Home Blog Page 76

“Đúng, Giáo hội có vấn đề”

“Đúng, Giáo hội có vấn đề”

osservatoreromano.va, Marie-Lucile Kubacki, 2024-03-02

Phụ nữ, tình huynh đệ, sự khác biệt: phỏng vấn Tổng Giám mục Jean-Paul Vesco, giáo phận Algiers

Tổng Giám mục người Pháp-Alger Jean-Paul Vesco, 61 tuổi, giáo phận Alger, ngài đã suy nghĩ rất nhiều về khái niệm tình huynh đệ và tính khác biệt, một trong những thành quả qua kinh nghiệm của ngài ở Algeria và việc ngài thuộc dòng Đa Minh đã soi sáng suy nghĩ của ngài về phụ nữ.

Giáo hội Công giáo có vấn đề với phụ nữ không?

Giám mục Jean-Paul Vesco. Câu hỏi của bà hơi khiêu khích, nhưng đúng vậy, trong nhiều thế kỷ, Giáo hội có vấn đề với phụ nữ, giống như hai tôn giáo đơn thần khác (hồi giáo và do thái giáo) và có lẽ là hầu hết các tôn giáo. Đây không phải là lời bào chữa, nó sẽ rất tốt và chính đáng nếu nó đã khác đi ngay từ đầu! Với một vài trường hợp ngoại lệ đáng mừng gần đây, ngoài ra phụ nữ gần như vắng mặt trong việc quản trị và giảng lễ, nhưng họ lại có mặt ở mọi nơi khác. Họ là xương thịt của các giáo xứ, là linh hồn của các giáo hội tại gia, là chuyên gia dạy giáo lý.

Trong cách chúng ta giới thiệu, theo định nghĩa Giáo hội là vượt thời gian, một Giáo hội phụ hệ nằm ngoài dòng thời gian, ngoài thời trang, ngoài sự đào thải của thời gian. Tuy nhiên, nếu Giáo hội không có sự tham dự mạnh mẽ hơn của phụ nữ vào các vị trí trách nhiệm và tầm nhìn, Giáo hội chúng ta có nguy cơ là một Giáo hội lỗi thời, không phải phi thời gian nhưng lỗi thời, lỗi thời trong tổ chức của mình. Giáo hội công giáo là Giáo hội phổ quát, nếu Giáo hội không thuộc về thế giới thì Giáo hội đã được khắc ghi rõ ràng trên thế giới và không thể dựa vào logic tự quy chiếu trong mối quan hệ với thế giới. Câu hỏi về trách nhiệm của giáo dân, từ đó là câu hỏi trách nhiệm của phụ nữ trong các cuộc tham vấn trước Thượng Hội đồng đã rõ ràng. Cuộc chiến giữa các cậu bé giúp lễ quanh bàn thờ như đã thấy ở một số nơi, không còn xảy ra nữa. Trong các thánh bộ của Vatican, nơi phụ nữ bắt đầu đông hơn trước, họ đảm nhận các trách nhiệm cao hơn, những nơi đó bầu khí đã hoàn toàn khác. Chỉ cần một vài phụ nữ là giáo triều không còn là cộng đồng giáo sĩ vốn rất dễ bị kỳ thị.

Người ta thường nói bây giờ không thể triệu tập một công đồng ở cấp độ Giáo hội hoàn vũ do khó khăn vật chất khi tập hợp hơn 5.000 giám mục. Nhưng bây giờ không còn là vấn đề nữa. Hình ảnh Thượng Hội đồng ở Hội trường Phaolô VI với các hồng y, giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, giáo dân nam nữ ngồi quanh các bàn đồng cấp cho thấy thời đã thay đổi, nhận thức Thượng Hội đồng không thể chỉ do các giám mục quyết định. Một cách nào đó, Thượng Hội đồng về tính đồng nghị rất tự nhiên đã làm cho triển vọng về một Công đồng Vatican III trở nên lỗi thời! Ngày nay ai có thể tưởng tượng tương lai của Giáo hội chỉ được Hội đồng Giám mục chỉ định?

Vị trí của phụ nữ trong việc quản lý giáo phận Algiers là gì?

Trong giáo phận của chúng tôi, tôi muốn có một nhóm nhỏ phụ nữ bên cạnh các hội đồng khác nhau, bao gồm các nhân vật lãnh đạo giáo phận: tổng đại diện, tổng thư ký, thủ quỹ, phó thủ quỹ, chịu trách nhiệm về diakonia và tôi, tạo thành một đội gồm bốn phụ nữ và hai nam giới. Hầu hết các quyết định, chúng tôi đều cùng nhau suy nghĩ. Nói chung, tôi sống trong môi trường chủ yếu là nữ và đó là niềm vui của tôi mỗi ngày! Nhưng điều này không có nghĩa là không có va chạm. Một ngày nọ, một phụ nữ nói với tôi: “Cuối cùng thì việc này tùy thuộc vào cha!” Đó là sự thật và đó cũng là vấn đề. Trong Giáo hội công giáo chúng ta, các giám mục đưa ra quyết định và thực hiện chúng. Mô hình chắc chắn có thể phát triển. Về mặt này, các mô hình quản trị đời sống tu trì có thể cho cảm hứng: nhiều quyết định được đưa ra trong các cuộc họp tổng tu nghị hoặc trong Hội đồng đã được bầu chọn, và những hạn chế về quyền ra quyết định của bề trên không làm mất đi quyền lực biểu tượng của họ. Theo tôi, có vẻ như trong hầu hết các trường hợp, điều này nói lên lòng tin tưởng nảy sinh từ sự hiểu biết nhau và theo đuổi một dự án chung, có nghĩa phần lớn các quyết định đều đã được đồng thuận rộng rãi khi nói đến những vấn đề chưa nhất trí. Dù sao, ý kiến của mỗi người và mọi người đều được lắng nghe và cân nhắc theo cách này hay cách khác trước các quyết định có ảnh hưởng đến họ. Tôi nghĩ đó là một kinh nghiệm mạnh mẽ cho tất cả mọi người, kể cả tôi!

Đằng sau vấn đề của phụ nữ là vấn đề chỗ đứng của giáo dân…

Tất nhiên! Trong giai đoạn cấp giáo phận, tại giáo phận Algiers, mong muốn của giáo dân trong nước là được tham gia vào đời sống của Giáo hội. Họ xem Giáo hội là Giáo hội của họ một cách đúng đắn vì đó là Giáo hội Algeria. Tuy nhiên, họ cảm thấy bị gạt ra ngoài lề để ủng hộ những thành viên thường trực như chúng tôi, cơ bản là tu sĩ và là người nước ngoài, những người kể từ khi đất nước độc lập đã chiếm đa số trong sinh hoạt Giáo hội. Trên thực tế, họ gần như vắng mặt trong các cơ quan ra quyết định. Chúng tôi đã nghe thấy lời kêu gọi này và đã nghiêm túc xem xét trong các ban kinh tế và các ban mục vụ khác của Hội đồng Giám mục. Trong Hội đồng Giám mục có ba linh mục, một nữ tu, một giáo sĩ và bốn giáo dân người Algeria trong đó có hai phụ nữ. Và đã làm bầu khí thay đổi hoàn toàn. Một lần nữa, chúng tôi thoát ra tình cảnh chỉ có chúng tôi với nhau. Nhưng không phải lúc nào cũng dễ dàng, các chuyện cũ phải cất giữ trong tủ. Chúng tôi phải học cách hiểu bản thân và đo lường vực thẳm của sự khó hiểu, đôi khi ngăn cách mà chúng tôi không nhận thức vì  không có nơi để trình bày. Giáo hội phải thành Giáo hội ít giáo sĩ hơn, đây là một thách thức với Giáo hội hoàn vũ ở mọi cấp độ và mọi nơi. Vấn đề này không phải là không có yêu sách về quyền lực, với tất cả những gì có thể làm khó chịu. Nhưng trách móc người khác vì họ muốn nắm quyền thường có nghĩa là mình muốn thực hiện quyền đó nhưng lại không ý thức được điều này. Đó là lý do vì sao tôi cảm thấy rất khó nghe khi các yêu cầu của phụ nữ trong Giáo hội bị bác bỏ với câu hỏi: “Tại sao họ lại muốn quyền lực?”

Trong một số xã hội, hoạt động của Giáo hội bị căng thẳng vì  những vấn đề này với lý tưởng dân chủ!

 Nguyên tắc tổ chức thứ bậc của Giáo hội bắt nguồn từ chế độ quân chủ… việc kế thừa cha truyền con nối phải được bảo tồn! Chính tổ chức của con người đã bảo đảm cho sự thống nhất gần như ngay từ đầu và nó đã chứng tỏ được mình. Trong mọi trường hợp, chúng ta là như vậy. Điều này không loại trừ các hoạt động và cơ quan dân chủ hơn bên trong, giống như các chế độ quân chủ hiện đại. Anh chị em của chúng ta trong các Giáo hội tin lành về bản chất có văn hóa dân chủ này, nghĩa là có tính đồng nghị, chắc chắn chúng ta sẽ học được rất nhiều từ họ trong phong trào lớn lao về tính đồng nghị theo kiểu công giáo do Đức Phanxicô khởi xướng. Động lực đồng nghị sẽ không dừng lại, nó sẽ mở rộng và lan rộng đến mọi cấp độ của Giáo hội mà không đặt câu hỏi về cơ cấu bí tích của nó. Bất kỳ bước lùi nào cũng sẽ thành lỗi thời hoàn toàn vì Giáo hội là công việc của tất cả những người đã được rửa tội. Niềm tin sâu sắc của tôi là trách nhiệm trong Giáo hội, trong đó các vấn đề về quyền lực bị bóp méo, trách nhiệm sẽ gia tăng cùng lúc với việc nó được chia sẻ. Chia sẻ trách nhiệm có nghĩa là tăng trách nhiệm này và Giáo hội chúng ta đang gặp tình trạng thiếu sót lớn trong việc đảm nhận trách nhiệm.

Cha nghĩ gì về chức phó tế nữ?

Cá nhân tôi, tôi hy vọng được như vậy! Theo tôi, dường như không thể lấy đi quyền của các tín hữu, và do đó cũng là của cả tôi, trong việc nữ giới tiếp nhận Lời Chúa. Không có một lý lẽ nào biện minh thuyết phục được tôi. Vì vậy, đúng, tôi muốn vấn đề chức phó tế nữ sẽ được đi tới hoặc ít nhất một bước nữa được thực hiện theo hướng trao quyền cho phụ nữ và những giáo dân được đào tạo để chú giải Lời Chúa trong thánh lễ ngày chủ nhật. Khác với thừa tác vụ linh mục, chức phó tế nữ có nguồn gốc từ truyền thống của Giáo hội và tôi thấy khó khăn khi gặp phản đối. Vấn đề mục vụ này cũng như vấn đề quản trị, chân trời sẽ mở rộng ra khi chúng ta tiến bước. Những gì ngày hôm qua tưởng như không thể, ngày mai sẽ thành dễ dàng. Ngày nay sự hiện diện độc quyền nam giới trong đoàn rước khi tiến lên bàn thờ là chuyện hiển nhiên. Nhưng liệu một ngày nào đó nó sẽ thành lỗi thời không? Chỉ riêng việc đặt câu hỏi đã mang lại sự thay đổi trong cách nhìn…

Có phải vấn đề xuất phát từ thực tế, ơn gọi của phụ nữ thường không được cho là tự thân nhưng liên quan đến ơn gọi của nam giới không?

Đúng vậy, theo truyền thống, ơn gọi của phụ nữ trong Giáo hội được cho là ơn gọi bổ sung. Điều này không còn đủ, ơn gọi này phải được nghĩ theo một dạng khác. Ơn gọi nữ giới tự nó có giá trị riêng của nó. Chiều kích khác biệt này có trong đời sống hôn nhân. Các nhiệm vụ được chia sẻ, cha mẹ đều làm việc, đều chăm sóc con cái… mỗi người hoàn thành công việc của mình theo giới tính, theo tính cách… Nhiệm vụ giống nhau nhưng cách thực hiện khác nhau và đúng cho tất cả mọi người. Làm sao chúng ta có thể nghĩ không có tiếng vang của sự tiến hóa xã hội trong Giáo hội theo cách thực thi các đặc sủng và mục vụ; truyền thống không phải là một xác chết nhưng là một thân thể sống, vừa bất động vừa luôn chuyển động.

Câu hỏi về sự khác biệt này là câu hỏi về tình huynh đệ. Thật vậy, tình huynh đệ vừa đòi hỏi, vừa làm cho sự khác biệt trở nên khả thi. Điều này không hoàn toàn đúng với tình phụ tử thiêng liêng. Tôi tin vào tình phụ tử thiêng liêng, là tu sĩ được Dòng Đa Minh đào tạo, tôi trải nghiệm được điều này. Nhưng tình phụ tử thiêng liêng này tôi nhận được từ người anh em của tôi, của một bản ngã khác tiến bộ hơn tôi rất nhiều trong đời sống tu trì cũng như trong sự thánh thiện. Nếu ngài không chết trước đó, tôi đã có thể là bề trên Tỉnh Dòng của ngài. Tôi gặp khó khăn với tình phụ tử thiêng liêng bị thể chế hóa như chúng ta có kinh nghiệm trong Giáo hội. Các vai trò này không bao giờ đảo ngược, giống như vai trò làm cha trong đời thực với các mối quan hệ tiếp tục phát triển giữa cha mẹ và con cái trong suốt cuộc đời. Sẽ có ngày con cái chăm sóc cha mẹ. Việc gia trưởng giữ quyền của mình cho đến chết lại là một chuyện khác. Theo nghĩa này, với tôi, tình phụ tử thiêng liêng bị thể chế hóa dường như giống mô hình gia trưởng hơn là tình cha cha con. Tình huynh đệ, giống như anh chị em thực sự, làm cho mọi hình thức quan hệ trở nên khả thi. Trong một thời gian, người chị lớn có thể đóng vai người mẹ cho em trai mình. Sẽ luôn còn lại một điều gì đó, nhưng mọi người sẽ trải nghiệm sự khác biệt cơ bản mà họ nhận được khi họ là con cùng một cha một mẹ. Cuộc sống sẽ làm phát triển mối quan hệ và có thể có khi làm đảo ngược mối quan hệ này.

Tôi tin sâu sắc Giáo hội chúng ta nên xem mình như một cộng đồng gồm các anh chị em. Đó là lời chứng cao nhất Giáo hội có thể đưa ra cho thế giới. Hơn cả tranh giành quyền lực, sự tái cân bằng cần thiết giữa giáo sĩ và giáo dân, giữa nam và nữ là vấn đề của sự khác biệt và tình huynh đệ. Nếu tôi thích được gọi là sư huynh hơn là cha hay Đức ông thì không phải vì khiêm tốn hay làm bộ làm tịch, nhưng chính vì khác biệt ở đây không phải là một lựa chọn, nhưng là điều hiển nhiên: Tôi cần các anh, các chị của tôi ở giáo phận của tôi, tôi cần anh em Đa Minh của tôi để tôi là của họ.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Tổng giám mục Vesco về các nữ phó tế: “Điều dường như không thể hôm nay sẽ trở thành điều tự nhiên ngày mai”

Đức Phanxicô sẽ phong 21 tân hồng y trong công nghị ngày 8 tháng 12-2024

Đức Phanxicô sẽ phong 21 tân hồng y trong công nghị ngày 8 tháng 12-2024

Trong giờ Kinh Truyền Tin ngày chúa nhật 6 tháng 10 tại Quảng trường Thánh Phêrô, Đức Phanxicô thông báo sẽ phong 21 tân hồng y trong công nghị ngày 8 tháng 12-2024 | Daniel Ibanez CNA

lefigaro.fr, Jean-Marie Guénois, 2024-10-06

Trong giờ Kinh Truyền Tin ngày chúa nhật 6 tháng 10, Đức Phanxicô công bố sẽ mở công nghị lần thứ 10 triều của ngài ngày 8 tháng 12 để phong 21 tân hồng y.

Mật nghị bầu người kế vị Đức Phanxicô sẽ có 85% số đại cử tri, được ấn định ở mức 2/3.

Trước khi đến cầu nguyện cho hòa bình ở đền thờ Đức Bà Cả chiều chúa nhật, buổi cầu nguyện sẽ tiếp tục ngày thứ hai 7 tháng 10 với một ngày ăn chay, trong giờ Kinh Truyền Tin ngày chúa nhật Đức Phanxicô tuyên bố sẽ phong 21 tân hồng y.

Lễ phong hồng y sẽ diễn ra ngày 8 tháng 12 năm 2024 tại Rôma, tổng cộng sẽ có 141 hồng y, quy định số cử tri trong mật nghị là 120.

Trong 11 năm làm giáo hoàng, ngài đã phong 85% số hồng y cử tri để bầu người kế nhiệm. Vì thế ngài đã vượt xa đa số 2/3 cần thiết (66%) khi bỏ phiếu ở Nhà nguyện Sistine. Ngài đã chọn các hồng y gần với nhạy cảm của ngài về Giáo hội.

Trong danh sách mới này chỉ có Hồng y Dòng Đa Minh Jean-Paul Vesco, 62 tuổi giáo phận Algiers là người Pháp. Là người Pháp nhưng ngài nhập tịch Algeria năm 2023, theo sắc lệnh của tổng thống Abdelmadjid Tebboune, ngài là cựu luật sư kinh doanh đi tu khi 34 tuổi sau khi đã có bằng thạc sĩ Cao đẳng Kinh tế. Ngài là chuyên gia đối thoại với hồi giáo theo đúng tinh thần của Đức Phanxicô.

Nhân vật nổi tiếng khác trong lần phong hồng y này là Linh mục Đa Minh Timothy Peter Joseph Radcliffe, 79 tuổi, thần học gia cựu Bề trên Tổng quyền Dòng Đa Minh. Ngài được Đức Phanxicô tin tưởng, đã giảng tĩnh tâm để chuẩn bị cho lần họp Thượng Hội đồng này.

Ngoài cựu Sứ thần người Ý Angelo Acerbi đã hơn 80 tuổi, các hồng y của lần phong này sẽ là cử tri bầu người kế vị Đức Phanxicô, ngài sẽ 88 tuổi ngày 17 tháng 12, sức khỏe tốt so với năm vừa qua.

Các tân hồng y của 18 quốc gia gồm Nhật Bản, Serbia, Châu Mỹ Latinh chiếm (5) Châu Á (4), Đức ông George Jacob Koovakad, Phủ Quốc vụ khanh trách nhiệm tổ chức các chuyến tông du.

Một hồng y cho Iran

Tổng Giám mục Bỉ Dominique Joseph Mathieu, giáo phận Tehran Isfahan, ở Iran, đại diện cho Giáo hội công giáo ở quốc gia hồi giáo Shiite, hiện đang ở tình trạng căng thẳng cao độ.

Điều làm giới truyền thông ngạc nhiên là số lượng hồng y cử tri quá đông: 141 hồng y cho 120 vị trí cần thiết sẽ vào Nhà nguyện Sistine để bầu người kế vị Đức Phanxicô, trong số này chỉ có một thiểu số nhỏ không chia sẻ đường hướng chính với Đức Phanxicô.

Khi ngài chọn ngày 8 tháng 12, ngài đã trả lời ngắn gọn với báo chí ngày 13 tháng 9 ngài sẽ không đi Paris trong lễ mở cửa Nhà thờ Đức Bà Paris lại (ngày 8 tháng 12). Ngày 8 tháng 12 sẽ là ngày tổ chức công nghị ở Đền thờ Thánh Phêro, 21 tân hồng y sẽ nhận mũ đỏ, màu đỏ là máu của các Thánh tử đạo, nói lên ý nghĩa của chức vụ hồng y: sẵn sàng hy sinh cho Giáo hội.

Danh sách các tân hồng y của Hồng y đoàn.

Đức ông Angelo Acerbi, 99 tuổi, nguyên Sứ thần Tòa thánh;

Đức ông Carlos Gustavo Castillo Mattasoglio, Tổng Giám mục Địa phận Lima (Peru);

Đức ông Vicente Bokalic Iglic, Tổng Giám mục Santiago del Estero và Giáo chủ Argentina;

Đức Ông Luis Gerardo Cabrera Herrera, Tổng Giám mục Guayaquil (Ecuador);

Đức ông Fernando Natalio Chomalí Garib, Tổng Giám mục Santiago de Chile;

Đức ông Tarcisio Isao Kikuchi, Tổng Giám mục Tokyo (Nhật Bản);

Đức ông Pablo Virgilio Siongco David, Giám mục Địa phận Kalookan (Philippines),

Đức ông László Német, Tổng Giám mục Belgrade (Serbia);

Đức ông Jaime Splenger, Tổng Giám mục Porto Alegre (Brazil) và Chủ tịch Hội đồng Giám mục Nam Mỹ CELAM;

Đức ông Ignace Bessi Dogbo, Tổng Giám mục Abidjan (Bờ Biển Ngà);

Đức ông Jean Paul Vesco, Tổng Giám mục Algiers;

Đức ông Paskalis Bruno Syukur, Giám mục Bogor (Indonesia);

Đức ông Dominique Joseph Mathieu, Tổng Giám mục Tehran (Iran);

Đức ông Roberto Repole, Tổng Giám mục Turin;

Đức ông Baldassare Reina, tân Tổng đại diện Giáo phận Rôma;

Đức ông Frank Leo, Tổng Giám mục Toronto;

Đức ông Rolandas Makrickas, linh mục phó Vương cung thánh đường Santa Maria Maggiore;

Đức ông Mykola Byčok, C.S.R., Giám mục Melbourne của người Ukraina

Linh mục Peter Joseph Radcliffe;

Đức ông Fabio Baggio, Thứ trưởng bộ Phát triển Nhân bản Toàn diện;

Đức Ông George Jacob Koovakad, người tổ chức các chuyến tông du.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Giovanni Maria Vian: “Sẽ có ngày tận thế nhưng Kinh Thánh không nói gì chính xác”

Giovanni Maria Vian: “Sẽ có ngày tận thế nhưng Kinh Thánh không nói gì chính xác”

Nhân dịp khai mạc Thượng hội đồng về cải cách Giáo hội, ông Giovanni Maria Vian, chuyên gia Vatican cho rằng nhiều dự án Đức Phanxicô mở ra vẫn còn chờ thực hiện cụ thể.

lefigaro.fr, Jean-Marie Guénois, 2024-10-03

Cựu giám đốc của L’Osservatore Romano, ông Giovanni Maria Vian là sử gia về kitô giáo, ông khảo cứu các văn bản cổ nhất. Ông phát hành quyển sách làm chấn động và có nhiều thông tin, Giáo hoàng cuối cùng (Le Dernier pape, nxb. Du Cerf).

Hình ảnh Guillermo Simon-Castellvi / Jean-Christophe MARMARA/Le Figaro

Đức Phanxicô đã gây sốc cho một số tín hữu công giáo khi ngài tuyên bố ngài sẽ không đi Pháp ngày 8 tháng 12 để dự lễ khánh thành lại Nhà thờ Đức Bà Paris bị hỏa hoạn tàn phá ngày 15 tháng 4 năm 2019. Một quyết định chín chắn hay bất thường của ngài?

Sử gia Giovanni Maria Vian: Về cơ bản đã có thiếu thận trọng và nhất là hiểu lầm đưa đến việc xem đây chỉ là một giả định hoặc mong muốn của một ai đó, vì thế câu hỏi này đã được các nhà báo hỏi trực tiếp ngài khi ngài từ Châu Á về Rôma. Ngài không để bị thao túng hay buộc phải hành động dưới áp lực bên ngoài, ngài phản ứng mạnh mẽ theo cách của ngài… Nhưng lịch trình của ngài rất bận rộn và tuổi của ngài cũng đã cao, ngài sẽ 88 tuổi tháng 12 sắp tới. Tôi muốn nói thêm ưu tiên của ngài là đến thăm các nước nhỏ: gần một nửa số chuyến đi quốc tế của ngài dành cho các quốc gia có quy mô khiêm tốn này. Cuối cùng và trên hết, ngài là giáo hoàng không ở trong các giáo hoàng tiền nhiệm gần đây, tất cả đều có liên hệ với Pháp hoặc thân Pháp. Đức Gioan XXIII từng là Sứ thần Tòa Thánh tại Paris. Đức Phaolô VI và Đức Bênêđíctô XVI thấm nhuần văn hóa Pháp sâu sắc. Đức Gioan-Phaolô II đã thăm Pháp tám lần, gần bằng số lần ngài đi quê hương Ba Lan của ngài.

Tuần này Đức Phanxicô khai mạc phiên họp lần thứ nhì của Thượng Hội đồng về quản trị Giáo hội, chúng ta nên mong chờ  gì?

Hiện tại không có gì nhiều. Quan trọng nhất là phương pháp tham vấn ở mọi cấp độ của Giáo hội. Về mặt này, nhiều cuộc họp chuẩn bị đã được tổ chức ở địa phương, quan trọng hơn hai phiên họp ở Rôma của Thượng Hội đồng.

Vì sao Thượng Hội đồng bắt đầu bằng buổi sám hối với bảy tội mới?

Các tu sĩ Dòng Tên là chuyên gia của “các bài tập linh thao”, họ thường nhấn mạnh đến việc xét lương tâm. Là tu sĩ Dòng Tên, Đức Phanxicô không thêm định nghĩa giáo lý cho các tội này, nhưng ngài tìm cách chạm đến lương tâm của người đương thời, phạt “sự thờ ơ” của chúng ta trước những tội ác to lớn hiện nay.

Liệu Thượng Hội đồng này có làm thay đổi quyền lực giáo sĩ như ngài mong muốn không?

Thành thật mà nói, tôi thấy có quá nhiều mâu thuẫn về vấn đề này, dù phương thức tiếp cận này cần thiết để khôi phục vị trí xứng đáng của linh mục. Mặt khác, vị trí của phụ nữ trong Giáo hội phải được xác định rõ hơn vì họ luôn ít được lắng nghe, họ là nạn nhân của lạm dụng tình dục, thiêng liêng và quyền lực. Rủi ro là chúng ta sẽ thấy họ ra đi.

Các cải cách của ngài sẽ còn lại gì?

Ngài đưa ra một con đường, hay đúng hơn là những con đường cho Giáo hội công giáo và cho các giáo phái kitô giáo khác. Ngài rất quan tâm đến cuộc đối thoại với các tôn giáo khác. Việc tiếp tục cuộc hành trình sẽ tùy thuộc vào các tín hữu.

Ông phát hành quyển sách có tựa đề hấp dẫn, Giáo hoàng cuối cùng: ý của ông là gì?

Ý tưởng này đến với tôi từ câu trả lời ngạc nhiên của Đức Bênêđíctô XVI năm 2016 trong quyển sách phỏng vấn, khi ngài trả lời câu hỏi liệu ngài có cảm thấy mình là “giáo hoàng cuối cùng” hay không, ám chỉ đến lời tiên tri nổi tiếng của tiên tri Malachi. Đức Bênêđíctô XVI trả lời ngài không thấy ngài thuộc về thế giới cũ nhưng thế giới mới vẫn chưa bắt đầu. Nói cách khác, ngài cho rằng ngay cả với người kế vị ngài, được bầu năm 2013, Giáo hội vẫn chưa đảm đương được hậu quả của sự biến đổi nhanh chóng của thế giới ngày nay. Theo ngài, vấn đề không ở giáo hoàng nhưng ở tầm của thông điệp và chứng tá của Giáo hội trong thế giới “mới”.

Nhưng lời tiên tri này của Malachi có đáng tin cậy không?

Đức Bênêđíctô XVI giải thích đây là lời tiên tri sai lầm. Đây là  các câu phương châm la-tinh áp dụng chung cho cả trăm giáo hoàng. Tài liệu này được cho là của một người bạn của Thánh Bênađô có từ thế kỷ 12. Thật ra các câu này có từ cuối thế kỷ 16 để thao túng tinh thần và ủng hộ một hồng y trong mật nghị mà cuối cùng hồng y này không được bầu làm giáo hoàng. Cho đến thời điểm đó, các câu phương châm khác bằng tiếng la-tinh hoàn toàn phù hợp với các giáo hoàng. Sau đó là những lời khá chung chung và bí ẩn. Chẳng hạn, Đức Bênêđíctô XVI, người cuối cùng trong danh sách này được cho là “vinh quang của cây ô liu” nhưng liệu câu này chỉ áp dụng cho ngài mà thôi không? Sau câu này là câu nói về một “Phêrô la-mã” sẽ là giáo hoàng vào ngày tận thế. Như thế triều Đức Phanxicô sẽ là triều kết thúc của ngôi vị giáo hoàng, thậm chí của cả thế giới? Tôi muốn nói triều giáo hoàng hiện nay đang ở  bước ngoặt quyết định trong lịch sử vì chúng ta phải tái tạo lại hình thức mà quyền lực giáo hoàng đã được thực thi kể từ khi kết thúc Chế độ Cổ đặc biệt là trong triều của giáo hoàng Phanxicô.

Tuy nhiên, Giáo hội nói về “thời kỳ cuối cùng” trong sách giáo lý?

Chắc chắn sẽ có ngày tận thế, nhưng trong Kinh thánh không có gì chính xác: Kinh thánh đưa ra những bối cảnh để chúng ta suy ngẫm. Trong quan điểm kitô giáo về lịch sử, mọi sự đã được hoàn thành nhờ Chúa Kitô nhập thể. Với Chúa Kitô, thời kỳ cuối cùng đã bắt đầu nhưng chưa kết thúc vì kitô hữu chúng ta đang chờ ngày Chúa đến lần thứ hai. Vì thế chúng ta sống trong tình trạng căng thẳng thường trực giữa “đã” và “chưa”, một công thức rất nổi tiếng trong thần học. Vì lý do này, một số học giả Kinh thánh cổ xưa và hiện đại khẳng định sách Khải Huyền không nói nhiều về tương lai mà nói về hiện tại.

Khi phân tích lịch sử của ngôi vị giáo hoàng, ông chứng minh “quyền lực” thiêng liêng của giáo hoàng lại thường là tù nhân của hoàn cảnh lịch sử?

Ngày nay, quyền lực giáo hoàng đã suy giảm khá nhiều nhưng quyền lực này vẫn là một quyền lực thực sự, chính xác, vì khi dùng quyền lực vật chất sẽ có nguy cơ làm hoen ố ảnh hưởng đạo đức và tinh thần của quyền giáo hoàng. Tôi nghĩ đến việc quản lý công lý ở Quốc gia Vatican nhỏ bé, bị chỉ trích nhiều vì thiếu phân chia quyền lực như chúng ta đã thấy trong vụ xét xử Hồng y Angelo Becciu, hoặc với cuộc cải cách tài chính còn dang dở. Chưa kể đến các thảm kịch và các vụ bê bối lạm dụng mà Giáo hội còn lâu mới có thể ngăn chặn được. Mặt khác, quyền lực thiêng liêng đã được khẳng định từ đầu thế kỷ 19 và còn hơn thế với sự mất đi của các Nhà nước Giáo hoàng năm 1870. Nói một cách dễ hiểu, Giáo hội càng có ít quyền lực vật chất thì càng có nhiều quyền lực thiêng liêng.

Ông đã theo dõi sát năm triều giáo hoàng gần đây, ông mô tả sự phát triển của chức vị giáo hoàng như thế nào?

Theo tôi, triều Đức Phaolô VI vẫn là triều mẫu mực. Ngài là giáo hoàng thực sự của Công đồng Vatican II, một công đồng ngài điều hành một cách tôn trọng và cương quyết. Triều của Đức Gioan-Phaolô I quá ngắn nhưng đặc biệt về khả năng truyền đạt. Nếu các phương tiện truyền thông đã giúp ích cho sự phát triển quốc tế của triều giáo hoàng, chúng ta phải thừa nhận ba giáo hoàng cuối cùng đã có những giới hạn rõ ràng trong việc điều hành theo hướng này hay hướng khác.

Liệu Đức Phanxicô có thay đổi hoàn toàn ngôi vị giáo hoàng không?

Ý định của ngài rất xuất sắc nhưng ngài độc đoán, các thành tựu vẫn chưa hoàn thành, thậm chí còn mâu thuẫn, đặc biệt liên quan đến ba cuộc cải cách thiết yếu: “Phi giáo quyền hóa Giáo hội, phân cấp quyền lực Giáo hội và cải cách giáo triều Rôma.”

Ông thấy sự kế thừa một nhân vật có cá tính mạnh mẽ như ngài sẽ như thế nào?

Việc kế vị vẫn chưa được công bố vì Đức Phanxicô vẫn tiếp tục dù tuổi đã cao, nhưng sẽ khó khăn vì sự chia rẽ rất gay gắt trong Giáo hội. Người kế vị của ngài sẽ làm việc hết mình để hàn gắn các chia rẽ trầm trọng trong Giáo hội.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Giovanni Maria Vian: “Nói về tội lỗi, Đức Phanxicô kêu gọi xét mình”

Mathias, một ơn gọi chưa từng có ở Na Uy từ 500 năm nay

Mathias, một ơn gọi chưa từng có ở Na Uy từ 500 năm nay

Ivan Vu | Giáo phận Công giáo ở Oslo, Na Uy

fr.aleteia.org, Theresa Civantos Barber, 2024-09-28

Tháng 6 năm 2024, chủng sinh Na Uy Mathias Ledun được phong phó tế tại Nhà thờ Chính tòa Thánh Olav ở Oslo, giáo xứ quê hương của anh ở Undset. Lần đầu tiên sau năm thế kỷ!

Ân sủng lớn lao của giáo xứ Undset, Na Uy

Mathias Ledum là người đầu tiên trong 500 năm được chịu chức tại giáo xứ quê hương Undset, giáo phận Oslo. Tin vui cho đất nước chỉ có 3% dân số là tín hữu công giáo. Linh mục Ledunn lớn lên tại một ngôi làng nhỏ ở thung lũng Gudbrandsdal, miền trung Na Uy, cha là người Na Uy, mẹ là người Phi Luật Tân. Tân linh mục Ledum cho biết: “Thật khó khăn khi lớn lên vì chỉ có tôi, mẹ, các dì, chị, các anh chị em họ tôi và một gia đình Phi Luật Tân gốc Na Uy là người công giáo.”

Anh không có ơn gọi khi còn nhỏ, trong một thời gian dài anh đã suy nghĩ về ơn gọi. Rất ít dấu chỉ cho thấy một ngày nào đó anh sẽ là linh mục! Thời niên thiếu, anh mơ làm tay trống trong ban nhạc metal, mơ làm vận động viên trượt ván chuyên nghiệp. Nhưng khi đi lễ ngày chúa nhật, dù có những nghi ngờ về đời sống đức tin như hầu hết các bạn trẻ cùng lứa tuổi, chức linh mục luôn cuốn hút anh, nhưng lúc đó anh không có ý định đi tu, anh chỉ muốn lập gia đình.

Theo thời gian, Mathias Ledum ngày càng mến mộ các linh mục. Họ là những người tỏa ra “niềm vui lan tỏa”, họ bỏ thú vui của đời sống bình thường để quay về với Chúa Kitô. Họ có “một niềm vui, một bình an sâu đậm, chân thật và họ chia sẻ bình an này cho những người chung quanh.”

Mọi thứ thay đổi khi anh đi Honduras

Chuyến đi Honduras làm thay đổi cuộc đời. Năm 19 tuổi anh đi Honduras, thấy các nam nữ tu sĩ từ bỏ cuộc sống thoải mái để phục vụ người nghèo đã tác động sâu đậm trên anh. Anh ngạc nhiên trước niềm vui và bình an tỏa ra từ các tình nguyện viên, giống như niềm vui của các linh mục. Trở về sau chuyến đi, anh bắt đầu xin Chúa cho anh biết anh có phù hợp với chức linh mục hay không.

Sau ba năm phân định, Mathias học xong đại học và quyết định liên lạc với giáo phận để vào chủng viện. Sau 5 năm học tập và đào tạo linh mục ở Rôma, anh chịu chức phó tế ngày 29 tháng 6 năm 2024 tại Nhà thờ Thánh Olav ở Na Uy, đó là ngày lễ trọng kính Thánh Phêrô và Phaolô.

Gia đình anh và bà Sigrid Undset, Nobel văn học

Câu chuyện của Mathias Ledum cũng gắn liền với câu chuyện của bà Sigrid Undset, bà nhận giải Nobel văn học năm 1928. Một năm trước đó, bà trở lại đạo công giáo, bà là một trong những nhà văn nổi tiếng của mọi thời đại. “Trong năm đầu tiên ở chủng viện, khi tôi đang làm công việc mục vụ ở Oslo, một phụ nữ đến gặp tôi và hỏi, ‘họ của anh là Ledum sao?’ Tôi nghĩ bà Sigrid Undset đã dùng tên Ledum ở một trong những cuốn sách của bà.”

Sau khi tìm tòi, anh phát hiện gia đình bà và căn nhà gỗ trên núi của anh được nhắc đến trong một số tác phẩm tự truyện và hư cấu của bà. Có nhiều điểm chung giữa hai người: “Bà là người Na Uy, bà được các tu sĩ dòng Đa Minh dạy, tôi học ở Viện Angelicum Rôma; dùng các phương tiện truyền thông để truyền giáo, tôi đang cố gắng làm trên mạng xã hội để người Na Uy biết đức tin.” Anh Ledum tin chắc có một sự thức tỉnh tâm linh ở các quốc gia Bắc Âu vì ngày càng có nhiều cuộc trở lại: “Có một cuộc tìm kiếm điều gì đó cao cả hơn chính mình!”

Marta An Nguyễn dịch

Đức Phanxicô lo ngại có những nơi không còn ơn gọi

Giovanni Maria Vian: “Nói về tội lỗi, Đức Phanxicô kêu gọi xét mình”  

Giovanni Maria Vian: “Nói về tội lỗi, Đức Phanxicô kêu gọi xét mình”

Bằng cách đưa bảy tội mới vào giáo lý công giáo, Đức Phanxicô tìm cách lay chuyển lương tâm giáo dân để thức tỉnh họ.

lepoint.fr, Jérôme Cordelier, 2024-10-04

Ngày 2 tháng 10, Đức Phanxicô cử hành thánh lễ khai mạc phiên họp lần thứ nhì của Thượng Hội đồng Giám mục tại Rôma. © Vatican media/IPA/SIPA / SIPA / Vatican media/IPA/SIPA

Bảy tội mới. Đức Phanxicô có đè nặng lên lương tâm người tín hữu kitô khi ngài thêm vào giáo lý những điều cấm đoán được bảy hồng y thân cận nhất của ngài long trọng tuyên bố không? Khi xem xét kỹ vấn đề phức tạp (hơn bề ngoài của nó), nhà sử học Vatican Giovanni Maria Vian, cựu giám đốc nhật báo L’Osservatore Romano Vatican giải thích: “Trước hết, những tội này không phải là mới, một số tội mang ý nghĩa rộng lớn, ngài không chỉ nói với tín hữu nhưng còn nói với toàn thể nhân loại. Vấn đề không phải là đè nặng lương tâm nhưng là đánh thức lương tâm.”

Sử gia Giovanni Maria Vian trong văn phòng nhà báo L’Osservatore romano trong thời gian ông điều hành tờ báo.

Đức Phanxicô vừa đưa bảy tội mới vào giáo lý công giáo. Triết lý của phương pháp này là gì?

Sử gia Giovanni Maria Vian: Đúng, Đức Phanxicô nói đến tội nhưng những tội này thật ra không có gì mới. Tất cả hoặc gần như tất cả các tội ngài đưa ra là tội đã có trong giáo lý kitô giáo, đặc biệt trong giáo lý công giáo. Văn bản được bảy hồng y đọc khi khai mạc Thượng Hội đồng liên kết nhiều điều với nhau. Chẳng hạn khi nói đến “tội không can đảm đi tìm hòa bình”, rõ ràng ngài muốn nhắm đến các chính trị gia hiếu chiến. Ngài mở rộng phạm vi các tội như tình trạng nghèo đói, sinh thái, phá thai, an tử, chống lại người di cư. Tội chống người di cư do Hồng y người Canada gốc Moravian, Michael Czerny đọc. Khi đề cập đến tội lạm dụng tình dục, một tội rất nặng ngài giao cho Hồng y Seán O’Malley, Tổng Giám mục Boston, Hoa Kỳ đọc. Trong nhiều năm, Hồng y O’Malley làm việc trong Ủy ban giáo hoàng về lạm dụng tình dục và bảo vệ trẻ vị thành niên. Như thế không có gì mới, nhưng trên hết, giáo hoàng và các giám mục phải nhất quán vượt lên những mâu thuẫn hiển nhiên của vấn đề: trường hợp vụ linh mục Dòng Tên Marko Rupnik bị buộc tội lạm dụng phụ nữ, bị trục xuất khỏi Dòng nhưng lại được giáo phận ở Slovenia đón nhận, một vụ tai tiếng lớn vẫn chưa được giải quyết. Dù sao các tội này đã bị Giáo hội lên án từ lâu, điều mới lạ duy nhất là Đức Phanxicô nói đến “tội chống lại phụ nữ, gia đình, tuổi trẻ”, ít nhất là trong cách diễn đạt.

Đức Phanxicô có ý gì khi tuyên bố với bảy tiếng nói này?

Đây là tiến trình sám hối cầu xin tha thứ, như Đức Gioan Phaolô II đã làm với người Do Thái và sau đó nhân dịp Năm Thánh 2000 với tội của các tín hữu kitô và người công giáo trong suốt nhiều thế kỷ. Đức Phanxicô muốn đặt các chủ đề này vào trọng tâm suy nghĩ của Thượng Hội đồng. Ngài muốn lay động tín hữu kitô nhưng ngài cũng muốn nói với toàn thế giới. Ngài kêu gọi giáo dân cũng như tất cả các nhà lãnh đạo xét mình. Ngài muốn đưa Giáo hội và nhân loại vào tiến trình sám hối cấp bách và cần thiết để cố gắng thay đổi hướng đi của hành tinh.

Dù đã nói mạnh mẽ về hòa bình, tôn trọng sự sống, nhập cư, sinh thái, chúng ta vẫn chưa đạt tiêu chuẩn. Nhưng tôi xin nhắc lại, để được tin cậy, người công giáo và Giáo hội phải làm gương. Phải ăn năn cho quá khứ của mình như nước Pháp đã làm với các vụ tai tiếng của anh em linh mục  Philippe, của ông Jean Vanier và nhất là của Abbé Pierre.

Triết lý chung của giao tiếp này là gì?

Là lay động lương tâm. Và tôi nhấn mạnh: tất cả lương tâm. Không phải ngẫu nhiên mà ngài công bố các tội này ngày 7 tháng 10, ngày tưởng niệm cuộc tàn sát do Hamas gây ra chống  người do thái, ngày bắt đầu cuộc chiến ở Trung Đông, ngày cầu nguyện ăn chay vì hòa bình. Ngài mong ngài là nhà tiên tri theo nghĩa đen: người loan tin. Và đó là lý do vì sao ngài dùng từ rất mạnh. Trong một số câu, ngài xin các hồng y nói: “Tôi xấu hổ xin được tha thứ…” Điều này nhắc chúng ta nhớ những lời cầu xin cổ xưa đã có trong Kinh Thánh tiếng Do Thái, đặc biệt trong các sách tiên tri.

Sự can thiệp này nằm trong tính liên tục của lịch sử…

Vào thời điểm Cải cách Tin lành, Giáo hoàng Adrian VI đã xin tha thứ tội lỗi của các tín hữu kitô, thể hiện qua sự sa đọa của Giáo triều Rôma, qua các cuộc chiến tranh đã làm chia rẽ. Vào cuối thế kỷ 19, trong thông điệp Tân sự (Rerum Novarum) Đức Lêô XIII đã đề cập đến các tội xã hội, nguồn gốc của học thuyết xã hội bị lãng quên của Giáo hội. Đức Piô X kế nhiệm đã liệt kê những tội tương tự trong sách giáo lý nổi tiếng của ngài. Và sau Thế chiến thứ hai, Đức Piô XII đã suy tư về vấn đề di cư trong một thông điệp ít được biết đến. Vấn đề lạm dụng cũng không mới. Người đầu tiên công khai các vụ này là Hồng y Ratzinger, một tuần trước khi Đức Gioan Phaolô II qua đời, ngài tố cáo “sự bẩn thỉu” này trong Giáo hội. Và, ba năm sau khi ngài làm giáo hoàng, trên chuyến bay đi Mỹ tháng 4 năm 2008, ngài đã nói với các nhà báo, tôi nhớ như ngày hôm qua, ngài thú nhận ngài xấu hổ, lúc đó ngài rất xúc động và buồn bã.

Liệu giáo dân có phải xưng các tội Đức Phanxicô nêu ra không?

Có, đây là những tội phải xưng. Nếu phạm tội phá thai hoặc an tử thì đó là một tội. Gần đây ngài tạo tranh cãi trên chuyến bay từ Bỉ về Rôma khi ngài tuyên bố “phá thai là tội giết người và các bác sĩ là những kẻ giết mướn”. Ngài đã nhiều lần tố cáo như vậy. Nói chung, hơn cả xưng tội, ngài kêu gọi mọi người tự vấn lương tâm trước những tội này. Xét lương tâm cá nhân nhưng cũng tập thể vì toàn thể xã hội phải nghiêm túc suy nghĩ về những tội này, tội của chúng ta.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Giovanni Maria Vian: “Sẽ có ngày tận thế nhưng Kinh Thánh không nói gì chính xác”

Bản giao hưởng dang dở

Bản giao hưởng dang dở

Ronald Rolheiser, 2024-09-30

Trong nỗi giày vò của sự thiếu hụt tất cả mọi thứ có thể đạt được, đến tận cùng, chúng ta học để biết trong đời này, tất cả mọi bản giao hưởng đều phải dang dở.

Đây là lời của linh mục thần học gia Đức Karl Rahner, và nếu không hiểu ý nghĩa của câu này thì chúng ta có nguy cơ để tình trạng khắc khoải thành khối u trong đời mình. Bị dằn vặt bởi sự thiếu hụt mọi thứ mang ý nghĩa gì? Chúng ta bị hành hạ bởi thứ mình không có được theo kiểu gì?

Đây là chuyện chúng ta trải nghiệm hằng ngày. Thực ra, trong cả cuộc đời, trừ một số ít thời điểm đặc ân và yên bình, sự dằn vặt là cơn sóng ngầm trong tất cả mọi chuyện chúng ta trải nghiệm. Lý ra vẻ đẹp làm chúng ta bình yên thì nó lại làm chúng ta khắc khoải. Tình yêu với người bạn đời không đáp ứng đủ khao khát của chúng ta. Những mối quan hệ của chúng ta trong gia đình dường như quá nhỏ hẹp để chúng ta có thể thấy đủ. Công việc của chúng ta chẳng cân xứng với ước mơ chúng ta có về mình. Nơi chúng ta sống dường như buồn tẻ so với những nơi khác. Chúng ta quá bồn chồn nên chẳng thể ngồi yên trên bàn, chẳng thể ngủ yên trên giường, người cứ bồn chồn lo lắng.

Khi chúng ta có cảm nhận này, chúng ta sẽ luôn thấy đời mình dường như quá bé nhỏ và chúng ta không sống đời mình theo cách chúng ta mong chờ, mong chờ ai đó hay điều gì đó xuất hiện và thay đổi để cuộc đời chúng ta tưởng tượng sẽ bắt đầu.

Tôi nhớ có người kể cho tôi nghe câu chuyện. Anh 45 tuổi, hôn nhân tốt đẹp, có ba đứa con khỏe mạnh, có công việc ổn định nhưng tẻ nhạt, sống ở khu phố bình yên nhưng cũng tẻ nhạt. Nhưng anh chưa bao giờ đặt trọn bản thân vào cuộc sống. Anh thú nhận:

“Phần lớn đời tôi, nhất là trong 20 năm qua, tôi quá khắc khoải muốn thực sự sống đời mình. Tôi chưa thực sự đón nhận con người tôi – một người 45 tuổi, làm việc ở cửa hàng tạp hóa trong một thị trấn nhỏ, lập gia đình với một phụ nữ tốt lành, biết cuộc hôn nhân này sẽ không bao giờ thỏa mãn khao khát tình dục thâm sâu của mình, và biết cho dù có mơ mộng thế nào thì cũng sẽ không đi đến đâu, sẽ không bao giờ có được những ước mơ, sẽ chỉ ở đây, như lúc này, trong một thị trấn nhỏ, trong cuộc hôn nhân này, với những con người này và trong cơ thể này đến hết cuộc đời. Tôi sẽ chỉ già hơn, hói hơn, cơ thể sẽ bớt khỏe mạnh, bớt hấp dẫn hơn. Nhưng trong mọi chuyện, xét từ mọi góc độ, điều đáng buồn là cuộc đời tôi vốn tốt. Tôi thực sự rất may mắn. Tôi khỏe mạnh, được yêu thương, có đời sống gia đình tốt, sống ở một đất nước yên bình và sung túc. Nhưng lòng tôi lại quá khắc khoải đến nổi tôi chẳng bao giờ cảm kích được đời mình, vợ mình, con mình, công việc của mình và nơi mình sống. Tôi luôn mãi ở một nơi khác bên trong con người tôi, quá khắc khoải để thực sự hiện diện nơi tôi đang hiện diện, quá khắc khoải để sống trong nhà mình, quá khắc khoải để thoải mái với chính mình”.

Sự dằn vặt do thiếu mọi thứ có thể có trong đời là vậy. Nhưng nhận thức thấu suốt của Rahner không chỉ là một chẩn đoán mà còn là đơn thuốc cho căn bệnh này. Nó cho chúng ta biết để vượt lên những dằn vặt này, vượt lên khối u của khắc khoải này. Làm sao làm được?

Chính xác bằng cách hiểu và chấp nhận ở đời, mọi hòa âm đều dang dở. Khi hiểu và chấp nhận lý do làm chúng ta dằn vặt không phải do chúng ta là những người thèm khát tình dục quá độ, loạn thần và vô ơn, quá tham lam để không thỏa mãn với cuộc đời này. Không phải vậy. Lý do sâu xa là vì chúng ta bẩm tại được tạo dựng, được truyền năng lượng vượt quá thế giới này. Chúng ta được Thiên Chúa tạo dựng như thế. Chúng ta là những linh hồn vô hạn sống trong một thế giới hữu hạn, những tâm hồn được tạo nên để hợp nhất với mọi vật và mọi người nhưng chỉ được gặp phàm nhân và phàm vật. Chẳng trách chúng ta có vấn đề với sự bất đạt, mộng tưởng, cô đơn và khắc khoải! Chúng ta là những vực sâu không đáy. Khi chưa thể hợp nhất với tất cả, thì chẳng có gì lấp đầy hố thẳm đó được.

Bị dằn vặt vì khắc khoải mới là con người. Hơn nữa, khi chấp nhận chúng ta là con người và do đó không thể có hòa âm trọn vẹn ở đời này, chúng ta thanh thản hơn trong  khắc khoải của mình. Tại sao? Vì bây giờ chúng ta biết mọi thứ đến với chúng ta là cơn sóng ngầm của khắc khoải, của bất đạt, và đó là chuyện bình thường và đúng đắn cho tất cả mọi người.

Như linh mục Henri Nouwen đã viết: “Ở đây, trong đời này, không có thứ gì gọi là niềm vui thuần túy và rõ ràng. Đúng hơn, trong mọi thỏa mãn, đều có ý thức về giới hạn. Phía sau nụ cười là giọt nước mắt. Trong mọi vòng tay ôm, vẫn có cô đơn. Trong mọi tình bạn, vẫn có ngăn cách”.

Bình an và nghỉ ngơi chỉ có thể đến với chúng ta khi chúng ta chấp nhận giới hạn đó trong thân phận con người, vì chỉ khi đó chúng ta mới thôi đòi hỏi rằng cuộc đời – hay cụ thể là người bạn đời, gia đình, bạn bè, công việc, thiên hướng và kỳ nghỉ của chúng ta – cho chúng ta một điều mà nó vốn không thể cho được, cụ thể là một niềm vui thuần túy rõ ràng và sự viên mãn tròn đầy.

J.B. Thái Hòa dịch

Khi nào sợ hãi là lành mạnh?

Phụ nữ Nam Phi cảm thấy bị loại khỏi chương trình nghị sự của Thượng Hội đồng, họ thất vọng về Đức Phanxicô

Phụ nữ Nam Phi cảm thấy bị loại khỏi chương trình nghị sự của Thượng Hội đồng, họ thất vọng về Đức Phanxicô

americamagazine.org, Linh mục Dòng Tên Russell Pollitt, 2024-10-03

Các nữ tu mang thánh giá im lặng đi trong nghi thức ngày Thứ Sáu Tuần Thánh tại Durban, Nam Phi, tháng 3 năm 2016. (Ảnh CNS/Rogan Ward, Reuters)

Phụ nữ và nữ tu Nam Phi thất vọng với Thượng Hội đồng về tính đồng nghị và với Đức Phanxicô.

Bà Annemarie Paulin-Campbell, thần học gia và là nhà hướng dẫn thiêng liêng tuyên bố: “Đức Phanxicô là nhà lãnh đạo ngoại hạng ở nhiều khía cạnh, nhưng với chức phó tế nữ, ngài có vẻ đã có quyết định và không muốn xem lại vấn đề này.”

Đã có hai ủy ban của Vatican nghiên cứu việc phong chức phó tế nữ – năm 2016 và năm 2020 – nhưng báo cáo của họ vẫn chưa được công khai. Bà Paulin-Campbell hỏi: “Sự minh bạch trong vấn đề này ở đâu? Thật khó để không cảm thấy đây đơn thuần là một cố gắng để xoa dịu phụ nữ.”

Bà mô tả “một cảm giác vỡ mộng sâu sắc, một mặt Giáo hội nói chúng ta phải là một Giáo hội biết lắng nghe theo tinh thần Thượng Hội đồng, mặt khác, một lần nữa Giáo hội loại bỏ chức phó tế nữ ra khỏi bàn thảo luận.”

Theo bà điều này làm suy yếu nghiêm trọng toàn bộ ý tưởng lắng nghe và cùng nhau hành trình.

Mọi người đã hy vọng rất nhiều Thượng Hội đồng sẽ giải quyết vấn đề này một cách cụ thể. Chủ đề đã có trong chương trình của phiên họp đầu tiên tháng 10 năm 2023, nhưng đã bị xóa khỏi chương trình nghị sự của phiên họp thứ nhì năm nay. Bà Paulin-Campbell cho biết: “Những phát biểu của Đức Phanxicô trong một cuộc phỏng vấn tháng 5 trên đài truyền hình CBS Mỹ – tái khẳng định phụ nữ sẽ không bao giờ được làm phó tế – đã phá vỡ sợi chỉ hy vọng cuối cùng của nhiều phụ nữ đang bám víu, và một số người đã quyết định rời Giáo hội ngay bây giờ”.

Nữ tu Biddy-Rose Tiernan là một trong các nữ tu được yêu mến và nổi tiếng Nam Phi cho biết sơ liên tục tự hỏi vì sao các ông trong hàng lãnh đạo Giáo hội công giáo lại có nỗi sợ phụ nữ sâu sắc như vậy: “Có phải là quyền lực không? Có phải là cảm thấy bất an không? Rất nhiều phụ nữ giỏi thần học, Kinh Thánh và lịch sử”.

Sơ Tiernan nói: “Chúa Giêsu đã làm cách mạng khi Ngài bao gồm tất cả mọi người là môn đệ và bằng hữu của Ngài, Tôi luôn đi tìm lý do vì sao lại có sự miễn cưỡng, sợ hãi và từ chối này, nếu tôi hiểu lý do đằng sau bất kỳ quyết định nào, tôi có thể chấp nhận dễ hơn.”

Nữ tu Cathy Murugan cho biết: “Tôi rất muốn biết những gì ẩn đằng sau sự thay đổi của Đức Phanxicô về vấn đề này. Tôi thất vọng về ngài vì tôi nghĩ Thượng Hội đồng sẽ thảo luận những vấn đề không thể đề cập trước đây.”

Sơ cho biết, sơ không nghĩ tiếng gọi của Chúa là “tiếng gọi chọn lọc và có định kiến. Bằng cách loại trừ phụ nữ ra khỏi tiếng gọi của Chúa, Giáo hội đang gây bạo lực với phụ nữ”.

Bà Nontando Hadebe, thành viên của Hội đồng các nữ thần học gia Châu Phi và Phụ nữ Công giáo giảng đạo, cho biết bình đẳng giới là trọng tâm các ưu tiên của lục địa và quốc gia: “Châu Phi dẫn đầu thế giới với số lượng nữ nghị sĩ cao nhất, ở Rwanda phụ nữ chiếm 60% trong nghị viện. Giáo hội Châu Phi đứng một mình và tách biệt”.

Bà Hadebe cho biết: “Nhưng cũng có một khía cạnh khác của vấn đề này, do thiếu phong trào cơ sở, hữu hình và tích cực trong số các phụ nữ công giáo Châu Phi về chức phó tế nữ. Nhiều phụ nữ ở Châu Phi bị tách biệt và cô lập khỏi các chị em toàn cầu của họ trong và ngoài Giáo hội đang đấu tranh cho quyền của họ.”

Phụ nữ công giáo Châu Phi được an ủi với lời của Tổng giám mục Buti Tlhagale, giáo phận Johannesburg, Nam Phi, ngài đã  cảnh báo với các giám mục ở Nam Phi về sự tức giận sâu xa ở một số phụ nữ vì “chúng ta đã loại họ ra khỏi chức thánh”.

Trong một bài giảng tại phiên họp khoáng đại của Hội đồng Giám mục Công giáo Nam Phi vào tháng 8, ngài đã nói với các giám mục, dù phụ nữ vẫn tiếp tục ủng hộ Giáo hội: “Các linh mục và giám mục không nhất thiết phải có uy tín tốt với họ. Có định kiến với phụ nữ là một tội, tại này nên có trong danh sách các tội khác khi bạn sắp xưng tội.”

Ngài nói: “Giáo hội sẵn sàng chấp nhận phụ nữ vào các hội dòng và thực tế họ chiếm đa số trong bất kỳ cộng đồng nào…. Tuy nhiên, bằng cách nào đó, có một định kiến cố hữu chống lại phụ nữ trong giới giáo sĩ công giáo và tôi không nghĩ chúng ta sẽ làm được gì nhiều về vấn đề này ngay bây giờ.”

Sau khi hết lệnh cách ly của đại dịch Covid-19, phụ nữ Nam Phi đã phải đối diện với sự trỗi dậy trở lại của kẻ thù truyền kiếp là bạo lực giới. Theo số liệu thống kê về tội phạm từ quý cuối cùng của năm 2023 và quý đầu tiên của năm 2024, cứ 12 phút lại có một vụ hiếp dâm được báo cáo ở Nam Phi. Nói về tệ nạn này, ngài cho biết ngài không hiểu vì sao các ông chăm sóc mẹ mình,  lo lắng cho phẩm giá và tôn trọng mẹ, nhưng với vợ, họ “thành những con thú đối xử tàn nhẫn với vợ như vậy.

Ngài so sánh vấn đề này với cách đối xử với phụ nữ trong Giáo hội: “Chúng ta có thể không đánh đập vợ nhưng chúng ta lại làm một điều gì đó với phụ nữ, và phụ nữ cảm thấy rất rõ chuyện này  và chúng ta không làm gì cả. Sâu thẳm bên trong, họ chưởi chúng ta vì chúng ta loại trừ họ.”

Bà Paulin-Campbell cho biết bà cảm thấy được khích lệ trong đánh giá nghiêm khắc của giám mục Tlhagale: “Vì cuối cùng, đã có một người có thẩm quyền trong Giáo hội Châu Phi lên tiếng mạnh mẽ về cách phụ nữ bị đối xử ở ngoài xã hội cũng như ở trong Giáo hội. Việc Tổng giám mục nói chuyện với các giám mục khác và nói rõ nhiều phụ nữ tức giận và cảm thấy bị loại trừ, nếu không phải là một chút hy vọng, thì ít nhất họ cũng cảm nhận họ được nhìn nhận và công nhận.”

Sơ Murugan cho biết nếu Tổng giám mục Tlhagale phân tích sâu hơn, chúng ta “có thể thấy lý do và cách thức bạo lực đối với phụ nữ trong xã hội vì sao lại phổ biến đến như vậy”. Sơ cho rằng Giáo hội củng cố bất bình đẳng giới và định kiến: “Nếu thực hành và hành vi này của giáo sĩ nam giới trong Giáo hội không bị  thách thức và thay đổi, thì Giáo hội, với tư cách là một tổ chức trong xã hội sẽ tiếp tục tiếp tay và duy trì bạo lực đối với phụ nữ.”

Bà Paulin-Campbell thừa nhận một số nhà lãnh đạo trong Giáo hội ủng hộ phụ nữ trong sứ vụ kể cả chức thánh, nhưng thật đáng buồn là rất hiếm khi họ sử dụng tiếng nói và ảnh hưởng của họ để ủng hộ các phụ nữ này.

Bà cho biết: “Những đồng minh thông cảm trong Giáo hội động viên phụ nữ, họ nói: ‘Hãy kiên nhẫn. Theo thời gian, mọi thứ sẽ thay đổi’. Nhưng những lời này không an ủi được nhiều với các phụ nữ cảm thấy mình được kêu gọi mạnh mẽ để trở thành chức thánh, nhưng họ biết cơ hội để thành hiện thực trong đời họ là vô cùng xa vời.”

Bà giải thích: “Nhiều phụ nữ ở lại với Giáo hội dù họ cảm thấy đau đớn nhưng họ yêu Giáo hội, việc họ rời đi có nghĩa là họ từ bỏ ngay cả ảnh hưởng hạn chế mà họ có để thách thức lập trường của Giáo hội về việc phong chức. Trong một thời gian dài, phụ nữ đã ở lại với hy vọng mọi thứ sẽ thay đổi cho thế hệ tiếp theo, nhưng thật đáng buồn, thế hệ đó hiện đang rời đi hàng loạt, họ không có cùng một cảm giác trung thành ăn sâu vào một Giáo hội không sẵn lòng lắng nghe họ và xem phụ nữ cũng có khả năng thể hiện Chúa Kitô như nhau.”

Marta An Nguyễn dịch

Nhật ký Thượng Hội đồng: Lời kêu gọi hoán cải của Thượng hội đồng

Linh mục Timothy Radcliffe: “Nếu không có câu hỏi, đức tin sẽ chết”

Nhật ký Thượng Hội đồng: Lời kêu gọi hoán cải của Thượng hội đồng

Nhật ký Thượng Hội đồng: Lời kêu gọi hoán cải của Thượng hội đồng

americamagazine.org, Gerard O’Connell, 2024-10-03

Ngày thứ ba 1 tháng 10, Đức Phanxicô trong buổi cầu nguyện canh thức tại Đền thờ Thánh Phêrô trước khi bắt đầu Thượng Hội đồng – Ảnh AP/Alessandra Tarantino

Thượng Hội đồng bắt đầu phiên họp cuối cùng ngày thứ tư 2 tháng 10 với hai ngày tĩnh tâm (thứ hai 30 tháng 9 và thứ ba 1 tháng 10), kết thúc với cuộc bỏ phiếu cho văn kiện cuối cùng ngày 26 tháng 10 và Thánh lễ kết thúc ngày hôm sau.

Phiên họp bắt đầu ngày thứ hai với hai ngày tĩnh tâm kết thúc bằng thánh lễ sám hối do Đức Phanxicô cử hành tại Đền thờ Thánh Phêrô. Buổi lễ có chứng từ của các nạn nhân chiến tranh, cuộc khủng hoảng di cư và lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên của các giáo sĩ, sau đó là lời xin tha thứ của bảy hồng y.

Bà Laurence Gien, phụ nữ sống sót ở Nam Phi chia sẻ trải nghiệm khủng khiếp của bà khi bà bị một linh mục lạm dụng tình dục lúc bà mới 11 tuổi, đây là lần đầu tiên một chứng từ như vậy được nói ra tại Đền thờ Thánh Phêrô. Đó là lời nhắc về “đêm dài đen tối” của Giáo hội và cùng với những lời chứng khác đã là lời kêu gọi mạnh mẽ hoán cải cho tất cả các thành viên của Giáo hội công giáo, bắt đầu từ các nhà lãnh đạo của Giáo hội.

Đức Phanxicô nhấn mạnh đến nhu cầu hoán cải trong các bài giảng tại buổi lễ sám hối và tại Thánh lễ khai mạc Thượng Hội đồng. Lời kêu gọi hoán cải là trọng tâm của toàn bộ quá trình Thượng Hội đồng, bao gồm sự thay đổi trong trái tim, trong suy nghĩ, trong lối sống, trong hành động của những người đi theo Chúa Kitô trong Giáo hội và trên thế giới. Hoán cải là một phần cơ bản của quá trình lắng nghe và “đối thoại thiêng liêng” là phương pháp cốt lõi của Thượng Hội đồng. Một sự thay đổi về cấu trúc mà không hoán cải, không thay đổi trái tim và trí óc sẽ không có được kết quả mong muốn.

Linh mục Timothy Radcliffe, cựu Bề trên Tổng quyền Dòng Đa Minh nhấn mạnh đến nhu cầu hoán cải trong bài nói chuyện thứ hai của ngài với 368 thành viên trong ngày tĩnh tâm. Ngài nhắc nhở “tình yêu mãnh liệt của chúng ta dành cho Giáo hội cũng có thể, một cách nghịch lý, làm chúng ta trở nên hẹp hòi: nỗi sợ Giáo hội sẽ bị tổn hại với những cải cách mang tính hủy diệt làm suy yếu các truyền thống mà chúng ta yêu mến. Hoặc nỗi sợ Giáo hội sẽ không trở thành ngôi nhà rộng mở như chúng ta mong ước”. Ngài nhận xét: “Thật đáng buồn khi Giáo hội thường bị tổn thương bởi những người yêu mến Giáo hội, nhưng theo cách khác! Thượng Hội đồng này không phải là nơi để thảo luận về các thay đổi về cấu trúc nhưng là nơi để lựa chọn sự sống, hoán cải và tha thứ.”

Suy niệm ngày tĩnh tâm của Thượng Hội đồng: “Phép lạ mẻ cá”

Hoán cải không bao giờ dễ dàng, nhưng những thành viên tham dự phải hoán cải nếu muốn Thượng Hội đồng thành công nhiệm vụ của mình: phân định những gì cụ thể cần thiết để trở thành một Giáo hội Thượng Hội đồng trong sứ mệnh ở cấp độ địa phương, quốc gia và quốc tế.

Trong bối cảnh này, tôi xúc động mạnh với những gì linh mục Radcliffe nói trong bài nói chuyện thứ ba của ngài trong buổi tĩnh tâm: “Khi tôi đến Thượng hội đồng năm ngoái, tôi nghĩ thách thức lớn nhất là vượt qua sự đối lập độc hại giữa những người theo chủ nghĩa truyền thống và những người theo chủ nghĩa cấp tiến. Làm thế nào chúng ta có thể chữa lành sự phân cực xa lạ này của công giáo? Nhưng khi lắng nghe, tôi thấy có một thách thức thậm chí còn cơ bản hơn: Làm thế nào Giáo hội có thể đón nhận tất cả các nền văn hóa đa dạng của thế giới? Làm thế nào chúng ta kéo lưới với tất cả những con cá từ mọi nền văn hóa trên thế giới? Làm thế nào để lưới không bị rách?”

Đây có vẻ là vấn đề có ý nghĩa quan trọng hơn nhiều so với việc đưa ra câu trả lời ngay lập tức cho các vấn đề nóng hổi – như việc phong chức phó tế nữ, phục vụ người công giáo L.G.B.T. – đã nổi lên trong phiên họp đầu tiên. Đức Phanxicô thừa nhận tầm quan trọng của những vấn đề này nhưng tôi nghĩ ngài đã khéo léo khi giao các vấn đề này cho 10 nhóm nghiên cứu, được yêu cầu hoàn thành công việc của họ vào tháng 6 năm 2025.

Linh mục Radcliffe trong Thượng Hội đồng tháng 10-2024

Suy niệm tĩnh tâm của Thượng Hội đồng: “Phục sinh: Đi tìm trong bóng tối”

Như Linh mục Radcliffe đã nói: “Những câu hỏi sâu sắc không phải là những câu hỏi để đi tìm thông tin. Những câu hỏi sâu sắc kêu gọi chúng ta sống theo một cách mới, và nói bằng một ngôn ngữ mới.” Nói cách khác, đó là hoán cải. Ngài mời những người tham dự “nhận ra chúng ta cần nhau nếu chúng ta muốn trở thành người công giáo. Các nền văn hóa đa dạng tụ họp tại Thượng Hội đồng này mang chữa lành đến cho nhau, thách thức định kiến của nhau và kêu gọi nhau hiểu sâu sắc hơn về tình yêu.”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Phụ nữ Nam Phi cảm thấy bị loại khỏi chương trình nghị sự của Thượng Hội đồng, họ thất vọng về Đức Phanxicô

Linh mục Timothy Radcliffe: “Nếu không có câu hỏi, đức tin sẽ chết”

Khi nào sợ hãi là lành mạnh?

Khi nào sợ hãi là lành mạnh?

Ronald Rolheiser, 2024-09-23

Tại sao chúng ta không giảng về lửa hỏa ngục nữa? Đây là câu hỏi được nhiều giáo dân chân thành đặt ra, họ lo lắng khi thấy quá nhiều linh mục, thừa tác viên đã nhân nhượng với tội lỗi và quảng đại quá mức khi nói về lòng thương xót của Thiên Chúa. Họ nghĩ nếu chúng ta giảng nhiều hơn về sự thật khó nuốt là tội trọng, là cơn thịnh nộ của Thiên Chúa và nguy cơ vào hỏa ngục, thì sẽ có thêm nhiều người đến nhà thờ và giữ các điều răn. Họ khẳng định “Sự thật sẽ giải phóng” và sự thật ở đây là: tội lỗi có thật, hậu quả cho tội lỗi cũng có thật và mang tính đời đời. Cổng thiên đàng thì hẹp, đường vào hỏa ngục thì rộng. Vậy tại sao chúng ta không giảng nhiều hơn về nguy cơ của lửa hỏa ngục?

Kiểu lý luận này có lý ở chỗ: giảng về tội trọng và lửa hỏa ngục có thể hiệu quả. Đe dọa thì hiệu quả. Tôi biết vậy. Hồi nhỏ, tôi được học như vậy và đã ảnh hưởng đến hành vi của tôi. Nhưng ảnh hưởng này có tốt có xấu. Một mặt, nó làm cho tôi đủ sợ hãi trước Thiên Chúa và cuộc đời, để luôn mãi sợ mình sẽ đi lạc quá xa về mặt luân lý và tôn giáo. Mặt khác, nó làm tôi bị khuyết tật về tôn giáo và cảm xúc theo cách sâu sắc. Đơn giản là rất khó để thân mật với một Thiên Chúa làm mình sợ, và quá e dè sợ hãi trước những sinh lực thần thiêng của cuộc sống thì không tốt về mặt tôn giáo hay những mặt khác. Phải thừa nhận, sợ thánh thiêng trừng phạt, sợ lửa hỏa ngục có thể có hiệu quả khi nó đóng vai trò làm yếu tố thúc đẩy.

Vậy tại sao lại không giảng về nó? Bởi vì nó sai, đơn thuần và đơn giản là vậy. Tẩy não và đe dọa về thể xác cũng hiệu quả, nhưng chúng là phản đề của tình yêu. Chúng ta đâu bước vào mối quan hệ yêu thương vì cảm thấy sợ hãi hay bị đe dọa. Chúng ta bước vào quan hệ yêu thương vì cảm thấy mình được tình yêu cuốn hút vào đó.

Quan trọng hơn nữa, giảng về sự đe dọa thánh thiêng là làm ô danh Thiên Chúa mà chúng ta tin. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu hiện thân và mạc khải không phải là Thiên Chúa dựa trên một vài sa ngã về nhân bản hoặc luân lý bị phân loại tôn giáo cho là tội trọng để đẩy những người thiện tâm thành tâm vào hỏa ngục dù họ không muốn. Tôi vẫn nghe lời đe dọa này được giảng ở các nhà thờ: bỏ lễ ngày chúa nhật là tội trọng, chưa xưng tội mà chết thì sẽ vào hỏa ngục.

Thiên Chúa nào là bênh vực cho một đức tin như thế? Thiên Chúa nào lại không cho những người thành tâm một cơ hội thứ hai, thứ ba, và thậm chí là thứ bảy mươi lần bảy, nếu họ vẫn tiếp tục thành tâm? Chúa nào sẽ nói với một người biết ăn năn trong hỏa ngục: “Xin lỗi, nhưng con biết luật rồi mà! Bây giờ con ăn năn thì đã quá muộn. Con đã có cơ hội rồi mà!”

Một thần học lành mạnh về Thiên Chúa đòi buộc chúng ta phải thôi giảng hỏa ngục có thể là bất ngờ không tốt đang chờ những người tốt lành. Thiên Chúa mà chúng ta tin là Đấng thông hiểu vô hạn, cảm thương vô hạn, và tha thứ vô hạn. Tình yêu của Thiên Chúa vượt quá tình yêu của chúng ta, và nếu chúng ta trong những phút minh trí hơn, có thể thấy được thiện tâm thay vì thấy những lỗi lầm và yếu đuối nơi lòng người, thì Thiên Chúa còn thấy hơn thế biết bao nhiêu. Chúng ta chẳng có gì để sợ Chúa.

Hay là có? Có phải Kinh Thánh nói kính sợ Thiên Chúa là khởi đầu của khôn ngoan đó sao? Sao câu này lại không là câu giống câu kính sợ Thiên Chúa?

Sợ có nhiều dạng, lành mạnh và không lành mạnh. Khi Kinh Thánh nói rằng kính sợ Thiên Chúa là khởi đầu của khôn ngoan, thì dạng sợ này không phải là do cảm thấy mình bị đe dọa hay hay lo âu về chuyện bị trừng phạt. Đó là dạng sợ khi chúng ta đứng trước bạo chúa và kẻ bắt nạt. Tuy nhiên, có một dạng sợ lành mạnh bẩm tại trong những xung năng của tình yêu. Dạng sợ này về căn bản là một tôn kính đúng đắn, nghĩa là, khi chúng ta thực sự yêu ai thì chúng ta sẽ sợ mình phản bội tình yêu này, sợ mình ích kỷ, sợ mình thô tục, sợ mình thiếu tôn trọng mối quan hệ đó. Chúng ta sẽ sợ mình vi phạm không gian thiêng liêng của sự thân mật này. Một cách ẩn dụ, chúng ta sẽ cảm thấy mình đang đứng trên đất thánh và tốt nhất nên tháo giày trước khi đến trước ngọn lửa thiêng.

Hơn nữa, Kinh Thánh còn nói khi Thiên Chúa xuất hiện trong đời chúng ta, thì gần như mọi lúc, lời đầu tiên chúng ta nghe Chúa nói là: “Con đừng sợ!” Vì Thiên Chúa không phải là bạo chúa phán xét nhưng là một sinh lực và bản thể đầy yêu thương, sáng tạo và niềm vui. Như nhà khảo luận Leon Bloy nhắc nhở chúng ta, niềm vui là dấu hiệu không thể sai lầm nhất về sự hiện diện của Thiên Chúa.

Nhà tâm thần học nổi tiếng, Fritz Perls, đã từng được một người theo chủ nghĩa chính thống trẻ tuổi hỏi: “Ông đã được cứu rỗi chưa?” Ông trả lời: “Được cứu rỗi ư? Tôi vẫn đang cố gắng tìm cách để được cứu rỗi!” Chúng ta tôn vinh Chúa không phải bằng cách sống trong sợ hãi để không xúc phạm đến Ngài, mà bằng cách cung kính dùng năng lượng tuyệt vời Chúa ban cho chúng ta. Chúa không phải là một luật lệ để tuân theo, mà là một năng lượng vui tươi để chúng ta dùng một cách phong phú.

J.B. Thái Hòa

Bản giao hưởng dang dở

Linh mục Timothy Radcliffe: “Nếu không có câu hỏi, đức tin sẽ chết”

Linh mục Timothy Radcliffe: “Nếu không có câu hỏi, đức tin sẽ chết”

rvasia.org, Luke Godoy, 2024-10-04

Linh mục Radcliffe trong Thượng Hội đồng tháng 10-2024

Linh mục Timothy Radcliffe nhấn mạnh bổn phận của mọi tín hữu là phải quan tâm đến các câu hỏi của nhau để tìm ra những cách thức mới để xây dựng Giáo hội.

Linh mục nói trong bài suy gẫm trong lễ khai mạc khóa tĩnh tâm của Thượng hội đồng ngày thứ hai 30 tháng 9: “Nếu chúng ta không có câu hỏi… đức tin của chúng ta sẽ chết.” Thượng Hội đồng bắt đầu từ ngày 2 tháng 10 và kết thúc ngày 27 tháng 10.

Linh mục cựu Tổng quyền Dòng Đa Minh đã suy ngẫm về cách Thượng hội đồng nhắc những ai đi tìm Chúa trả lời những câu hỏi quan trọng và cấp bách nhất về đức tin.

Ngài nêu tấm gương của bà Bà Maria Mácđala, Thánh Gioan và Thánh Phêrô trong cách họ đi tìm Chúa Kitô Phục sinh ở ngôi mộ vào rạng sáng Phục sinh đầu tiên.

Ngài giải thích: “Chúng ta đến Thượng Hội đồng này với nhiều câu hỏi… Nhưng không phải là những câu hỏi về một điều gì đó sẽ được phép hay sẽ bị từ chối. Như thế sẽ chỉ duy trì cùng một loại Giáo hội. Những câu hỏi chúng ta đối diện nên giống các câu hỏi trong Phúc âm, mời gọi chúng ta cùng nhau sống cuộc sống Phục sinh một cách sâu đậm.”

Ngài nói: “Chúng ta phải dám mang đến Thượng Hội đồng này những câu hỏi sâu sắc nhất của trái tim mình, những câu hỏi khó hiểu mời gọi chúng ta đến với cuộc sống mới, những câu hỏi đặt ra một cách tôn trọng, không sợ hãi để tìm ra một cách sống mới trong Chúa Thánh Thần.”

Ngài xin các thành viên tham dự Thượng Hội đồng trân trọng tên và khuôn mặt của nhau, đó là chìa khóa để làm trung gian cho sự hiện diện của Chúa: “Thượng Hội đồng này sẽ là khoảnh khắc ân sủng nếu chúng ta nhìn nhau bằng lòng trắc ẩn và nhìn những người cũng đang đi tìm như chúng ta, không phải là đại diện các phe phái trong Giáo hội… nhưng là những người cùng đồng hành, cùng đi tìm, cùng bị tổn thương nhưng tâm hồn hân hoan.”

Linh mục Radcliffe nhấn mạnh cách thức tiến hành Thượng Hội đồng có thể giúp hoàn thành sứ mệnh mục vụ là tìm kiếm và ở bên cạnh những người bị thất bại, những người tội lỗi, những người cảm thấy mình bị loại trừ ra khỏi Giáo hội. Ngài nói: “Nếu chúng ta mở lòng với nỗi khao khát vô hạn của nhau, chúng ta sẽ thả con thuyền truyền giáo.”

Buổi tĩnh tâm trước phiên họp thứ hai của Thượng Hội đồng được Đức Phanxicô khởi xướng, ngài nói “nếu không có lời cầu nguyện, sẽ không có Thượng Hội đồng”.

Linh mục đã giảng sáu bài suy niệm trong ba ngày tĩnh tâm này.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Phụ nữ Nam Phi cảm thấy bị loại khỏi chương trình nghị sự của Thượng Hội đồng, họ thất vọng về Đức Phanxicô

Nhật ký Thượng Hội đồng: Lời kêu gọi hoán cải của Thượng hội đồng

Bài mới nhất