi gặp ngài năm 1996: ngài là người lắng nghe, ngài thích làm tài xế đưa chúng tôi đến chủng viện mỗi ngày, ngài quan tâm đến điểm học bạ của chúng tôi và khuyên chúng tôi trở thành linh mục tốt.” Cha nhớ lại lời khuyên của Đức Lêô khi không thể tập trung cầu nguyện: “Con vào phòng, đóng cửa lại, thắp ngọn nến ở giữa, sẽ giúp con tập trung và trở thành một tu sĩ Augustinô sốt sắng.”

Trong phòng thánh của nhà đào tạo, có phòng trưng bày ảnh của triển lãm “Yuyanapaq” do Mayu Mohanna và Nancy Chappell phụ trách, thành quả của Ủy ban Chân lý được thành lập tại Peru năm 2001.

“Nếu bạn muốn hòa bình, hãy hành động vì công lý.”

Hàng tuần chúng tôi họp tại nhà đào tạo ở Trujillo để thảo luận về các vấn đề của đất nước, trong các cuộc họp này, chúng tôi quyết định liệu các chủng sinh có thể tham gia các cuộc tuần hành ủng hộ dân chủ và bảo vệ nhân quyền hay không: “Chúng tôi đã tham gia nhiều cuộc biểu tình khác nhau, chúng tôi luôn mang theo một tấm biển có câu của Đức Phaolô VI: ‘Nếu bạn muốn hòa bình, hãy hành động vì công lý.’ Mục tiêu của chúng tôi là thúc đẩy nhân quyền. Năm 1998, nhân dịp kỷ niệm 50 năm Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, chúng tôi đã thu thập chữ ký cho Điều phối viên Quốc gia về Nhân quyền. Chúng tôi tổ chức thông qua các giáo xứ, các quận, và chúng tôi đã thu thập được nhiều chữ ký. Giáo xứ chúng tôi thu thập nhiều chữ ký hơn bất kỳ nơi nào khác ở Peru. Thật tuyệt vời.”

Nhân dịp này, một quyển sách nhỏ về các quyền cơ bản đã được xuất bản, và một buổi lễ đã được tổ chức với sự tham dự của đại diện Điều phối viên Quốc gia về Nhân quyền tại Trujillo. Buổi lễ cũng có sự tham dự của Đức Lêô. Tất cả ở trong quá trình hình thành nhân cách của các chủng sinh Augustinô sống tại Trujillo.

Cha Lydon nhớ lại trong một sự kiện truyền hình có tên “Teleton”, được phát sóng từ Lima trên toàn quốc để gây quỹ cho người khuyết tật, một buổi hòa nhạc đã được tổ chức tại Quảng trường Plaza de Armas của Trujillo. Một nhóm chủng sinh Augustinô mang tên Leche Gloria đã biểu diễn, họ hát một bài hát phản đối vụ thảm sát sinh viên phi pháp tại Đại học La Cantuta do nhóm Colina gây ra.

Nhóm Leche Gloria đã biểu diễn tại Quảng trường Plaza de Armas của Trujillo, sự kiện đã được phát sóng trên toàn quốc. Bài hát nhấn mạnh đến phẩm giá và sự thật: rằng những người vô tội đã bị giết hại. Hài cốt của các sinh viên được chuyển đến trong một thùng có tên Leche Gloria.

Bài học về Học thuyết Xã hội

Khi còn là giám mục Chiclayo, Hồng y Robert Prevost đã viết lời tựa cho quyển sách Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội: Lịch Sử và Bài Học (Đại học Công giáo Trujillo, Peru, 2022) của Juan José Lydon. Ngài đặt câu hỏi: “Chúng ta có thể học được gì từ học thuyết xã hội của Giáo Hội Công Giáo?” Về cơ bản, tôi nghĩ câu trả lời này đã được đưa ra. Học hỏi nằm ở cách chúng ta tiếp cận các vấn đề xã hội: tôn trọng thực tế, cân nhắc đúng đắn các nguyên tắc đạo đức cần thiết, hành động nhưng không áp đặt hay tuyên bố tính phổ quát, ứng phó với những vấn đề thực tế của ngày nay.

Hồng y Prevost kết luận: “Chúng tôi hy vọng quyển sách này sẽ hướng dẫn sinh viên hiểu được sự phong phú của học thuyết xã hội của Giáo Hội và hình thành lương tâm chính trị và xã hội, một lương tâm kitô giáo có khả năng phá vỡ những định kiến cá nhân và văn hóa, đồng thời thúc đẩy chúng ta xây dựng thế giới mà chúng ta mơ ước.”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Grégoire: “Mất hai người anh đã cho tôi sức mạnh để truyền hy vọng”

Domitille Chomel: “Một gia đình có đức tin là một gia đình hạnh phúc”

“Sự nhạy bén” của giáo dân là kim chỉ nam quý giá cho Giáo hội

Domitille Chomel: “Một gia đình có đức tin là một gia đình hạnh phúc”

Domitille Chomel: “Một gia đình có đức tin là một gia đình hạnh phúc”

fr.aleteia.org, Anna Ashkova, 2025-07-31

Domitille và Jean-Baptiste Chomel tự hào là cha mẹ của bảy người con.

Bà Domitille Chomel, bác sĩ chuyên khoa, mẹ của bảy người con, bà tham dự chương trình “Gia đình đông con” trên kênh TF1. Bà chia sẻ trên trang Aleteia về cách bà cân bằng giữa thiên chức làm mẹ, công việc và cuộc sống của một người vợ. Kết hôn với bác sĩ quân y Jean-Baptiste, 38 tuổi, bà vừa dọn về Đức làm bác sĩ chuyên khoa.

Aleteia: Bà có bảy người con: Isaure (13 tuổi), Athénạs (11 tuổi), cặp song sinh Aubert và Azélie (9 tuổi), Andéol (5 tuổi rưỡi), Aliénor (4 tuổi) và Zita (2 tuổi). Bà sinh con đầu lòng khi còn là sinh viên y khoa. Làm thế nào bà cân bằng được việc học hành căng thẳng và thiên chức làm mẹ?

Bà Domitille Chomel: Chúng tôi kết hôn khi còn trẻ, tôi là sinh viên y khoa năm thứ tư, Isaure chào đời một năm sau. Ai cũng nghĩ trường y và thiên chức làm mẹ là không thể dung hòa. Đúng, chuyện này rất phức tạp, nhưng nếu chúng ta có đủ điều kiện thì hoàn toàn có thể. Tôi không phải là người mẹ đầu tiên ở trường đại học. Athénạs ra đời khi tôi bắt đầu đi thực tập. Một trong những khó khăn là theo các kỳ thực tập dù tôi được nghỉ thai sản. Chúng tôi muốn đợi đến giữa kỳ thực tập mới sinh đứa thứ ba. Chúng tôi có hai đứa con sinh đôi, chúng tôi biết chúng tôi có khả năng sẽ sinh con đôi tiếp, nên tôi không ngạc nhiên khi biết chúng tôi sẽ có bốn đứa con. Điều khó khăn nhất là các con phải nằm ba tuần ở khoa sơ sinh vì sinh non. Chồng tôi và tôi đều là bác sĩ, gia đình chúng tôi không ở gần nhau về mặt địa lý. Chúng tôi phải sắp xếp để không trực cùng một lúc, có khi chúng tôi phải nhờ đến bảo mẫu ban đêm. Điều thực sự khó khăn là việc mang thai của tôi. Ban đầu, tôi rất mệt và buồn nôn. Buổi tối khi Jean-Baptiste đi làm về, anh lo mọi việc. Anh là chỗ dựa của tôi, nếu tôi không có người chồng như vậy, tôi không thể có nhiều con như vậy.

Gia đình đông con có phải là gia đình mà cả hai vợ chồng đều quen thuộc không?

Cả hai chúng tôi đều là con cả trong gia đình đông con. Tôi có sáu anh chị em, Jean-Baptiste có năm. Đó là kiểu gia đình chúng tôi đã quen thuộc. Một cách vô hình, chúng tôi lặp lại một số cách giáo dục của cha mẹ.

Như việc xưng hô trang trọng “vous”?

Cả hai chúng tôi đều xưng hô trang trọng “vous” với cha mẹ. Nhưng chúng tôi đã suy nghĩ kỹ trước khi xưng hô với con cái. Cuối cùng, chúng tôi chọn cách xưng hô này vì chúng tôi muốn con cái học cách xưng hô trang trọng “vous” với người lớn. Ngày nay cách xưng hô không trang trọng “tu” rất phổ biến, đặc biệt ở trường học, đến nỗi chúng tôi nghĩ nó sẽ giúp các con học cách xưng hô trang trọng với người lớn. Nhưng điều này không hề tạo bất kỳ rào cản nào giữa chúng tôi và con cái và hoàn toàn không ảnh hưởng đến tình yêu chúng tôi dành cho nhau.

Bà là bác sĩ, bà chu toàn việc nhà, may quần áo cho con, nấu ăn, giúp con làm bài tập… Bí quyết của bà là gì?

Chúng tôi sống, chúng tôi thích nghi với những gì chúng tôi có. May vá là sở thích của tôi, tôi thích nhưng tôi không may thường xuyên. Nấu ăn không phải là việc vặt, tôi thích nấu ăn và các con giúp tôi. Làm bài tập về nhà, tôi không có lựa chọn nào khác. Tôi ngưỡng mộ các bà mẹ nội trợ. Tôi đã thử làm sau khi sinh Zita, tôi làm nội trợ 6 tháng nhưng công việc này không phù hợp với tôi. Tôi giảm giờ làm việc, tôi yêu công việc của tôi. Làm việc giúp tôi giúp tôi giữ thói quen làm việc và giúp tôi có thì giờ cho các con cùng một lúc. Nhờ vậy, tôi làm việc hiệu quả hơn. 

Còn chồng của bà thì sao?

Anh rất thực tế! Chia sẻ việc nhà và sắp xếp gia đình là một yêu cầu ngay cả trước khi chúng tôi kết hôn. Chẳng hạn, anh hút bụi vì tôi không thích công việc này, tôi giặt giũ. Tôi đưa các con đi chơi vào các ngày trong tuần vì tôi rảnh hơn, còn anh đưa các con ngày cuối tuần. Chúng tôi thay phiên nhau khá dễ dàng.

Hình ảnh © Domitille và Jean-Baptiste Chomel

Bà có thời gian cho quan hệ của bà không?

Hàng ngày, chúng tôi ăn tối riêng để có thì giờ dành cho nhau. Các con biết một khi đã lên giường, chúng không được làm phiền chúng tôi. Chúng tôi dành tối thứ sáu để đi ăn với nhau.

Chồng của bà ở trong quân ngũ, gia đình đã dọn nhà nhiều lần. Như thế có ảnh hưởng đến gia đình và các con không?

Tôi không nhớ tôi đã dọn nhà bao nhiêu lần. Hiện tại, các con tôi xoay xở tốt, dù chúng phải xa bạn bè, cũng như chúng tôi. Nhưng những lần dọn nhà sau này khó khăn hơn vì các con đã ở tuổi thiếu niên. Tôi không thích dọn nhà hoài, nhưng có một gia đình lớn giúp ích rất nhiều. Dù thành phố, nhà cửa và trường học có thay đổi, gia đình chúng tôi vẫn vậy.

Vì sao bà tham dự vào chương trình Các Gia đình Đông con?

Thực sự chúng tôi không có động lực cụ thể nào. Chúng tôi làm vì cơ hội tự đến. Các con rất hào hứng! Chúng tôi nghĩ đây là cuộc phiêu lưu tốt đẹp cho gia đình. Với mỗi buổi chụp hình, tôi tin Chúa Thánh Thần sẽ dẫn dắt tôi.

Điều đó mang lại cho bà điều gì?

Chúng tôi có những kỷ niệm đẹp, những khoảng thời gian đẹp bên nhau. Sự tham gia này làm chúng tôi đặt câu hỏi về các nguyên tắc giáo dục của chúng tôi, vì sao đức tin lại quan trọng với chúng tôi, cách chúng tôi sống đức tin như một gia đình như thế nào, và chúng tôi muốn truyền lại điều gì cho con cái…

Bà có tận dụng cơ hội này để truyền giáo không?

Đó không phải là động lực ban đầu, nhưng khi làm, chúng tôi nghĩ: “Chúng tôi sẽ làm chứng nhân.” Chúng tôi muốn chứng minh một gia đình có đức tin là một gia đình hạnh phúc. Với mỗi buổi chụp hình, tôi tin tưởng Chúa Thánh Thần sẽ dẫn dắt chúng tôi.

Còn về phương tiện truyền thông và sự xuất hiện trên mạng xã hội, bà có kinh nghiệm như thế nào?

Trên mạng xã hội, tôi không thấy có gì khác biệt, tài khoản của tôi là riêng tư. Người xem bình luận, nhưng điều này không thay đổi những gì tôi đăng. Tôi không đọc các bài viết trên mạng, vì tôi biết tôi có thể đọc cả bình luận tích cực lẫn tiêu cực.

Là người mẹ công giáo thì có gì khác biệt?

Tình yêu của tôi dành cho con cái không hoàn hảo, nhưng chúng được Chúa yêu thương, Đấng hoàn hảo và yêu thương con cái bằng một tình yêu vô điều kiện, và Đấng lấp đầy những thiếu sót của tôi. Một an ủi cho tôi.

Hình ảnh © Domitille và Jean-Baptiste Chomel

Các thánh nào giúp cho bà trong đời sống người mẹ, người vợ hàng ngày?

Tôi tớ Chúa Zita truyền cảm hứng cho tôi rất nhiều. Ngài hết lòng vì con cái và việc học hành của chúng. Ngài vững vàng trước các thử thách to lớn nhờ đức tin và lời cầu nguyện. Mỗi buổi sáng tôi đều cầu nguyện, cả những khi tôi không ngồi xuống được để cầu nguyện. Tôi cầu nguyện khi làm việc nhà, khi đi làm. Tôi phó thác con cái và những người tôi gặp cho Chúa Thánh Thần. Các con của chúng tôi cũng đang thức tỉnh trong đức tin. Chúng tôi thường đọc kinh trước khi ăn và cầu nguyện vào buổi tối.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Grégoire: “Mất hai người anh đã cho tôi sức mạnh để truyền hy vọng”

Cha Robert và Thời của các giáo dân ở Peru

“Sự nhạy bén” của giáo dân là kim chỉ nam quý giá cho Giáo hội

Grégoire: “Mất hai người anh đã cho tôi sức mạnh để truyền hy vọng”

Grégoire: “Mất hai người anh đã cho tôi sức mạnh để truyền hy vọng”

famillechretienne.fr, I.Media, 2025-09-28

Bên lề Năm Thánh Giáo lý tại Rôma, ca sĩ Grégoire suy ngẫm về các bi kịch đã in đậm dấu ấn trên cuộc đời của ông và đã truyền cảm nhận cho âm nhạc của ông. Từ bản “Toi + Moi” nổi tiếng đến vở nhạc kịch “Bernadette Lộ Đức”, ông kể lại cách hy vọng đã cứu ông và tiếp tục hướng dẫn hành trình của ông.

Nhân dịp Năm Thánh Giáo lý tại Rôma từ ngày 26 đến 28 tháng 9, ca sĩ Grégoire có bài chia sẻ tại một hội nghị được tổ chức tại Đại học Thánh Giá về việc tuyên xưng đức tin. – Serge Pouzet/SIPA

Lời chứng thực

Nhân dịp Năm Thánh Giáo lý tại Rôma từ ngày 26 đến 28 tháng 9, ca sĩ Grégoire có bài chia sẻ tại Đại học Thánh Giá về việc tuyên xưng đức tin và bài về chân phước Eugénie Joubert (1876-1904), gương mẫu cho các giáo lý viên. Ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Pháp lần đầu tiên được công chúng biết đến năm 2008 với bản “Toi + Moi” nổi tiếng, bài hát lạc quan được viết sau bi kịch gia đình. Trả lời phỏng vấn của I.Media, tác giả kể lại nguồn gốc thành công và nói về hy vọng.

Ông đã nói hy vọng đã cứu sống ông. Ý của ông là gì?

Anh tôi qua đời trong một tai nạn xe hơi khi 33 tuổi. Tôi 23 tuổi. Anh là thầy của tôi, anh dạy cho tôi chơi đàn piano và truyền cho tôi niềm đam mê âm nhạc. Khi anh mất, tôi xem bi kịch này như một thử thách phải đối diện và hòa nhập. Tôi thấy đây là lời cảnh cáo: cuộc đời ngắn ngủi. Vì vậy, tôi trân trọng anh và bước tiếp.

Năm năm sau, anh thứ ba của tôi cũng qua đời, năm đó anh 33 tuổi. Nỗi đau thật khủng khiếp. Nhưng kỳ lạ thay, nó gần như đã dập tắt nỗi đau. Trong nỗi bất hạnh, tôi nhận ra tôi có sức mạnh để thúc đẩy những người xung quanh sống trọn vẹn cuộc sống. Khi mất đi hai người anh, mọi người sẽ thương hại; thậm chí họ có thể tha thứ nếu bạn sa vào ma túy hoặc rượu chè. Nhưng bạn cũng có thể truyền cho họ điều gì đó tích cực, đó là hy vọng. Việc mất đi hai người anh đã cho tôi sức mạnh. Khi tôi mời mọi người đến dự tiệc, mọi người đều hào hứng. Chính trong thời gian này, tôi sáng tác bài  “Toi + Moi”, một bài hát lạc quan vui tươi, như một lời khiêu khích, một phản kháng.

Liệu hy vọng có rõ ràng hơn trong cuộc sống phức tạp không?

Tôi không thể định nghĩa hy vọng và biết hy vọng đến từ đâu, nhưng tôi tin hy vọng đặc biệt rõ ràng trong các cuộc đời đầy đau khổ. Trong giới nghệ sĩ và giảng dạy, tôi gặp nhiều người có đường đời phức tạp. Thử thách giúp bạn nhận ra mình là ai và thúc đẩy bạn tiến về phía trước. Có những cuộc đời ít nhiều khó khăn. Và tôi không ganh tị với những người có cuộc sống suôn sẻ hơn tôi. Dù sao đi nữa, một ngày nào đó, ai cũng sẽ phải đối diện với thử thách. Đó là câu nói của nhà văn Christian Bobin: “Bất cứ bạn nhìn ai, bạn hãy biết họ đã trải qua địa ngục nhiều lần.”

Ông đang ở Rôma khi Giáo hội cử hành Năm Thánh Hy Vọng. Việc chứng kiến hàng ngàn người hành hương đến đây từ khắp nơi trên thế giới có ý nghĩa gì với ông?

Tôi rất xúc động khi thấy những người trải nghiệm trọn vẹn hành trình của họ và mang lại kết quả tích cực, họ làm tôi nhớ đến Lộ Đức và Bernadette, đề tài để tôi viết nhạc kịch. Câu chuyện của Bernadette thật xúc động. Trong vở diễn, tôi không nói cô đã thấy Đức Trinh Nữ. Cô tự nói ra. Nhưng điều quan trọng là cô kiên quyết với sự thật của mình, cô trung thành với suy nghĩ của mình, dù việc từ bỏ sẽ dễ dàng hơn. Kết quả: ngày nay có hàng triệu người bệnh đến Lộ Đức để cảm nghiệm một liên kết đặc biệt.

Tháng 4 vừa qua, Đức Phanxicô qua đời và Giáo hội Công giáo bầu Tân Giáo hoàng. Đức Phanxicô và Đức Lêô XIV có truyền cảm hứng cho ông không?

Hình ảnh Giáo hoàng có điều gì đó huyền bí. Tôi thuộc thế hệ của Đức Gioan Phaolô II, nhưng tôi hân hạnh được gặp Đức Phanxicô trong buổi trình diễn vở kịch Bernadette. Cùng với diễn viên Gad Elmaleh, tôi biểu diễn trước Thánh lễ của ngài tại Marseille năm 2023. Gặp một Giáo hoàng là điều phi thường, tôi thách thức ai nói ngược lại. Tôi thấy sự cởi mở của Giáo hoàng với thế giới và khả năng lắng nghe của ngài thật quý. Suốt ngày, ngài lắng nghe những bất hạnh và niềm vui của mọi người!

Ông sẽ gặp Đức Lêô?

Việc này chưa được lên kế hoạch, nhưng không phải là không thể,  một ngày nào đó tôi có thể gặp ngài. Ngài là người Mỹ và vở kịch Bernadette sẽ đến Hoa Kỳ năm tới, bắt đầu tại Chicago, quê hương của ngài.

Ông đã viết về Bernadette Lộ Đức và Têrêsa Lisiơ, có nhân vật kitô giáo nào khác truyền cảm hứng để ông viết vở diễn không?

Tôi được mời để viết về Bernadette và Têrêsa. Ban đầu, tôi không chắc tôi có nên tham dự hay không. Nhưng khi đọc cuộc đời của họ, tôi đã được thuyết phục. Câu chuyện của họ thật đặc biệt và mang tính phổ quát. Vì vậy, nếu ngày mai có ai mời tôi viết một vở diễn tương tự, tôi sẽ tham gia.

Marta An Nguyễn dịch

Domitille Chomel: “Một gia đình có đức tin là một gia đình hạnh phúc”

Cha Robert và Thời của các giáo dân ở Peru

“Sự nhạy bén” của giáo dân là kim chỉ nam quý giá cho Giáo hội

“Sự nhạy bén” của giáo dân là kim chỉ nam quý giá cho Giáo hội

“Sự nhạy bén” của giáo dân là kim chỉ nam quý giá cho Giáo hội
cath.ch, I.Media, 2025-09-28
Trong Bài Giáo lý Năm Thánh 2025 ngày 27 tháng 9 năm 2025, Đức Lêô nhấn mạnh đến cảm thức đức tin (sensus fidei) của giáo dân đã giúp Giáo hội tiến bước trên “các con đường mới”. Ngài khuyến khích giáo dân lắng nghe tiếng gọi của Chúa qua trực giác và qua những người thấp bé để trở thành người tín hữu kitô đích thực.
Hơn 20.000 giáo lý viên từ 115 quốc gia có mặt tại Rôma cuối tuần này để dự Năm Thánh Giáo lý viên, trong dịp này, Đức Lêô XIV đã có buổi tiếp kiến ngắn tại Quảng trường Thánh Phêrô, ngài mời gọi các giáo lý viên “ghi nhớ tầm quan trọng của việc vun trồng mối quan hệ với Chúa Giêsu”.
Ngài trình bày cảm thức đức tin (sensus fidei), nguyên tắc Công đồng Vatican II đã đặt làm trọng tâm giáo huấn của Giáo hội, “tập thể tín hữu, được xức dầu bởi Đấng Thánh, không thể sai lầm trong đức tin.”
“Ambrose, Giám mục!”
Đức Lêô kể lại: “Tại Milan vào thế kỷ thứ tư, Giáo hội bị chia rẽ vì các xung đột lớn, việc bầu chọn một tân giám mục đã thành một cuộc hỗn loạn thực sự. Chính quyền dân sự can thiệp, thống đốc Ambrose, với khả năng lắng nghe và hòa giải tốt đẹp đã mang lại hòa bình. Chuyện kể rằng sau đó, có tiếng một đứa trẻ kêu lên: ‘Ambrose, giám mục!‘ Vì vậy, mọi người đều kêu lên: ‘Ambrose, giám mục!‘, khi đó Ambrose vẫn chưa được rửa tội, ngài đang chuẩn bị chịu phép rửa tội. Sau khi cố gắng chạy trốn, Ambrose hiểu lời kêu gọi của giáo dân thực sự đến từ Chúa.
Giám mục Ambrose đã đóng một vai trò quan trọng trong việc hoán cải Thánh Augustinô, Đức Lêô nói tiếp: “Vì vậy, Giáo hội đã có một trong những giám mục vĩ đại nhất, một Tiến sĩ Giáo hội. Như thế những người bé nhỏ đã mang đến cho Giáo hội một món quà cao cả. Thiên Chúa thật đơn sơ và mặc khải chính mình cho những người đơn sơ. Vì vậy có một bất khả ngộ của dân Chúa trong đức tin, mà bất khả ngộ của Giáo hoàng là một biểu hiện cho tinh thần phục vụ.”
Chúng ta có phải là một người cha? Hãy trở thành một tín hữu kitô như một người cha
Kết thúc bài giáo lý, Đức Lêô mời gọi giáo dân nhận ra tiếng gọi của Thiên Chúa trong cuộc sống hàng ngày của mình: “Bạn là mẹ, bạn là cha? Hãy trở thành người tín hữu kitô như cha mẹ. Bạn là doanh nhân, công nhân, giáo viên, linh mục, nữ tu, hãy trở thành người tín hữu kitô trong con đường riêng của mình. Giáo dân có cảm thức: họ biết chúng ta có đang trở thành kitô hữu hay không. Và họ có thể sửa sai chúng ta, chỉ cho chúng ta hướng đi của Chúa Giêsu.”
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Grégoire: “Mất hai người anh đã cho tôi sức mạnh để truyền hy vọng”

Domitille Chomel: “Một gia đình có đức tin là một gia đình hạnh phúc”

Cha Robert và Thời của các giáo dân ở Peru

Hơn 8 trên 10 người công giáo Hoa Kỳ có cái nhìn tích cực về Đức Lêô

Hơn 8 trên 10 người công giáo Hoa Kỳ có cái nhìn tích cực về Đức Lêô

pewresearch.org, Gregory A. Smith, 2025-09-12\

Sự khác biệt quan điểm về Đức Lêô và sự tham dự thánh lễ. Đức Lêô tại Quảng trường Thánh Phêrô ngày 11 tháng 5 năm 2025. (Franco Origlia/Getty Images)

Người công giáo Hoa Kỳ vẫn còn tìm hiểu về Đức Lêô, họ thích những gì họ đã thấy cho đến nay. Nhìn chung, 84% cho biết họ có cái nhìn tích cực về ngài, theo một khảo sát mới của Trung tâm Nghiên cứu Pew. Chỉ 4% cho biết họ có cái nhìn tiêu cực và 11% cho biết họ chưa bao giờ nghe nói đến ngài.

Hầu hết người công giáo Mỹ cho biết họ không biết nhiều về ngài. Ngài lên ngôi vào tháng 5 sau khi Đức Phanxicô qua đời. Khoảng 67% cho biết họ biết đôi chút về Đức Lêô, 25% không biết gì, chỉ 7% cho biết họ biết rất nhiều về ngài.

Khi nói đến các mong chờ cho triều của ngài, 52% không chắc chắn về sự lãnh đạo Giáo hội của Đức Lêô so với Đức Phanxicô sẽ như thế nào, họ không biết gì về Tân Giáo hoàng. 33% cho biết Đức Lêô khá giống với Đức Phanxicô, trong khi 13% cho rằng ngài sẽ khá khác biệt.

Về nghiên cứu này

Đức Lêô là Giáo hoàng đầu tiên sinh ra tại Hoa Kỳ. Khi được hỏi họ hào hứng như thế nào khi có một Giáo hoàng sinh ra tại Hoa Kỳ, 36% cho biết họ rất cực kỳ hoặc rất hào hứng. 40% cho biết họ khá hào hứng. 22% cho biết họ không quá hoặc hoàn toàn không hào hứng khi có một giáo hoàng sinh ra tại Hoa Kỳ.

Cuộc khảo sát cũng hỏi những người không theo công giáo về ngài. Có lẽ không có gì ngạc nhiên khi những người này ít biết ngài. Khi được hỏi họ có quan điểm tích cực hay tiêu cực về ngài, 31% người không theo công giáo nói rằng họ chưa bao giờ nghe nói về ngài; nhưng có 56% người không theo công giáo có quan điểm tích cực về ngài.

So sánh quan điểm về Đức Lêô với quan điểm của Đức Phanxicô, Đức Bênêđictô XVI và Đức Gioan Phaolô II

Từ lâu, Trung tâm này đã tiến hành nghiên cứu về công giáo tại Hoa Kỳ, bao gồm cả việc hỏi giáo dân Mỹ về quan điểm của họ với các nhà lãnh đạo công giáo.

Tỷ lệ người công giáo có quan điểm tích cực về Đức Lêô giống với tỷ lệ người có quan điểm tích cực về Đức Phanxicô vào đầu triều đại của ngài. Trong một khảo sát vào tháng 3 năm 2013, 84% người công giáo Mỹ cũng bày tỏ quan điểm tích cực về Đức Phanxicô.

Những người công giáo Hoa Kỳ dự Thánh lễ ít nhất một lần một tuần cho biết họ có cái nhìn tích cực hơn về Đức Leo và biết nhiều hơn về ngài so với những người công giáo Hoa Kỳ khác. 95% những người dự thánh lễ hàng tuần cho biết họ có cái nhìn tích cực về Đức Lêô, so với 84% những người tham dự thánh lễ vài lần một tháng hoặc một hoặc hai lần một năm, và 77% người công giáo hiếm khi hoặc không bao giờ đi lễ.

Tuy nhiên, ngay cả những người đi lễ hàng tuần phần lớn cũng chưa biết về ngài. Ba phần tư cho biết họ biết rất ít về ngài, và 11% cho biết họ không biết gì về ngài.

Người công giáo theo Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa nhìn Đức Lêô như thế nào

Đại đa số người công giáo Đảng Dân chủ (89%) và Đảng Cộng hòa (84%) đều có cái nhìn tích cực về Đức Lêô.

Người công giáo theo Đảng Dân chủ đánh giá Đức Lêô tích cực tương đương với khả năng họ đánh giá Đức Phanxicô tích cực vào cuối triều của ngài. Trong một cuộc khảo sát tháng 2 năm 2025 – ngay trước khi Đức Phanxicô qua đời – 88% người công giáo Đảng Dân chủ cho biết họ có cái nhìn tích cực về ngài.

Ngược lại, đầu năm nay, gười công giáo Cộng hòa đánh giá Đức Lêô tích cực so với Đức Phanxicô. Vào tháng 2, 69% người công giáo Cộng hòa có quan điểm tích cực về Đức Phanxicô.

Cuộc thăm dò của chúng tôi trong suốt triều Đức Phanxicô cho thấy đa số người công giáo Cộng hòa và Dân chủ luôn có cái nhìn tích cực về ngài. Tuy nhiên, người công giáo Cộng hòa dần dần có thái độ tiêu cực hơn với ngài, trong khi người công giáo Dân chủ thì không, tạo sự chia rẽ trong những năm cuối triều của ngài.

Những khác biệt đảng phái trong quan điểm về Đức Phanxicô vẫn còn rõ ràng trong cuộc khảo sát mới. Nhiều người theo Công giáo Dân chủ (44%) hơn nhiều so với người theo Cộng hòa (21%) nghĩ rằng sự lãnh đạo của Đức Lêô sẽ tương tự như triều của Đức Phanxicô và đây là điều tốt.

Ngược lại, nhiều người công giáo Cộng hòa (18%) hơn so với người công giáo Dân chủ (8%) nói rằng họ nghĩ Đức Lêô sẽ khác với Đức Phanxicô và sự thay đổi này là điều tốt.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Đức Lêô XIV bổ nhiệm Tổng Giám mục Filippo Iannone làm Bộ Trưởng Bộ Giám mục

Từ Twitter đến ngai Thánh Phêrô: Đức Lêô XIV, Giáo hoàng “kết nối”

Nhà Thánh Mẫu học thấy các dấu hiệu “Thiên Chúa Quan Phòng” nơi lòng kính mến Đức Mẹ của Giáo hoàng Lêô

Nhà Thánh Mẫu học thấy các dấu hiệu “Thiên Chúa Quan Phòng” nơi lòng kính mến Đức Mẹ của Giáo hoàng Lêô

Nhà Thánh Mẫu học thấy các dấu hiệu “Thiên Chúa Quan Phòng” nơi lòng kính mến Đức Mẹ của Giáo hoàng Lêô

belgicatho.be, Edward Pentin trên NCR, 2025-08-12

Nhà Thánh Mẫu học Mark Miravalle, giáo sư thần học tại Đại học Phanxicô Steubenville đã rất ấn tượng trước những đề cập rõ ràng và sâu sắc về Đức Mẹ mà Giáo hoàng Lêô đã đưa ra trong 100 ngày đầu tiên triều của ngài.

Đức Lêô XIV, bên cạnh bức tượng Đức Mẹ trong Năm Thánh Giới Trẻ tại Quảng trường Thánh Phêrô ngày 29 tháng 7 năm 2025. (Ảnh: Vatican Media)

Cho đến nay, qua hành động và lời nói, Đức Lêô đã thể hiện lòng kính mến Đức Mẹ mạnh mẽ, gợi nhớ đến Đức Lêô XIII, làm dấy lên hy vọng ngài sẽ công bố tín điều Đức Mẹ thứ năm, một tín điều được mong đợi từ lâu.

Đó là nhận xét của nhà Thánh Mẫu học Mark Miravalle, giáo sư thần học tại Đại học Phanxicô Steubenville, giáo sư đã rất ấn tượng trước các tham chiếu rõ ràng và sâu sắc về Đức Mẹ mà Đức Lêô XIV đã đưa ra trong 100 ngày đầu tiên của ngài.

Trong bài phỏng vấn trên trang Register ngày 7 tháng 8, bên lề hội nghị chuyên đề quốc tế “Một ngày với Đức Maria” tại London, giáo sư Miravalle giải thích ý nghĩa của những điểm tương đồng với Đức Lêô XIII về vấn đề này và các tham chiếu rõ ràng Đức Lêô XIV đã đề cập đến Đức Mẹ. Theo quan điểm của giáo sư, lòng kính mến Đức Mẹ của Đức Lêô có thể gia tăng, đặc biệt khi nhân loại đang phải đối diện với những đe dọa cấp bách của chiến tranh thế giới và trí tuệ nhân tạo.

Tín điều Đức Mẹ Maria thứ năm được đề xuất – Đức Maria là Đấng đồng công cứu chuộc, Đấng trung gian của mọi ân sủng, và Đấng bảo trợ nhân loại – đã là chủ đề các thỉnh cầu của các hồng y, giám mục, linh mục, tu sĩ và hàng triệu tín hữu trong hơn một thế kỷ.

Xin giáo sư cho biết thêm về mối liên hệ giáo sư tìm thấy giữa Đức Lêô XIII và Đức Lêô XIV về lòng kính mến Đức Mẹ?

Giáo sư Mark Miravalle: Khi chọn danh hiệu Lêô, Đức Lêô XIV nhìn lại một thế kỷ, phản ánh mô hình triều của ngài. Tôi nghĩ điều này rất có ý nghĩa về mặt tôn trọng truyền thống, không phải là chủ nghĩa truyền thống tĩnh tại, nhưng là tôn trọng tương lai và những cuộc chiến mà ngài nghĩ ngài phải tiến hành. Đức Lêô XIII đã đấu tranh chống lại bất công xã hội trong thời của ngài; còn Đức Lêô XIV, đó sẽ là trí tuệ nhân tạo.

Nhưng tôi nghĩ có những điểm tương đồng tiềm ẩn khác giữa Đức Lêô XIII và Đức Lêô XIV, tôi nghĩ Thánh Mẫu Học thời kỳ đầu của ngài đã chứng minh điều này. Ngài đã không ngần ngại nhắc đến Đức Mẹ ngay từ những giây phút đầu tiên, kêu gọi chúng ta cầu nguyện với Mẹ, xác định Mẹ là Mẹ của chúng ta. Tôi nghĩ có một chiều kích quan phòng trong việc ngài được chọn vào một ngày lễ Đức Mẹ, điều này rõ ràng vượt quá khả năng của ngài, và ngài nhắc đến điều này qua lời cầu xin Đức Mẹ, liên quan đến Chân phước Bartolo Longo, tu sĩ dòng Ba Đa Minh thế kỷ 20, nổi tiếng với lòng sùng kính Đức Mẹ sâu sắc. Như thế chứng tỏ ngài có một nền Thánh Mẫu Học và lòng kính mến Đức Mẹ phong phú và toàn diện. Việc ngài được bầu ngày 8 tháng 5, trước đó là lễ Đức Mẹ Trung Gian của Mọi Ân Sủng và với các tu sĩ dòng Augustinô, là lễ Đức Mẹ Ban Ơn. Các tu sĩ đã mừng lễ này từ hàng thế kỷ nay, vì vậy tôi nghĩ có sự Quan Phòng trong chiều kích này.

Rồi đến bài diễn văn của ngài trước Hồng y đoàn.

Tôi cũng rất xúc động trước bài diễn văn của ngài ngày 9 tháng 5 trước Hồng y đoàn. Tôi nghĩ cần phải có chiều sâu tâm linh và khiêm nhường lớn lao mới có thể hiểu rằng quyền bính được thực thi đúng đắn có thể đồng nghĩa với tử đạo, và hy sinh, thậm chí cả lời kêu gọi trở nên nhỏ bé, bước sang một bên để Chúa Kitô có thể hành động, tôi nghĩ thật sâu sắc. Ngài nhắc đến Đức Mẹ như công cụ giúp ngài thực hiện điều này. Sau đó, tôi nghĩ “ngày nghỉ” của ngài rất có ý nghĩa: ngài không chỉ viết ngài sẽ đến viếng Đức Mẹ Salus Populi Romani tại Đền thờ Đức Bà Cả, một biểu tượng Byzantine được tôn kính tại Vương cung thánh đường Santa Maria Maggiore ở Rôma, mà ngài còn cho biết ngài sẽ đi 30 cây số từ Rôma đến Đền thờ Đức Mẹ Chỉ Bảo Đàng Lành, một nhà thờ của Dòng Augustinô ở thị trấn Genazzano gần đó. Tôi rất xúc động khi ngài viết một thư riêng cho mẹ ngài, như một người con thực thụ, xin bà giúp đỡ và nói rằng ngài luôn được dẫn dắt và thu hút bởi tình yêu thương, sự thông thái và sự quan tâm của bà. Và rồi, khi mọi người hô “Viva il Papa”, ngài đáp lại “Viva Maria!

Vậy nên lời nói đó thực sự xuất phát từ trái tim của ngài.

Đúng vậy, đôi khi sự bộc phát có thể hơi quá sức. Nó không thực sự tiết lộ trái tim của ngài. Và trái tim của ngài là Marian.

Xin giáo sư cho biết các khía cạnh Marian trong huy hiệu của ngài.

Một nửa huy hiệu của ngài là Marian, màu xanh lam với hoa bách hợp ở giữa, đó là hoa Marian, bên dưới là Augustinô, điều này thật tuyệt.

Xin giáo sư cho biết những gì đã xảy ra vào ngày thứ tư sau khi ngài được bầu, nó liên quan như thế nào đến Đức Mẹ, Nữ Vương Hòa Bình.

Vào ngày thứ tư, tôi thấy rất có ý nghĩa khi ngài nói chúng ta cần phép lạ hòa bình, và điều này chỉ có thể xảy ra qua Nữ Vương Hòa Bình (Kinh Truyền Tin ngày 11 tháng 5). Tôi nghĩ  sự hiểu biết này rất cần thiết. Hiện tại chúng ta áp dụng một quan điểm theo thuyết lạc giáo Pêlagiô không cần ơn Chúa, như thể chúng ta có thể tự mình mang lại hòa bình. Có thể nói bài giảng của Đức Lêô ngày 9 tháng 6 có một ám chỉ rõ ràng nhất về sự đồng công cứu chuộc của Đức Mẹ trong hai mươi năm qua, khi ngài khẳng định thiên chức làm mẹ của Đức Maria đã thực hiện một bước không thể tưởng tượng được đến thập giá, nơi Mẹ trở thành Eva mới, và Chúa Giêsu đã liên kết Mẹ với cái chết cứu chuộc của Ngài. Đây là sự đồng công cứu chuộc kinh điển, và đây chính là ý nghĩa của danh xưng co-redemptrix: Đức Maria tham gia một cách đặc biệt với Chúa Giêsu, Eva mới với Ađam mới, vào công trình cứu chuộc nhân loại. Nhưng việc Đức Lêô XIV đưa Eva mới lên đồi Canvê lại rất có ý nghĩa về mặt thần học.

Vì vậy, tôi nghĩ tất cả những yếu tố này cho thấy ngài đang theo danh xưng của Đức Lêô XIII, vì Đức Lêô XIII là giáo hoàng đầu tiên phê chuẩn danh xưng “Đồng Công Cứu Chuộc”. Ngài ngầm gọi vị lãnh đạo của chúng ta là “Đấng Phục Hồi của toàn thế giới”. Ngài nói Đức Mẹ là Trung gian của mọi Ân sủng một cách toàn diện nhất trong Octobri Mense (“Tháng Mười”, thông điệp năm 1891 của Đức Lêô XIII về Kinh Mân Côi). Và trên hết, ngài nhìn nhận Đức Mẹ là Đấng  Cầu Thay, phương thuốc cho các vấn đề của Giáo Hội trong thế kỷ 19, chúng tôi hy vọng và cầu nguyện để Đức Lêô của chúng ta cũng hiểu Đức Mẹ là phương thuốc, chứ không chỉ là  hình ảnh đạo đức. Mẹ là siêu năng lực mang đến cho chúng ta ân sủng hòa bình, được hứa ban tại Fatima, với sự chiến thắng của Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội.

Như thế vai trò của Giáo hoàng có phải là yếu tố then chốt trong việc công nhận tín điều thứ năm về Đức Mẹ: Đức Mẹ Đồng công Cứu chuộc, Đấng Trung gian của mọi Ân sủng và Đấng Cầu Thay cho nhân loại không?

Đúng vậy, chừng nào vị Đại Diện Chúa Kitô không nhìn nhận  Đức Mẹ là lời đáp trả cầu thay tối hậu cho những nhu cầu này, thì chỉ khi đó ngài mới có thể kích hoạt Mẹ, vì Thiên Chúa có một quy tắc cơ bản rất rõ ràng: ân sủng không thể bị ép buộc. Vì vậy, chúng ta phải nhận biết quyền năng chuyển cầu của Đức Mẹ để Mẹ có thể thực thi trọn vẹn. Và đó chính là điều mà một lời tuyên bố long trọng sẽ làm được.

Giáo sư có nghĩ Đức Lêô XIV có thể làm được điều này không?

Tôi rất lạc quan vì tình yêu Đức Mẹ của ngài và nhận thức của ngài về nhu cầu cần có phép lạ để giải quyết các vấn đề như hòa bình và khủng hoảng toàn cầu, chưa kể đến các vấn đề như A.I.

Tôi thấy rất ý nghĩa, trong thông điệp của ngài gởi đến 50.000 người trẻ tại Đại hội Giới trẻ Mễ Du ở Rôma, tuyên bố của ngài: “Không thuật toán nào có thể thay thế được một vòng ôm, một ánh mắt, một cuộc gặp gỡ thực sự, dù là với Chúa, với bạn bè hay với gia đình. Quý vị hãy nghĩ đến Đức Maria.” Tôi nghĩ trong tâm trí ngài, Đức Mẹ có khả năng khôi phục lại bản chất con người đích thực, vì mối nguy hiểm lớn nhất của A.I là nó thay thế những gì làm nên con người chúng ta: trí tuệ và ý chí, làm chúng ta không còn tự suy nghĩ và tự quyết định.

Vì vậy, nó không chỉ là thứ mà tôi gọi là “sùng bái ngẫu tượng len lỏi”, khi nó dần dần thay thế trí tuệ nhân tạo bằng những câu hỏi mà chúng ta thường hỏi Chúa hoặc những người mà chúng ta thấy họ khôn ngoan, nó thay thế hai điều làm nên con người: trí tuệ và món quà vĩ đại nhất của Chúa dành cho mỗi chúng ta, đó là ý chí của chúng ta.

Việc công bố tín điều Đức Mẹ thứ năm có đòi hỏi sự hợp tác của chúng ta không?

Có, có hai cách kinh điển để có được tín điều Đức Mẹ Maria: cầu nguyện và khẩn cầu. Đức Piô IX và Đức Piô XII, hai Giáo hoàng lần lượt định nghĩa về Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội và Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời đều cám ơn mọi người vì hàng triệu lời khẩn cầu, vì đây không phải là trò chơi quyền lực dân chủ: Giáo Hoàng lắng nghe con cái mình trên khắp thế giới và hỏi họ xem Chúa Thánh Thần muốn họ điều gì qua Cảm thức đức tin. Tôi cảm nhận sâu sắc điều này nơi Đức Lêô. Ngài là Giáo hoàng lắng nghe, và theo đúng nghĩa của từ này: ngài lắng nghe và sau đó hành động một cách phù hợp. Vì vậy, tôi hy vọng ngài sẽ lắng nghe và tôn trọng những gì dân Chúa nói và đã nói. Và thời điểm đã đến, vì thành thật mà nói, tôi nghĩ  quá trình chuyển đổi từ cuộc Chiến tranh Thế giới thứ ba rời rạc sang cuộc Chiến tranh Thế giới thứ ba tích cực và chính thức có thể diễn ra nhanh hơn chúng ta nghĩ. Chúng ta chỉ có thể có được hòa bình đã được hứa tại Fatima thông qua sự chiến thắng của Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ nhưng chúng ta chỉ có thể có được chiến thắng thông qua việc công bố tín điều này.

Giáo sư đã nói về sự hồi sinh của lòng sùng kính Đức Mẹ Maria, giáo sư có thể giải thích thêm về điều này không?

Sau Công đồng, nhưng không rõ ràng là vì lý do đó, đã có điều mà nhiều nhà thần học gọi là một thập kỷ không có Đức Mẹ Maria, được đánh dấu bằng sự suy giảm lòng kính mến Đức Mẹ. Thánh Gioan Phaolô II đã cố gắng khắc phục điều này, nhưng cách tiếp cận này vẫn chưa được cộng đồng Thánh Mẫu học và thần học tích hợp hoặc thực hiện đầy đủ. Tôi nghĩ trong 10 đến 15 năm qua, chúng ta đang chứng kiến một sự đổi mới về Đức Maria, và tôi thấy điều đó đặc biệt ở những người trẻ. Tôi giảng dạy Thánh Mẫu học tại Đại học Ave MaryĐại học Phanxicô, và tôi thấy tâm trí của người trẻ nhanh chóng sẵn sàng chấp nhận và vui mừng trước chân lý trọn vẹn của Đức Mẹ như thế nào. Các luận án tiến sĩ hiện đang được tiến hành về vai trò của Đức Maria trong công trình đồng cứu chuộc theo Đức Gioan Phaolô II. Và thậm chí về sự sẵn lòng của các giám mục trong Giáo hội trong việc giảng dạy và rao giảng lại chân lý về Đức Mẹ là Đấng đồng cứu chuộc nhân loại. Ví dụ, có một bài giảng đặc biệt của Hồng y William Goh của Singapore, không chỉ nói về vai trò của Đức Maria trong công trình đồng cứu chuộc mà còn giải thích và bảo vệ danh hiệu “Đồng Cứu Chuộc”.

Edward Pentin là cộng tác viên cao cấp của Register và là nhà phân tích về Vatican cho EWTN News. Giáo sư bắt đầu đưa tin về Vatican và Giáo hoàng cho Đài phát thanh Vatican trước khi trở thành phóng viên thường trú tại Rôma cho National Catholic Register của EWTN. Giáo sư cũng có bài trên các báo Công giáo nhưy Newsweek, Newsmax, Zenit, The Catholic Herald, và The Holy Land Review, một ấn phẩm của Dòng Phanxicô chuyên về Giáo hội và Trung Đông.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Đức Lêô XIV bổ nhiệm Tổng Giám mục Filippo Iannone làm Bộ Trưởng Bộ Giám mục

Từ Twitter đến ngai Thánh Phêrô: Đức Lêô XIV, Giáo hoàng “kết nối”

Hơn 8 trên 10 người công giáo Hoa Kỳ có cái nhìn tích cực về Đức Lêô

Từ Twitter đến ngai Thánh Phêrô: Đức Lêô XIV, Giáo hoàng “kết nối”

Từ Twitter đến ngai Thánh Phêrô: Đức Lêô XIV, Giáo hoàng “kết nối”

Hình ảnh – Antoine Mekary | ALETEIA

fr.aleteia.org, Anna Kurian, 2025-09-20

Trước khi được bầu làm Giáo hoàng thứ 267 của Giáo hội công giáo, Hồng y Robert Francis Prevost đã có tài khoản Twitter cá nhân, vì thế ngài là giáo hoàng đầu tiên trong lịch sử có “kết nối” cá nhân với mạng xã hội.

Kể từ khi được bầu, đã nhiều lần ngài lên tiếng về chủ đề này, nhấn mạnh đến các cơ hội cũng như các rủi ro của cuộc cách mạng kỹ thuật số.

Đức Phanxicô tiền nhiệm không có trang mạng xã hội và các phương tiện truyền thông hiện đại. Đức Lêô XIV quen thuộc với internet và điện thoại di động. Ngày 14 tháng 9, một người bạn thân của ngài kể với chúng tôi: “Tôi viết tin nhắn chúc mừng sinh nhật ngài, chỉ trong vòng một phút, ngài trả lời trên WhatsApp cho tôi.”

Trong quyển tiểu sử Đức Lêô XIV của Nhà xuất bản Loyola Press ấn hành, chuyên gia Vatican Christopher White kể lại một giai thoại thú vị tương tự: “Vào thời điểm tuyên bố Đã có Giáo hoàng – Habemus Papam, Linh mục Joseph Farrell Dòng Augustinô thân cận với ngài nhận nhiều lời mời phỏng vấn. Khi một nhà báo hỏi ngài thích đội bóng chày nào – Cubs hay White Sox? – Linh mục gởi tin nhắn cho ngài. Ngài trả lời lập tức chỉ vỏn vẹn một chữ: Sox.”

Không chỉ đơn thuần là giai thoại, những câu chuyện “trò chuyện với Giáo hoàng” minh họa một kỷ nguyên đang thay đổi. Theo nhà báo người Mỹ Elise Ann Allen, người thực hiện cuộc phỏng vấn đầu tiên: “Ngài là Giáo hoàng của thế kỷ 21. Ngài hiểu văn hóa hiện đại vì ngài sống và tương tác với cùng một phương tiện truyền thông: ngài là giáo hoàng đầu tiên, trước khi được bầu, có tài khoản mạng xã hội hoạt động và tự mình sử dụng chúng”, bà nhấn mạnh với trang Aleteia, trích dẫn Twitter, Messenger và Facebook.

Bà giải thích: “Không những ngài kết nối trực tuyến mà còn kết nối với thực tế của những gì đang diễn ra ngày nay. Ngài là nhà truyền giáo chúng ta cần ngày nay cho thời kỹ thuật số. Ngài hiểu tầm quan trọng của việc Giáo hội có tiếng nói trong lãnh vực này và bảo vệ phẩm giá con người trong bối cảnh công nghệ đang phát triển. Khi ngài nói về chủ đề này, những lời của ngài có tiếng vang vì ngài có kinh nghiệm.

Một Giáo hoàng của Cách mạng Kỹ thuật số

“Cách mạng kỹ thuật số” diễn ra là một trong những lý do ngài chọn danh hiệu Lêô XIV, theo bước chân của Đức Lêô XIII, người khai sinh Học thuyết Xã hội của Giáo hội và là Giáo hoàng của người lao động. Vào buổi tối ngày bầu cử, ông Matteo Bruni, Giám đốc Văn phòng Báo chí Tòa thánh giải thích tên của ngài muốn nói đến người lao động trong thời đại trí tuệ nhân tạo.

Hồng y Ladislav Nemet, Tổng Giám mục Belgrade, người ngồi cạnh Đức Lêô trong bữa tiệc sau khi ngài đắc cử, kể lại lời giải thích này: “Ngài nói (…), chúng ta đang ở một cuộc cách mạng mới. Vào thời Đức Lêô XIII, đó là cuộc cách mạng công nghiệp; và bây giờ là cuộc cách mạng số. Ngày nay, cũng như thời Đức Lêô XIII, vấn đề về việc làm nảy sinh – vì số hóa dẫn đến việc cắt giảm lực lượng lao động.”

Những lo ngại của Đức Lêô về Trí tuệ Nhân tạo

Trong cuộc phỏng vấn với bà Elise Ann Allen, ngài bày tỏ sự phản đối của ngài với một số ứng dụng của trí tuệ nhân tạo. Ngài cho biết, ngài nhận đề xuất tạo một ‘giáo hoàng ảo’ để bất cứ ai cũng có thể tiếp kiến trực tuyến và trả lời các câu hỏi của họ. Ngài nói: “Tôi đã nói, tôi sẽ không cho phép việc này. Giáo hoàng không đại diện qua một avatar.”

Ngài kể: “Gần đây có người nói chuyện với tôi, họ lo lắng cho sức khỏe của tôi. Tôi trả lời: Tôi ổn, vì sao? – Vì tôi nghe ngài  bị té cầu thang! Video đã làm rất khéo nên họ nghĩ tôi bị té thật!”

Thứ bảy tuần trước, ngài xin các thần học gia chia sẻ suy nghĩ của họ về “thế giới phức tạp của trí tuệ nhân tạo để nhắc con người không thể giản lược thành người máy kỹ thuật số”.

Thuật toán so với các mối quan hệ chân thành

Ngày 2 tháng 8, ngài gặp gần một triệu người trẻ trong Đại lễ Giới trẻ tại Tor Vergata, ngài thấy đây là cơ hội phi thường của sự phát triển internet và mạng xã hội. Ngài nhấn mạnh: “Phải bảo vệ Thế hệ Z khỏi ‘logic thương mại và lợi ích’ có thể ẩn đằng sau các công cụ này và cuối cùng biến nhân loại thành một món hàng. Ngày nay có những thuật toán cho chúng ta biết chúng ta nên thấy gì, nên nghĩ gì và nên kết bạn với ai. Nhưng chỉ có những mối quan hệ chân thành và gắn kết bền vững mới có thể nuôi dưỡng một đời sống hạnh phúc.”

Vài ngày trước đó, khi ngài gặp hàng ngàn người công giáo có sức ảnh hưởng, ngài đã mời gọi họ đừng giới hạn bản thân trong việc sản xuất nội dung, nhưng hãy “gặp trái tim”.

Marta An Nguyễn dịch

Đức Lêô XIV bổ nhiệm Tổng Giám mục Filippo Iannone làm Bộ Trưởng Bộ Giám mục

Hơn 8 trên 10 người công giáo Hoa Kỳ có cái nhìn tích cực về Đức Lêô

Nhà Thánh Mẫu học thấy các dấu hiệu “Thiên Chúa Quan Phòng” nơi lòng kính mến Đức Mẹ của Giáo hoàng Lêô

Đức Lêô XIV bổ nhiệm Tổng Giám mục Filippo Iannone làm Bộ Trưởng Bộ Giám mục

Đức Lêô XIV bổ nhiệm Tổng Giám mục Filippo Iannone làm Bộ Trưởng Bộ Giám mục

cath.ch, I.Media, 2025-09-26

Tổng Giám mục Filippo Iannone: Tân Tổng Trưởng Bộ Giám mục | © Vatican Media

Ngày 26 tháng 9, Đức Lêô bổ nhiệm Tổng Giám mục Filippo Iannone, 67 tuổi, người Ý làm Bộ trưởng Bộ Giám mục. Từ năm 2017, Tổng Giám mục đã đứng đầu Bộ Văn bản Lập pháp, việc bổ nhiệm này cho thấy sự ổn định và tính liên tục của Giáo triều. Đây là lần đầu tiên Đức Lêô bổ nhiệm một Tổng trưởng kể từ khi ngài được bầu ngày 8 tháng 5 năm 2025 để lãnh đạo một trong những cơ quan chiến lược nhất của chính quyền Vatican, cơ quan ngài đã ở chức vụ này từ tháng 4 năm 2023 cho đến khi Đức Phanxicô qua đời ngày 21 tháng 4. Bộ điều phối quy trình bổ nhiệm giám mục tại các giáo phận ở Châu Âu, Bắc và Nam Mỹ, Phi Luật Tân và Úc. Có khoảng 15 linh mục làm việc ở đây.

Tổng Giám mục Filippo Iannone, tu sĩ dòng Cát Minh, 67 tuổi là chuyên gia giáo luật, sinh năm 1957 tại Naples. Ngài có bằng tiến sĩ luật và chịu chức năm 1982. Ngài đã làm phó đại diện tư pháp của Tòa án Giáo phận Naples, nơi ngài giảng dạy luật Giáo hội tại Khoa Thần học Giáo hoàng miền Nam nước Ý.

Năm 2001, dưới triều Đức Gioan Phaolô II, ngài được bổ nhiệm làm giám mục phụ tá của Naples. Năm 2012, Đức Bênêđictô XVI bổ nhiệm ngài làm phó giám mục Giáo phận Rôma, một trách nhiệm quan trọng trong việc quản lý giáo phận giáo hoàng. Năm 2017, Đức Phanxicô đề nghị ngài đảm nhiệm vai trò Trợ lý Thư ký Hội đồng Giáo hoàng về Văn bản Lập pháp. Vài tháng sau, Đức Phanxicô giao cho ngài chức vụ Chủ tịch cơ quan cố vấn này.

Là người đứng đầu Cơ quan, sau này trở thành một cơ quan chính thức năm 2022, ngài đã xem xét tất cả các văn bản pháp lý của Tòa Thánh ban hành để đánh giá cách giải thích đúng đắn về luật Giáo hội. Cơ quan tiếp nhận các đơn kháng cáo chống lại các luật khác ngoài những luật do Giáo hoàng ban hành. Cơ quan xuất bản các ghi chú giải thích nhằm nhắc lại các thông lệ tốt nhất, như trường hợp tháng 4 năm ngoái khi cơ quan tái khẳng định “lệnh cấm tuyệt đối” sửa đổi hoặc hủy bỏ dữ liệu trong sổ đăng ký rửa tội.

Robert Prevost và Filippo Iannone đã làm việc cùng nhau

Thông qua vị trí của các ngài trước mật nghị, các ngài đã có cơ hội làm việc với nhau. Các ngài là các đại diện của Giáo triều Rôma thảo luận với các giám mục Đức trong bối cảnh căng thẳng phát sinh từ các sáng kiến công đồng của Đức bị Rôma bác bỏ năm 2023.

Giống như Hồng y Prevost, Tổng Giám mục Filippo Iannone cũng là thành viên của Thượng Hội đồng về Tính Đồng nghị, một suy tư rộng lớn do Đức Phanxicô khởi xướng nhằm làm cho Giáo hội trở nên bao gồm và ít giáo sĩ hơn. Trong cuộc phỏng vấn với với tờ báo chính thức L’Osservatore Romano của Vatican, ngài nhắc lại vấn đề chống lạm dụng trong Giáo hội là chủ đề được thảo luận trong các phiên họp của Thượng Hội đồng. Ngài nhấn mạnh giáo luật đã được sửa đổi sau hội nghị thượng đỉnh năm 2019 về lạm dụng, và đảm bảo “trong các văn bản lập pháp, sự nhấn mạnh ngày càng được đặt vào lợi ích của những người bị xâm phạm nhân phẩm”.

Qua việc bổ nhiệm Tổng Giám mục Filippo Iannone làm Bộ trưởng Bộ Giám mục, Đức Lêô muốn các giám mục tương lai sẽ áp dụng nghiêm ngặt các tiêu chuẩn mới để chống lạm dụng. Tháng 11 năm 2024, Vatican cho biết Tổng Giám mục Iannone sẽ chủ trì một nhóm làm việc về định nghĩa “tội lạm dụng tinh thần”, hiện chưa được Giáo hội công nhận.

“Với ngài, sẽ không có bất kỳ một tia lửa nào”

Một nguồn tin Rôma biết rõ về ngài cho biết: “Ngài là luật sư giáo luật và là nhà quản lý, một người rất truyền thống, không có nhiều sức thu hút, người phục vụ mang tinh thần Giáo triều… Với ngài, sẽ không có bất kỳ tia lửa nào. Thông điệp Đức Lêô có thể là: để cai quản, ngài dựa vào những người nghiêm túc và truyền thống hơn là đi tìm những người có cá tính độc đáo.”

Để ổn định công việc của Bộ Giám mục ngài đã lãnh đạo trong hai năm, Đức Lêô bổ nhiệm Tổng Giám mục Ilson de Jesus Montanari, người Brazil đã nhậm chức từ năm 2013, trong nhiệm kỳ năm năm. Ngài tái bổ nhiệm Giám mục Bosnia Ivan Kova, một viên chức của Bộ từ năm 2012 và thư ký dưới quyền từ năm 2023.

Hồng y tương lai?

Việc bổ nhiệm Tổng Giám mục Filippo Iannone cho thấy khả năng tổ chức một công nghị hồng y trong tương lai. Theo truyền thống, Tổng Giám mục sẽ được phong Hồng y. Tổng Giám mục Prevost đã được phong Hồng y tháng 9 năm 2023, chín tháng sau khi được bổ nhiệm làm Tổng Giám mục.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Từ Twitter đến ngai Thánh Phêrô: Đức Lêô XIV, Giáo hoàng “kết nối”

Hơn 8 trên 10 người công giáo Hoa Kỳ có cái nhìn tích cực về Đức Lêô

Nhà Thánh Mẫu học thấy các dấu hiệu “Thiên Chúa Quan Phòng” nơi lòng kính mến Đức Mẹ của Giáo hoàng Lêô

Bài mới nhất