Home Blog Page 1651

Lo cho người nghèo không phải theo chủ nghĩa cộng sản mà là theo Tin mừng

10171120_1600521393511747_6782955132473187004_nAndrea Tornielli, Giacomo Galeazzi, Vatican, 10-1-2015

Phỏng vấn với Đức Thánh Cha: “Thông điệp Tin Mừng hướng đến tất cả mọi người, Tin Mừng không lên án sự giàu có, nhưng lên án sự tôn thờ của cải, thói thờ ngẫu tượng này làm cho con người lãnh đạm với lời kêu gọi lo cho người nghèo.”

Ông Andrea Tornielli, Giám đốc của Vatican Insider đã kết hợp với ông Giacomo Galeazzi, nhà báo chuyên về Vatican của Ý để viết một quyển sách về huấn giáo xã hội của Giáo hội theo đường hướng của Giáo hoàng Phanxicô. Quyển sách viết bằng tiếng Ý có tên là “Papa Francesco: Questa economia uccide” (Giáo hoàng Phanxicô: Nền kinh tế này giết người), với đoạn kết là bài phỏng vấn Đức Thánh Cha được các tác giả thực hiện vào tháng 10 năm 2014, đăng trên ấn bản ngày chúa nhật của tờ Vatican Insider, giới thiệu cho ngày phát hành sách là 13-01.

“Chủ nghĩa Marx,” “Chủ nghĩa Cộng sản,” “Chủ nghĩa bần cùng.” Những lời của Đức Phanxicô về sự nghèo khổ và công bằng xã hội, cũng như những lời kêu gọi thường xuyên của ngài quan tâm đến những người túng quẫn, đã gây nhiều chỉ trích và cáo buộc, đôi khi còn rất gay gắt và chế nhạo nữa. Giáo hoàng Phanxicô cảm thấy thế nào về việc này? Tại sao chủ đề nghèo khổ lại thường thấy trong các lời dạy của ngài?

Kính Đức Thánh Cha, có phải theo cha, chủ nghĩa tư bản trong các thập niên qua là một hệ thống không thể đảo ngược?

Tôi không biết làm sao để trả lời câu hỏi này. Tôi nhận ra rằng sự toàn cầu hóa đã giúp nhiều người thoát cảnh đói nghèo, nhưng nó cũng gây tai hại làm cho nhiều người phải chết đói. Sự thực là của cải toàn cầu đang tăng trưởng rõ ràng, nhưng các bất bình đẳng cũng ngày càng tăng và nảy sinh ra sự nghèo đói mới. Tôi chú ý thấy rằng hệ thống này đã tự duy trì bằng một nền văn hóa thải loại, mà tôi đã nhiều lần nói đến. Có sự thải loại chính trị, xã hội, và thậm chí là một tâm thức thải loại. Khi trung tâm điểm của hệ thống là tiền bạc chứ không phải con người, khi tiền trở thành thần, thì con người bị hạ giá thành những phương tiện thuần túy của một hệ thống kinh tế và xã hội, vốn mang đặc nét, hay đúng hơn là bị thống trị bởi những bất bình đẳng sâu sắc. Vì thế, theo lập luận này chúng ta đã thải loại bất cứ gì không còn hữu dụng kể cả trẻ em và người già, đồng thời tác động lên lớp người trẻ. Tôi đã sốc khi biết rằng, ở những nước phát triển, có hàng triệu thanh niên dưới 25 tuổi không có việc làm. Tôi xem đây là giới trẻ “hai không,” vì họ không học hành cũng không làm việc. Họ không học hành vì không có cơ hội, họ không làm việc vì không có việc làm. Nhưng tôi cũng muốn nhấn mạnh đến một khía cạnh khác của nền văn hóa thải loại, một nền văn hóa đưa con người đến thải loại trẻ con bằng việc phá thai. Tôi đã sốc trước tỷ suất sinh thấp ở nước Ý này, và đây là chính là chúng ta đã tự đánh mất tương lai mình. Nền văn hóa thải loại này cũng đưa đến việc chủ động trợ tử một cách khuất tất đối với người già, những người bị bỏ rơi. Người già không còn được xem là ký ức của chúng ta, không còn là mối liên kết giữa chúng ta với quá khứ, không còn là nguồn khôn ngoan cho hiện tại nữa. Đôi khi tôi tự hỏi, cái gì sẽ bị thải loại tiếp theo đây. Chúng ta cần ngăn chặn điều này trước khi quá trễ. Xin ngăn chặn chuyện này! Từ đây, để trả lời cho câu hỏi của anh, tôi muốn nói chúng ta không được xem tình trạng này là tình trạng không thể đảo ngược. Đừng đầu hàng nó. Chúng ta hãy nỗ lực và xây dựng một xã hội, một nền kinh tế, nơi tâm điểm mọi sự, không phải là tiền bạc, nhưng là con người và phúc lợi của con người.”

Khi để tâm nhiều hơn đến công bằng xã hội, liệu đạo đức kinh tế có thể thay đổi không, hay chúng ta có thể kỳ vọng một sự thay đổi cả về cơ chế trong hệ thống kinh tế hiện nay?

Trước hết, cần phải nhớ rằng chúng ta cần đạo đức trong kinh tế, và cũng cần đạo đức trong chính trị nữa. Từ khi được bầu làm giám mục địa phận Rôma, đã hơn một lần, các nguyên thủ quốc gia và lãnh đạo chính trị mà tôi được gặp, có bàn với tôi về chuyện này. Họ bảo tôi rằng chúng tôi, các lãnh đạo tôn giáo cần phải giúp họ và cho họ các lời khuyên đạo đức. Đúng, các mục tử có thể lên tiếng, nhưng tôi tin chắc rằng điều chúng ta cần, chiếu theo lời Đức Bênêđictô XVI đã nhắc đến trong tông thư Bác ái trong Chân lý (Caritas in Veritate), chính là mọi người, không phân biệt nam nữ đưa tay lên cầu nguyện với Thiên Chúa, ý thức rằng tình yêu và sự chia sẻ kiến tạo nên sự phát triển đích thực, không phải là do đôi tay chúng ta mà ra, nhưng là ơn chúng ta cần xin Chúa. Và tôi cũng tin chắc rằng chúng ta cần những con người này, những người tận tâm trên mọi lĩnh vực, trong xã hội, trong lãnh vực chính trị, trong các thể chế và trong các nền kinh tế để làm việc vì lợi ích chung. Chúng ta không thể trì hoãn thêm nữa trong việc đương đầu với các nguyên do nghèo đói, để hướng đến chữa lành cho xã hội khỏi chứng bệnh chỉ có thể dẫn đến thêm nhiều khủng hoảng nữa mà thôi. Thị trường và đầu cơ tài chính không thể đem lại lợi ích chung khi chúng tự tác tuyệt đối. Không có giải pháp cho các vấn đề của người nghèo, chúng ta sẽ không thể giải quyết các vấn đề của thế giới. Chúng ta cần các dự án, cơ chế và tiến trình để thực hiện một sự phân bổ của cải tốt hơn, bằng cách tạo nên các công việc mới dẫn đến sự thăng tiến quy tụ những người đã bị loại ra ngoài.”

Tại sao những lời ngôn sứ mạnh mẽ của Giáo hoàng Piô XI trong tông huấn Đệ Tứ Thập chu niên (Quadragesimo Anno), chống lại sự thống trị toàn cầu của tiền bạc, lại có vẻ quá cực đoan và cấp tiến, ngay cả đối với một số người Công giáo, ngày nay?

Những lời của Đức Piô XI chỉ có vẻ cực đoan đối với những người thấy chấn động vì lời của ngài, và thấy đau vì những lời lên án đầy tính ngôn sứ của ngài. Nhưng ngài không thổi phồng quá mức, ngài đang nói lên thực trạng của thời kỳ sau khủng hoảng kinh tế và tài chính năm 1929, và như một người trên đỉnh núi, ngài thấy rõ mọi sự, ngài có tầm nhìn xa. Tôi e rằng những người vẫn thấy cần phải đặt vấn đề với các lời khiển trách của Đức Piô XI, là những người đã đi quá xa rồi đó …”

Các trang của Phát triển các Dân tộc (Populorum Progressio) nói tư hữu không phải là một quyền tuyệt đối nhưng phải đặt dưới lợi ích chung, và các trang của Sách Giáo lý (Catechism) của Đức Piô X, xem trong các tội kêu lên tới Trời trả báo, có tội áp bức người nghèo và chiếm đoạt tiền lương của người lao động, liệu có còn hiệu lực với ngày nay không?

Không chỉ là còn hiệu lực, nhưng ngày càng quan trọng, và qua kinh nghiệm của riêng tôi, tôi thấy các trang này ngày càng được chứng minh rõ ràng.

Những lời của cha nói rằng người nghèo là “máu thịt Chúa Kitô” đã gây sốc với nhiều người. Cha có thấy phiền lòng trước những quy kết cha theo “chủ nghĩa bần cùng” hay không?

Trước thời thánh Phanxicô thành Assisi, đã có những người theo chủ nghĩa bần cùng, và nhiều luồng tư tưởng như thế trong thời Trung cổ. Chủ nghĩa bần cùng là một biếm họa về Tin mừng và cả về sự nghèo đói. Nhưng thánh Phanxicô đã giúp chúng ta khám phá liên kết sâu sắc giữa nghèo đói và con đường của Tin Mừng. Chúa đã nói, chúng ta không được làm tôi hai chủ, hoặc Thiên Chúa hoặc tiền của. Đây là chủ nghĩa bần cùng ư? Trong Tin Mừng thánh Matêô chương 25, Chúa Giêsu cho chúng ta biết mình sẽ bị phán xét như thế nào. “Ta đói, Ta khát, Ta ở tù, Ta đau bệnh, Ta trần truồng, và các ngươi giúp đỡ Ta, cho Ta mặc, thăm viếng Ta, chăm sóc Ta.” Bất kỳ lúc nào chúng ta làm việc này cho một trong các anh em mình, là chúng ta làm cho Chúa Giêsu. Chăm lo cho người thân cận, cho người nghèo, những người chịu đau khổ thể xác và tinh thần, những người cùng quẫn. Đây chính là tiêu chuẩn của Chúa. Đây là chủ nghĩa bần cùng ư? Không phải, đây là Tin Mừng. Sự nghèo khó đưa chúng ta xa khỏi thói thờ ngẫu tượng và cảm giác tự đủ. Như ông Giakêu, sau khi gặp được ánh mắt đầy lòng thương xót của Chúa Giêsu, ông đã đem nửa tài sản mà cho người nghèo. Thông điệp Tin Mừng hướng đến tất cả mọi người, Tin Mừng không lên án sự giàu có, nhưng lên án sự tôn thờ của cải, thói thờ ngẫu tượng này làm cho con người lãnh đạm với lời kêu gọi lo cho người nghèo. Chúa Giêsu đã nói, trước khi dâng lễ vật trên bàn thờ, chúng ta phải làm lành với người anh em mình. Tương tự như thế, tôi nghĩ rằng chúng ta có thể mở rộng yêu cầu này thành hòa thuận với những người anh em nghèo của mình.

Cha đã nhấn mạnh sự tiếp nối của truyền thống Giáo hội trong sự quan tâm đến người nghèo. Cha có thể cho một minh chứng được không?

Một tháng trước khi mở Công đồng Vatican II, giáo hoàng Gioan XXIII nói, “Giáo hội ước mong và thể hiện mình là một Giáo hội của tất cả mọi người, đặc biệt là Giáo hội của người nghèo.” Những năm về sau, sự ưu tiên dành cho người nghèo đi vào trong các huấn giáo chính thức của Giáo hội. Một vài người cho rằng đây là chuyện được bịa thêm, nhưng mối quan tâm này xuất phát từ Tin mừng và được viết rõ ngay từ những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo. Nếu tôi lặp lại một vài đoạn văn bài giảng của các Giáo phụ thời thế kỷ II và III nói về cách chúng ta phải đối xử với người nghèo, thì sẽ có người thậm chí còn tố cáo tôi là đang giảng theo chủ nghĩa Marx. “Bạn không tặng cho người nghèo những gì là của bạn, nhưng bạn đang trao cho họ những gì là của họ. Bạn đang chiếm dụng những gì được định là dùng chung cho tất cả mọi người. Trái đất là của tất cả mọi người, chứ không phải của người giàu.” Đây là lời của thánh Ambrose, mà Giáo hoàng Phaolô VI đã trích lại trong tông thư Phát triển các Dân tộc, nói rằng tư hữu không cấu thành một quyền tuyệt đối và vô điều kiện cho bất kỳ ai, và không một ai được quyền giữ riêng cho mình những thứ dư thừa so với nhu cầu của họ trong khi có nhiều người đang thiếu thốn những của thiết yếu. Thánh John Chrysostom đã nói, “không chia sẻ của cải của mình với người nghèo, là cướp của họ và tước đoạt mạng sống họ. Những của cải chúng ta chiếm hữu không phải của chúng ta nhưng là của họ.” (…) Chúng ta có thể thấy đó, quan tâm lo cho người nghèo nằm trong Tin mừng, trong truyền thống Giáo hội, chứ không phải là một sự chạy theo chủ nghĩa cộng sản, và không được phép để quan tâm Tin mừng này biến thành hệ tư tưởng, một chuyện đôi khi xảy ra trong lịch sử. Giáo hội, khi mời gọi chúng ta vượt thắng cái mà tôi gọi là “lãnh đạm toàn cầu hóa”, phải hoàn toàn tự do không vướng mắc bất kỳ lợi ích chính trị hay hệ tư tưởng nào. Động lực của Giáo hội chỉ có thể là Chúa Giêsu, và mong muốn góp phần xây dựng một thế giới nơi chúng ta nhìn đến và chăm sóc cho nhau.”

J.B.Thái Hòa dịch

Sách: Papa Francesco. Questa economia uccide, Piemme

Giáo hoàng Phanxicô ở Sri Lanka – gặp gỡ, động viên, cầu nguyện

Pope Francis with Sri Lanka's President Maithripala Sirisena in Colombo, Jan 13, 2015 - REUTERSGiáo hoàng Phanxicô đã đến Colombo, Sri Lanka, vào sáng ngày thứ ba, mở đầu cho chuyến công du châu Á kéo dài 1 tuần, với hai địa điểm là Sri Lanka và Phi Luật Tân. Đức Thánh Cha đã hạ cánh xuống phi trường với đầy nghi lễ hoành tráng: các vũ công truyền thống, một dàn đồng ca thiếu nhi với bài hát được viết riêng đánh dấu chuyến công du này, cũng như quốc thiều của Tòa Thánh và Sri Lanka được tấu lên bởi dàn nhạc quân đội, cùng với 21 phát súng hiệu chào mừng.

Tổng thống mới được bầu và vừa nhậm chức của Cộng hòa Dân chủ Xã hội Sri Lanka, Maithripala Sirisena, đã có những lời chính thức chào đón Giáo hoàng Phanxicô, cảm ơn ngài vì đã đến thăm và mong ngài chúc lành cho ông và cho toàn thể đất nước và người dân.

Việc Đức giáo hoàng mở đầu chuyến công du châu Á bằng việc viếng thăm Sri Lanka, thực sự đầy ý nghĩa. Chuyến viếng thăm của ngài cũng đặc biệt ý nghĩa với riêng bản thân tôi, bởi tôi chỉ vừa được bầu làm tổng thống vài ngày trước. Việc ngài viếng thăm cho tôi cơ hội được nhận phép lành của ngài mở đầu cho nhiệm kỳ tổng thống của mình.

Chuyến công du của Giáo hoàng Phanxicô đến đảo quốc này, nổi tiếng là ‘hòn ngọc Ấn Độ dương’ bởi vẻ đẹp thiên nhiên của mình, sẽ đi cùng với hành động của người dân Sri Lanka để chữa lành những vết sẹo của cuộc nội chiến kéo dài nhiều thập kỷ và chỉ mới chấm dứt hồi năm 2009. Nhu cầu cần có sự hòa giải đích thực để đi đến công bằng, và một nền hòa bình lâu dài thực sự, chính là tâm điểm bài nói của Đức Thánh Cha trong nghi lễ chào đón.

Thật là một bi kịch tiếp diễn trong thế giới chúng ta, khi quá nhiều cộng đồng đang chiến tranh nội bộ với nhau.  Sự bất lực không thể hòa giải các khác biệt và bất đồng, dù mới hay cũ, đều gây nên những căng thẳng sắc tộc và tôn giáo, thường kéo theo những cơn bộc phát bằng bạo lực.  Trong nhiều năm qua, Sri Lanka đã phải chứng kiến những kinh hoàng của xung đột nội chiến, và giờ đây đang tìm cách củng cố hòa bình và chữa lành các vết sẹo của những năm tháng cũ.  Thật không dễ gì thắng vượt được tàn dư cay đắng của những bất công, bạo tàn, và bất tín mà cuộc xung đột này để lại.  Chỉ có thể làm được khi dùng sự thiện mà thắng sự dữ (Rm 12, 21) và bằng cách giữ vững những đức tính thúc đẩy hòa giải, đoàn kết và hòa bình.  Tiến trình hàn gắn này cũng cần đến việc mưu cầu sự thật, không phải để mở ra những vết thương cũ, nhưng là một việc cần thiết để thăng tiến công bằng, chữa lành và hợp nhất.

Vai trò của những người có đạo trong việc thăng tiến hòa bình và thúc đẩy công ích cũng là một chủ đề được Đức Thánh Cha nhấn mạnh:

Các bạn thân mến, tôi tin chắc rằng mọi tín hữu của các truyền thống tôn giáo khác nhau, đều đóng vai trò căn bản trong tiến trình phức tạp của hòa giải và tái xây dựng quốc gia mình.  Để tiến trình đó thành công, tất cả mọi thành viên xã hội phải làm việc chung với nhau, tất cả đều phải có tiếng nói.  Tất cả phải tự do bày tỏ bận tâm, nhu cầu, nguyện vọng và e ngại của mình.  Quan trọng nhất, mọi người phải sẵn sàng chấp nhận người khác, tôn trọng sự đa dạng chính đáng, và học cách sống như một gia đình.  Bất kỳ lúc nào người ta lắng nghe người khác một cách khiêm nhượng và cởi mở, thì các giá trị và nguyện vọng chung của họ sẽ trở nên rõ ràng hơn hẳn.  Không được xem sự đa dạng là một mối đe dọa, nhưng phải là một nguồn phong phú hóa.  Con đường đến với công bằng, hòa giải và hòa hợp xã hội sẽ được trở nên rõ ràng hơn nhiều.

Tâm điểm chuyến công du Sri Lanka của Đức Thánh Cha là việc phong thánh cho chân phước Joseph Vaz, một linh mục cuối thế kỷ XVII đầu XVIII, là anh hùng vĩ đại vì Tin mừng ở Sri Lanka, ngài rất sống động và phổ biến trong các phụng vụ của người Sri Lanka ngày nay.

Chuyến công du Sri Lanka của tôi, trước hết là vì việc mục vụ.  Là mục tử chung của Giáo hội Công giáo, tôi đến để gặp gỡ, động viên, và cầu nguyện với người Công giáo ở đảo quốc này.  Một điểm nhấn trong chuyến công du này là việc phong thánh cho chân phước Joseph Vaz, mẫu gương đức mến Kitô giáo và lòng tôn trọng với tất cả mọi người, bất chấp sắc tộc hay tôn giáo, và vẫn đang tiếp tục truyền hứng khởi cũng như khuyên dạy cho chúng ta ngày nay.  Nhưng chuyến viếng thăm này của tôi cũng là để bày tỏ tình yêu thương và bận tâm của Giáo hội đến tất cả mọi người dân Sri Lanka, và để xác nhận mong mỏi của cộng đồng Công giáo muốn dự phần tích cực vào trong đời sống xã hội này.

Việc phong thánh cho chân phước Joseph Vaz sẽ được diễn ra trong thánh lễ ngoài trời tại Colombo ngày thứ tư.

Chỉ có Thần Khí mới mở tâm hồn chúng ta yêu mến Chúa

OSSROM15096_ArticoloGiáo hoàng Phanxicô đã nói rằng chỉ có Thần Khí mới có quyền năng mở tâm hồn chúng ta với Chúa và tình yêu của Ngài, chứ không phải hàng ngàn bài tập Yoga hay hay các khóa Thiền. Những lời này được Ngài nói trong bài giảng Thánh lễ sáng thứ sáu cử hành ở nhà nguyện Santa Marta.

Suy niệm của Giáo hoàng từ bài đọc Tin mừng trong ngày kể lại các tông đồ đã kinh hoàng thế nào khi thấy Chúa Giêsu đi trên mặt nước  Và Ngài giải thích lý do họ kinh hoàng là vì tâm hồn họ chai đá.

‘Phản ảnh’ sự ái kỷ của những người tu, của mọi người.

Giáo hoàng Phanxicô nói rằng tâm hồn con người có thể bị hóa đá vì nhiều lý do, chẳng hạn như một cảm nghiệm đau đớn trong đời. Nhưng ngài chỉ ra rằng, một lý do khác khiến tâm hồn chai đá là bởi người ta khép kín trong bản thân mình.

‘Tạo dựng một thế giới bên trong mình, tất cả đều khép kín. Khép kín trong bản thân mình, trong cộng đoàn hay giáo xứ của mình, nhưng luôn khép kín. Và sự khép kín này có thể vần vũ quanh rất nhiều thứ. Nhưng hãy nghĩ về sự kiêu hãnh, tự đủ, nghĩ rằng tôi tốt hơn người khác, và cả sự phù phiếm nữa đi?  Chúng ta có ‘những người ánh xạ’ (những người kết chặt với hình ảnh của mình trong gương) những người gắn chặt vào mình và không ngừng nhìn về bản thân mình, có phải vậy không? Những người ái kỷ trong lòng đạo, có không?  Nhưng họ có một tâm hồn chai đá bởi họ khép kín trong tâm hồn, họ không mở ra.  Và họ tìm cách bảo vệ mình với những bức tường mà họ xây lên quanh mình.’

Những tâm hồn chai đá bởi sự bất an và sợ hãi.

Giáo hoàng nói rằng những tâm hồn chai đá trong người ta có thể xuất hiện từ một vấn đề bất an, chẳng hạn như những người rào chắn bản thân bằng lề luật và quy tắc, như thể đang ở trong tù, cảm thấy an toàn hơn và chiếu luật của mình theo từng chữ một.

‘Khi một tâm hồn trở nên chai đá, nó không còn tự do và nếu không còn tự do thì là bởi con người đó không còn có thể yêu thương, đó chính là nghiệp chướng mà thánh Gioan tông đồ đã nói đến trong bài đọc một.  Một tình yêu hoàn hảo không có sợ hãi, trong tình yêu không có sợ hãi, bởi nỗi sợ chờ đợi sự trừng phạt và con người sợ hãi không có tình yêu trọn hảo. Người đó không tự do. Họ lúc nào cũng sợ có điều gì đó đau đớn hay buồn phiền xảy đến, sẽ khiến cho đời sống họ xấu đi hay đe dọa ơn cứu độ bất diệt của họ … Thật là một hình tượng quá chuẩn, bởi người đó không thể yêu thương. Một người không thể yêu thương, là người không tự do.  Và tâm hồn họ chai đá bởi họ không học cách để yêu thương.’

Thần Khí cho chúng ta tự do và ngoan ngoãn, chứ không phải là nhờ yoga và thiền.

Giáo hoàng Phanxicô kết bài giảng bằng lời nhấn mạnh rằng chỉ có Thần Khí mới có thể dạy chúng ta cách yêu thương và giải phóng chúng ta khỏi tâm hồn chai đá.

‘Bạn có thể theo học cả ngàn khóa giáo lý, hàng ngàn khóa linh đạo, hàng ngàn hóa yoga hay thiền, và đủ mọi thứ khác. Nhưng không gì có thể cho bạn tự do như con cái Thiên Chúa.  Chỉ có Thần Khí có thể thổi bừng tâm hồn bạn thưa lên ‘Cha ơi.’ Chỉ có Thần Khí mới có thể xóa bỏ, phá tan sự chai đá trong tâm hồn và làm cho quả tim bạn … mềm đi?  Không, tôi không thích từ đó, không phải mềm đi, mà phải là ‘ngoan ngoãn.’  Ngoan ngoãn với Thiên Chúa.  Ngoan ngoãn khi tự do yêu thương.’

Tình yêu dẫn chúng ta đến với Chúa

OSSROM15080_LancioGrandeGiáo hoàng Phanxicô nhắc nhở các tín hữu rằng tình yêu Kitô giáo phải được thể hiện trong hành động cụ thể, và ngài chỉ rõ rằng lời nói là không đủ.

Trng bài giảng lễ ban sáng ngày thứ năm 08-01, tại Nguyện đường Nhà trọ Thánh Marta, Giáo hoàng nói rằng Thiên Chúa dẫn dắt với tình yêu, và qua tình yêu chúng ta đi đến nhận biết Thiên Chúa.

Suy niệm về ‘từ khóa’ trong phụng vụ thời gian này, Giáo hoàng Phanxicô nói rằng Chúa Giêsu tự ‘biểu lộ’ trong lễ Hiển linh, trong lễ chịu Phép rửa, và tại tiệc cưới Cana, nhưng ngài đặt câu hỏi rằng: ‘làm sao chúng ta nhận biết Thiên Chúa?’ Đức Phanxicô giải thích rằng trí tuệ không giải nghĩa được chân lý này cho bằng tấm lòng.

CHÚNG TA ĐI ĐẾN NHẬN BIẾT THIÊN CHÚA TRÊN ĐƯỜNG YÊU THƯƠNG

‘Thiên Chúa là tình yêu! Chỉ trên con đường yêu thương, các bạn mới có thể nhận biết Thiên Chúa. ‘Tình yêu có lý lẽ’, ‘tình yêu đồng hành cùng lý luận.’ Nhưng là tình yêu! Mà làm sao chúng ta có thể yêu nếu không biết gì? Thì hãy yêu thương người thân cận.’ Và đây chính là giáo lý của 2 giới răn chính, điều hệ trọng nhất là

‘Con phải yêu mến Đức Chúa, Chúa của con, với hết lòng, hết linh hồn, hết trí con. Đây là giới răn trọng nhất và trước nhất. Giới răn thứ hai cũng như thế: Con phải yêu thương người thân cận như chính mình.’ Và Đức Phanxicô chỉ ra rằng ‘để đạt được giới răn đầu, chúng ta phải đi trên những bước của giới răn thứ hai: nghĩa là qua tình yêu thương dành cho người thân cận, chúng ta có thể đi đến nhận biết Thiên Chúa, Đấng là tình yêu. Chỉ qua yêu thương, chúng ta mới đạt đến tình yêu.’

Và giáo hoàng Phanxicô nói rằng, đây chính là lý do vì sao chúng ta phải yêu thương nhau, bởi tình yêu đến từ Thiên Chúa và bất kỳ ai yêu thương đều từ Thiên Chúa mà ra:

TÌNH YÊU THIÊN CHÚA KHÔNG PHẢI LÀ TẤN TUỒNG

‘Người yêu thương thì nhận biết Thiên Chúa, người không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, bởi Thiên Chúa là tình yêu. Đức Phanxicô nhấn mạnh, nhưng, ‘đây không phải là tình yêu ‘đóng kịch.’ Không phải, tình yêu này có thật, mạnh mẽ và bất diệt. ‘Tình yêu này tự ‘biểu lộ’ nơi Người Con, là Con Thiên Chúa, Đấng đã đến để cứu độ chúng ta. Đây là một tình yêu cụ thể, do bởi hành động mà ra chứ không phải bởi lời nói. Để nhận biết Thiên Chúa, chúng ta phải đi trong tình yêu, yêu thương người thân cận, yêu thương người ghét chúng ta, yêu thương tất cả.’

TÌNH YÊU THIÊN CHÚA GIỐNG NHƯ CHÙM HOA HẠNH ĐÀO

Giáo hoàng Phanxicô chỉ ra rằng Thiên Chúa đã cho chúng ta Con độc nhất của Người để giải phóng chúng ta khỏi tội lỗi, và ngài nói rằng trong Chúa Giêsu, chúng ta có thể leo lên, từng bước một, đến với tình yêu Thiên Chúa, đến vói nhận thức về Thiên Chúa là tình yêu. Nhắc lại những lời của ngôn sứ Jeremiah, Giáo hoàng nói rằng tình yêu Thiên Chúa có trước mọi sự … Ngài đi trước chúng ta. ‘Ngôn sứ Jeremiah nói rằng Thiên Chúa giống như hoa của cây hạnh đào, bởi đây là loài cây nở hoa đầu tiên vào mùa xuân, nghĩa là Thiên Chúa luôn triển nở trước chúng ta. Khi chúng ta đến, thì Thiên Chúa đã ở sẵn đó chờ chúng ta rồi. … Ngài luôn luôn ở đó trước chúng ta.

TÌNH YÊU THIÊN CHÚA LUÔN LUÔN CHỜ ĐỢI CHÚNG TA

Nói về bài Tin mừng trong ngày kể chuyện hóa bánh và cá ra nhiều, giáo hoàng nói rằng Thiên Chúa động lòng thương cho nhiều người đổ xô đến nghe giảng ‘bởi họ như đàn chiên không người chăn dắt, họ không có định hướng.’ Và Đức Phanxicô nói rằng, ngày nay, cũng có quá nhiều người không có định hướng, nhưng Thiên Chúa luôn đi trước, như lúc xưa Chúa Giêsu đã đi trước các tông đồ, những người chẳng hiểu được chuyện gì đang diễn ra.

‘Tình yêu Thiên Chúa luôn đợi chờ chúng ta, luôn luôn cho chúng ta kinh ngạc. Cha chúng ta, Đấng yêu thương chúng ta vô vàn luôn luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta. Luôn luôn! Không phải một lần, mà là luôn mãi!’

Giáo hoàng Phanxicô kết bài giảng bằng lời nguyện xin Chúa cho chúng ta, ơn làm quen và nhận biết Thiên Chúa trên đường yêu thương.

Giáo hoàng Phanxicô – Diễn văn với các Ngoại giao đoàn

ANSA725692_ArticoloNgày thứ hai, Giáo hoàng Phanxicô có bài diễn văn truyền thống thường niên với thành viên của các Đoàn Ngoại giao đóng tại Tòa Thánh.

Sau đây là toàn văn bài nói chuyện của Đức Thánh Cha với thành viên của các đoàn ngoại giao.

BÀI DIỄN VĂN CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ

VỚI CÁC THÀNH VIÊN CỦA CÁC ĐOÀN NGOẠI GIAO

12 tháng 1, 2015

Thân gửi các quý ngài

và các quý ông quý bà,

Tôi cảm ơn sự hiện diện của các vị trong buổi hội kiến truyền thống này, một dịp cho tôi nhân thời điểm đầu năm, gởi đến các vị, gia đình và những người ủy quyền đại diện cho các vị, những lời chào thân ái và lời chúc của tôi. Tôi đặc biệt cảm ơn Trưởng các Ngoại giao đoàn, Đại sứ Jean-Claude Michel, vì những lời ông vừa gởi đến tôi thay mặt tất cả mọi người, và tôi cảm ơn mỗi một người các bạn vì những nỗ lực không ngừng trong tinh thần cộng tác tương trợ thăng tiến quan hệ giữa các quốc gia và những tổ chức quốc tế mà các bạn đại diện ở Tòa Thánh. Trong năm qua, những quan hệ này đã được củng cố nhờ có thêm các đại sứ thường trú ở Roma, và nhờ việc ký kết những hiệp ước song phương mới, vừa chung, như ký ước hồi tháng 1 năm ngoái với Cameroon, vừa riêng, như ký ước với Malta và Serbia.

Hôm nay tôi mong muốn được lặp lại một từ khá thân thương với chúng ta: hòa bình! Hòa bình đến với chúng ta qua lời các thiên thần trong đêm Giáng Sinh (Lc 1, 14) như một ơn quý báu từ Thiên Chúa, và cũng đồng thời là một trách nhiệm mang tính cá nhân và xã hội, cần chúng ta bận tâm và tận tụy đảm nhận. Nhưng cùng với hòa bình, hình ảnh Giáng Sinh cũng nói với chúng ta một hiện thực thương tâm khác: là sự loại trừ. Trong một vài tượng ảnh cả ở phương Đông và phương Tây, chẳng hạn như bức tranh huy hoàng về Giáng sinh của Andrej Rublev, Hài đồng Giêsu không nằm trong máng cỏ, nhưng là trong một nấm mộ. Hình ảnh này, vốn có ý liên kết hai đại lễ chính của Kitô giáo là Giáng Sinh và Phục Sinh, chỉ ra rằng việc vui mừng đón nhận trẻ bé mới hạ sinh này không thể tách rời khỏi toàn bộ dòng đời của Chúa Giêsu, chịu sỉ nhục và loại trừ, chịu chết trên thập giá của Ngài.

Các câu chuyện Giáng Sinh cũng cho chúng ta thấy tâm hồn chai đá của nhân loại thật kho để đón nhận Hài Nhi. Ngay từ đầu, Ngài đã bị đẩy ra ngoài, bị bỏ mặc ngoài trời lạnh lẽo, buộc phải sinh ra trong một chuồng bò bởi không còn chỗ trong nhà trọ (Lc 2, 7). Nếu đây là cách người ta đối xử với Con Thiên Chúa, thì người ta còn xử tệ thế nào nữa đây với nhiều anh chị em của chúng ta! Loại trừ là một thái độ mà chúng ta ai cũng có, nó khiến chúng ta xem người thân cận của mình không phải là anh chị em để đón nhận, nhưng là những thứ không đáng để chú ý, một thù địch, hay một người phải nghe theo lời chúng ta. Đây là tâm thức đã tăng cường cho ‘nền văn hóa vứt đi’ vốn chẳng chừa bất kỳ ai hay bất kỳ điều gì: tự nhiên, con người, và ngay cả Thiên Chúa nữa. Nó nảy sinh một nhân loại đầy đau khổ và luôn bị xâu xé bởi các căng thẳng và xung đột đủ loại.

Và tiêu biểu cho điều này, trong trình thuật Giáng sinh, là Vua Hêrôđê. Cảm thấy quyền lực của mình bị Trẻ bé Giêsu đe dọa, ông đã ra lệnh giết tất cả trẻ em ở Bê-lem. Chúng ta nghĩ ngay đến Pakistan, nơi cách đây 1 tháng, hơn 100 trẻ em đã bị tàn sát dã man không nói nổi. Với gia đình họ, tôi mong muốn một lần nữa gởi đến lời an ủi và hứa chắc sẽ tiếp tục cầu nguyện luôn, cho quá nhiều trẻ vô tội đã thiệt mạng.

Chiều hướng loại trừ của cá nhân, chắc chắn đi kèm với chiều hướng loại trừ của cả xã hội, một nền văn hóa loại trừ cắt đứt những gắn kết nhân bản sâu sắc nhất và chân thật nhất, dẫn đến sự sụp đổ của xã hội và nảy nở bạo lực và chết chóc. Chúng ta thấy các bằng chứng đau lòng của chuyện này trên tin tức hàng ngày, chứ không chỉ là cuộc tàn sát thương tâm vừa mới xảy ra tại Paris mấy hôm trước. Những người khác ‘không còn được xem là hiện hữu đồng phẩm giá, là anh chị em nhân loại chung nữa, nhưng là những mục tiêu.’ (Thông điệp Ngày Hòa bình Thế giới 2015) Mất đi tự do, người ta bị nô lệ hóa, dù là nô lệ cho các mốt nhất thời, hay cho quyền lực, tiền bạc, hay thậm chí là cho những dạng tôn giáo lầm lạc. Đây là những mối nguy mà tôi đã chỉ ra trong Thông điệp cho Ngày Hòa bình Thế giới mới đây, nói về vấn đề đủ loại nô lệ hóa trong thời nay. Tất cả mọi dạng nô lệ này nảy sinh từ một tâm hồn thối nát, một tâm hồn không còn khả năng nhận ra và làm việc tốt hay theo đuổi hòa bình nữa.

Thật buồn lòng khi chứng kiến những hệ quả thương tâm của tâm thức loại trừ và ‘nền văn hóa nô lệ’ này trong những xung đột lan tràn không dứt. Như một thế chiến phân mảnh, với các dạng và mức độ căng thẳng khác nhau, tác động đến nhiều vùng trên thế giới chúng ta, bắt đầu từ Ukraine gần đây đã trở thành một nhà hát bi thảm cho chiến trận. Tôi hi vọng rằng qua đối thoại, sẽ gắn kết các nỗ lực hiện thời nhắm chấm dứt những thù địch này, và mong mỏi rằng các bên liên quan sẽ bắt tay sớm hết sức có thể, với một tinh thần mới thượng tôn luật quốc tế, dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau và hòa giải huynh đệ, nhắm đến chấm dứt cuộc khủng hoảng hiện thời.

Suy nghĩ của tôi hướng về Trung Đông, bắt đầu với mảnh đất thân thương của Chúa Giêsu, và là nơi tôi đã được đến viếng hồi tháng 5 vừa qua, cũng như nơi chúng ta không ngừng cầu nguyện xin cho được hòa bình. Chúng tôi đã cùng nhau hết mình làm việc này, với cựu tổng thống Israel Shimon Peres, và tổng thống Palestine Mahmoud Abbas, được thúc đẩy với một hi vọng chắc chắn rằng các đàm phán giữa hai bên sẽ được nối lại lần nữa, để chấm dứt bạo lực và đạt được giải pháp có thể cho người Israel và Palestine chung sống hòa bình bên trong những đường biên giới được xác định rõ ràng và được quốc tế công nhận, nghĩa là hướng đến ‘giải pháp 2 nhà nước.’

Đau lòng thay khi Trung Đông đang bị lôi kéo và các xung đột khác vốn đã kéo dài từ quá lâu rồi, với những hậu quả nhức nhối, cũng như do bởi sự lan tràn của chủ nghĩa khủng bố cực đoan ở Syria và Irắc. Hiện tượng này là hệ quả của nền văn vứt đi, khi nó vứt đi cả Thiên Chúa. Chủ nghĩa cực đoan tôn giáo, trước khi thanh trừng con người bằng những việc giết chóc khủng khiếp, thì chính nó đã thanh trừng Thiên Chúa, biến Đức Chúa thành một cái cớ thuần hệ tư tưởng. Trước những sự tấn công bất chính như thế đánh vào các Kitô hữu và những nhóm tôn giáo và sắc tộc khác trong vùng, cần có một phản ứng nhất trí đồng lòng trong phạm vi luật quốc tế, để có thể chấm dứt sự lan tràn các hành vi bạo lực, vãn hồi hòa hợp và hàn gắn các vết thương gây ra bởi những xung đột hiện hành này. Ở đây, trước sự hiện diện của các vị, tôi thỉnh cầu cộng đồng quốc tế, với các chính phủ có liên quan, hãy có những bước tiến cụ thể để đem lại hòa bình và bảo vệ những nạn nhân của chiến tranh và đàn áp, đã bị xua đuổi khỏi nhà và quê hương của mình. Trong thư gởi không lâu trước Giáng Sinh, tôi đã tìm cách bày tỏ sự gần gũi của mình và hứa cầu nguyện cho mọi cộng đoàn Kitô hữu ở Trung Đông. Đời sống của họ là chứng tá quý báu cho đức tin và lòng dũng cảm, bởi họ đóng vai trò căn bản là người thợ xây dựng hòa bình, hòa giải và phát triển trong các xã hội dân sự mà họ là một phần trong đó. Một Trung Đông không có Kitô hữu, là một Trung Đông hư hoại và què quặt. Khi thúc giục cộng đồng quốc tế không được làm ngơ trước tình cảnh này, tôi hi vọng rằng các lãnh đạo trí thức, tôn giáo và chính trị, đặc biệt là lãnh đạo của cộng đồng Hồi giáo, sẽ lên án tất cả những kẻ cực đoan và những kẻ diễn giải cực đoan tôn giáo nhằm biện hộ cho các hành động bạo lực của mình.

Thật đáng buồn khi có những hành động tàn ác tương tự, thường xâm hại đến những người nghèo và người dễ bị tổn thương nhất, đang diễn ra ở những vùng khác trên thế giới nữa. Tôi nghĩ đặc biệt đến Nigeria, nơi các hành động bạo lực tiếp tục xảy ra một cách bừa bãi và, không ngừng tăng thêm hiện tượng thương tâm của các vụ bắt cóc, thường là các em gái, để bán đi. Đây là chuyện mua bán kinh tởm, không được phép tiếp diễn! Đây là tội ác cần phải triệt tận gốc, bởi nó đánh vào tất cả chúng ta, từ các gia đình riêng cho đến toàn thể cộng đồng quốc tế (Diễn văn với các Tân đại sứ mới được ủy nhiệm tới Tòa Thánh, 12 tháng 12 năm 2013)

Tôi cũng lo lắng cho nhiều xung đột dân sự đang diễn ra ở nhiều vùng châu Phi, đầu tiên là Libya, bị tàn phá bởi cuộc nội chiến nồi da xáo thịt đa gây đau khổ không kể xiết cho người dân nước này, kèm theo những tác động nghiêm trọng đến sự cân bằng vốn dễ rạn vỡ trong vùng. Tôi nghĩ về tình trạng thương tâm ở Cộng hòa Trung Phi, nơi thật đáng buồn khi phải nói rằng, thiện chí nỗ lực tìm cách xây dựng một tương lai hòa bình, an toàn và thịnh vượng, đã bị những lợi ích đảng phái ích kỷ chặn lại. Những mối nguy này triệt tiêu hi vọng của người dân vốn đã chịu quá nhiều đau khổ và giờ đây đang mong mỏi được xây dựng tương lai trong tự do. Tôi bận tâm đến tình trạng của Nam Sudan, và một vài vùng khác ở Sudan, Sừng Châu Phi, và Cộng hòa Dân chủ Congo, nơi con số thương vong dân thường đang tăng cao và hàng ngàn người, cả nhiều phụ nữ và trẻ em, đang bị buộc phải chạy trốn và phải chịu những hoàn cảnh đau khổ cùng cực. Tôi hi vọng có được một ủy ban chung đại diện cho các chính phủ riêng và cộng đồng quốc tế để chấm dứt mọi dạng chiến tranh, thù hận và bạo lực, đồng thời theo đuổi hòa bình và bảo vệ cho phẩm giá siêu việt của con người.

Chúng ta không thể bỏ qua việc chiến tranh có can dự vào một tội ác kinh tởm khác, tội hiếp dâm. Đây là xâm phạm nghiêm trọng nhất đối với phẩm giá người phụ nữ, những người không chỉ bị xâm hại thân thể mà còn bị gây hại tinh thần, tạo nên một vết thương thật khó để xóa đi và ảnh hưởng đến cả xã hội. Thật đáng buồn, khi ngoài những nơi xảy ra chiến tranh, vẫn có rất nhiều phụ nữ ngày nay đang phải chịu đựng nạn bạo lực.

Mọi xung đột và chiến tranh là hiện thân cho nền văn hóa vứt đi, bởi mạng sống con người bị những người có quyền chủ tâm chà đạp. Nhưng nền văn hóa đó cũng được thúc đẩy bởi những dạng loại trừ tinh vi và quỷ quyệt hơn nữa. Tôi nghĩ trước hết đến cách chúng ta đối xử với người bệnh, họ bị gạt sang một bên và bị loại ra ngoài rìa như những người phong hủi trong Tin mừng. Trong số những người phong hủi ngày nay, chúng ta có thể kể đến các nạn nhân của nạn dịch mới và khủng khiếp, Ebola, đặc biệt ở Liberia, Sierrra Leone, và Guinea, đã cướp đi hơn 60 ngàn sinh mạng. Hôm nay, tôi muốn công khai vinh danh và cảm ơn những nhân viên y tế, cùng với những nam nữ tu sỹ và các tình nguyện viên, đã dùng mọi cách có thể để chăm lo cho người bệnh, gia đình của họ và đặc biệt là các trẻ mất cha mẹ. Tôi cũng một lần nữa thỉnh cầu toàn thể cộng đồng quốc tế hãy cung cấp hỗ trợ nhân đạo thích đáng cho các bệnh nhân và có những nỗ lực cụ thể để chiến đấu với dịch bệnh này.

Cùng với những sinh mạng bị vứt đi do bởi chiến tranh và bệnh tật, còn có vô số dân tị nạn và người bị mất quê hương. Một lần nữa, chúng ta có thể cảm được thực tế qua suy tư về thời thơ ấu của Chúa Giêsu, vốn soi rọi vào một dạng khác của nền văn hóa vứt đi đang gây hại cho các quan hệ và gây đổ vỡ xã hội. Thật vậy, bởi sự tàn ác của Hêrôđê, mà Thánh gia đã buộc phải chạy trốn đến Ai Cập, và chỉ có thể về lại quê nhà vài năm sau (Mt 2, 13-15) Một hệ quả của các cuộc xung đột có thể thấy trong làn sóng hàng ngàn người đang phải tháo chạy khỏi quê hương mình. Nhiều khi họ phải rời đi, không phải để tìm kiếm một tương lai tốt đẹp hơn, nhưng chỉ là một tương lai, bởi nếu ở lại quê hương đồng nghĩa với cái chết chắc chắn. Biết bao người đã mất mạng trên đường tháo chạy thảm khốc này, làm mồi cho những kẻ cướp tham lam và vô lương tâm. Tôi đã nói đến vấn đề này trong chuyến viếng thăm Nghị viện châu Âu, nhấn mạnh rằng, ‘chúng ta không thể để cho Địa Trung hải thành một nấm mồ tập thể’ (Diễn văn với Nghị viện châu Âu,Strasbourg, 25 tháng 11, 2014) Rồi còn có một sự thật đáng báo động là nhiều di dân, đặc biệt ở châu Mỹ, là những trẻ em không có người giám hộ, tất cả các em đều dễ gặp nạn hơn, và cần được chăm sóc, chú tâm và bảo vệ hơn nữa.

Thường khi không có giấy tờ mà đến một nơi mình không nói được tiếng ở đó, các di dân sẽ thấy mình thật khó để được người ta đón nhận và tìm được một công việc. Ngoài những bất trắc trên đường tị nạn, họ còn phải đối mặt với thảm kịch bị loại trừ. Chúng ta cần phải thay đổi thái độ, đi từ sự lãnh đạm và sợ hãi, đến việc đón nhận người khác một cách thật tâm. Đây tất nhiên là lời kêu gọi cần ‘ban hành pháp chế thỏa đáng để bảo vệ quyền của … các công dân và bảo đảm đón nhận các dân tị nạn.’ Tôi cảm ơn tất cả những người, bằng mọi giá kể cả mạng sống mình, đang làm việc để giúp đỡ những người tị nạn và di dân, và tôi thúc giục các chính phủ và tổ chức quốc tế hãy dùng mọi nỗ lực để giải quyết những vấn đề nhân đạo nghiêm trọng này, và giúp đỡ các quốc gia quê nhà của các di dân bằng những hình thức viện trợ có thể thúc đẩy phát triển xã hội và chính trị đồng thời chấm dứt các xung đột trong nước, vốn là nguyên nhân chính của hiện tượng này. ‘Chúng ta cần hành động chống lại các nguyên nhân chứ không chỉ các hệ quả.’ Điều này cũng sẽ cho phép các di dân, đến một thời điểm nào đó, trở về và góp phần phát triển quê hương mình.

Cùng với các di dân, những người mất quê hương và tị nạn, có có nhiều người ‘lưu đày giấu kín’ (Kinh Truyền tin 29 tháng 12, 2013) trong nhà và trong gia đình chúng ta. Tôi đặc biệt nghĩ đến những người già, người khuyết tật và thanh niên. Người già phải đối mặt với việc bị loại trừ bởi họ bị xem là ‘sự hiện diện gánh nặng,’ còn thanh niên bị vứt đi bởi họ bị khước từ các viễn cảnh cụ thể về công ăn việc làm nhằm xây dựng tương lai. Thật vậy, không có sự nghèo đói nào tồi tệ hơn việc bị lấy đi công việc và phẩm giá làm việc (Diễn văn với các tham dự viên của Hội nghị Thế giới về các Phong trào Chung, 28 tháng 10, 2014) hay biến công việc thành một dạng nô lệ hóa. Đây là những gì tôi đã tìm cách nhấn mạnh trong buổi gặp mới đây với các phong trào chung đang làm việc để tìm các giải pháp thích đáng cho một số vấn đề thời nay, bao gồm thảm họa thất nghiệp gia tăng trong giới trẻ, lao động bất hợp pháp, và tình trạng bi đát của rất nhiều công nhân, đặc biệt là trẻ em, những người bị bóc lột vì thói tham lam của ông chủ. Tất cả những điều này đi ngược lại phẩm giá con người, và là kết quả của một tâm thức chăm chăm vào tiền bạc, lợi ích, và lợi nhuận kinh tế, đến mức độ gây hại cho người đồng loại của mình.

Rồi còn, gia đình cũng thường bị vứt đi, do bởi sự lan tràn của chủ nghĩa cá nhân và nền văn hóa quy ngã vốn chia lìa các mối dây giữa con người với nhau đồng thời dẫn đến sự sụt giảm trầm trọng tỷ suất sinh, cũng như các pháp chế thiên về các kiểu sống chung khác hơn là nâng đỡ thỏa đáng đối với gia đình vì lợi ích của toàn xã hội.

Trong số những nguyên do của các hiện thực này là một kiểu toàn cầu hóa vốn san bằng mọi khác biệt và thậm chí còn thải loại các nền văn hóa, cắt bỏ các yếu tố vốn định hình đặc tính từng dân tộc và tạo nên một di sản thiết yếu cho sự phát triển xã hội vững mạnh. Trong một thế giới cào bằng vô danh, thật dễ để hiểu được những khó khăn và nản lòng trong nhiều người đã thực sự mất đi ý thức mình đang sống. Tình trạng bi đát này bị trầm trọng hơn nữa bởi cuộc khủng hoảng kinh tế đang diễn ra, vốn thổi bùng chủ nghĩa bi quan và xung khắc xã hội. Tôi đã có thể thấy được tác động của nó ở Roma này và nhiều nơi khác ở Ý, nơi tôi gặp nhiều người đang rơi vào những hoàn cảnh chật vật.

Vậy nên, gởi đến nước Ý thân yêu, tôi hi vọng rằng trong bầu khí xã hội, chính trị và kinh tế bất ổn hiện thời, người dân Ý sẽ không có ý muốn lãnh đạm hay chia rẽ, nhưng sẽ tái khám phá những giá trị của lòng bận tâm chung và tình đoàn kết vốn là căn bản của nền văn hóa và đời sống dân sự, và cũng là căn cứ để vững tin trong lúc này và tương lai, đặc biệt là với lớp người trẻ.

Nói về người trẻ, tôi muốn nhắc đến chuyến công du Hàn Quốc hồi tháng 8 vừa qua, nơi tôi đã gặp hàng ngàn người trẻ quy tụ trong Ngày Giới trẻ Á châu lần thứ sáu. Ở đó tôi đã nói về nhu cầu cần phải trân quý tuổi trẻ của chúng ta, ‘tìm cách truyền lại di sản của quá khứ và áp dụng vào những thách thức hiện tại’ (Hội kiến với các giới chức, 14 tháng 8, 2014) Điều này đòi hỏi chúng ta phải suy tư về ‘cách làm sao để truyền tải cho tốt những giá trị của chúng ta cho thế hệ tiếp theo và suy tư xem chúng ta chuẩn bị trao lại cho các con em một thế giới và xã hội như thế nào.’

Đêm nay, tôi sẽ được vui mừng cất cánh một lần nữa đến châu Á, để thăm Sri Lanka và Phi Luật Tân, thể hiện sự chú tâm và bận tâm mục vụ của tôi với người dân ở châu lục rộng lớn này. Với người dân và các chính phủ, tôi muốn một lần nữa nói lên ước mong của Tòa Thánh là góp phần phục vụ lợi ích chung, sự hòa hợp và hòa thuận trong xã hội. Cách riêng, tôi hi vọng nối lại đối thoại liên Triều, hai quốc gia chị em chung tiếng nói.

Thưa các quý ngài, các quý ông quý bà.

Trong thời điểm đầu năm mới này, chúng ta không muốn viễn tượng của chúng ta bị đè nặng bởi bi quan, hay những khiếm khuyết và thiếu sót của hiện tại. Chúng ta cũng muốn tạ ơn Chúa vì những ơn sủng và phúc lành Ngài đã ban cho chúng ta, vì những dịp đối thoại và gặp gỡ mà Ngài đã cho chúng ta, và vì những hoa trái hòa bình ngài đã cho chúng ta được nếm hưởng.

Tôi cảm nghiệm được một dấu chỉ hùng hồn rằng nền văn hóa gặp gỡ là chuyện khả dĩ, nhân chuyến công du Albania, một quốc gia đầy những người trẻ hi vọng cho tương lai. Bất chấp những sự kiện đau thương trong lịch sử cách đây không lâu, quốc gia này vẫn đậm nét ‘chung sống và cộng tác hòa bình giữa những người khác tôn giáo’ (Diễn văn với các giới chức ở Tirana, 21 tháng 9, 2014), trong một bầu khí tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau giữa người Công giáo, Chính thống, và Hồi giáo. Đây là một dấu chỉ quan trọng cho thấy đức tin thành tâm vào Thiên Chúa khiến cho người ta mở ra với tha nhân, thúc đẩy đối thoại và làm việc vì sự thiện, còn bạo lực luôn là kết quả của việc bóp méo tôn giáo, dùng tôn giáo làm cái cớ cho các mưu đồ hệ tư tưởng mà mục đích duy nhất chỉ là áp đặt quyền lực trên người khác. Tương tự như thế, trong chuyến công du Thổ Nhĩ Kỳ mới đây, một cầu nối lịch sử giữa Đông và Tây, tôi có thể thấy được hoa trái của đối thoại liên tôn và đại kết, cũng như những nỗ lực hỗ trợ cho dân tị nạn từ các nước Trung Đông. Tôi cũng thấy được tinh thần cởi mở này ở Jordan, điểm dừng chân đầu tiên trong chuyến hành hương Thánh địa, và trong các chứng tá ở Li Băng, nơi tôi cầu nguyện mong cho họ thắng được các vấn đề chính trị hiện thời.

Một ví dụ nữa trong lòng tôi về cách đối thoại có thể xây cầu nối là từ quyết định mới đây của Hoa Kỳ và Cuba, quyết định nối lại đàm phán vốn đã cắt đứt từ hơn nửa thế kỷ, và khởi xướng việc nối lại bang giao vì lợi ích của công dân hai nước. Tôi cũng nghĩ về người dân của Burkina Faso, những người đã được thấy một thời kỳ thay đổi quan trọng về chính trị và hiến pháp, với hi vọng rằng một tinh thần cộng tác mới sẽ góp phần phát triển một xã hội thân ái và công bằng hơn. Tôi cũng hài lòng nhắc đến hiêp ước ký hồi tháng 3 năm ngoái, chấm dứt nhiều năm căng thẳng ở Phi Luật Tân. Tôi mong muốn khuyến khích các nỗ lực bảo đảm hòa bình ổn định ở Colombia, cũng như những khởi xướng vãn hồi hòa hợp chính trị và xã hội ở Venezuela. Và tôi cũng bày tỏ hi vọng rằng sẽ sớm có một thỏa ước giữa Iran và nhóm 5+1 về việc sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình, và tôi cũng cảm kích các nỗ lực đã có cho việc này. Tôi hài lòng về ý định đóng cửa nhà tù Guantanamo của Hoa Kỳ, đồng thời ghi nhận thiện ý rộng lượng của một số quốc gia nhận trách nhiệm quản thúc đối với các nghi phạm này. Cuối cùng, tôi muốn bày tỏ lòng cảm kích và khuyến khích với những quốc gia đã tích cực thăng tiến sự phát triển của nhân loại, sự ổn định chính trị và sự chung sống văn minh giữa các công dân.

Thưa các quý ngài, các quý ông quý bà.

Ngày 06 tháng 8 năm 1945, nhân loại đã chứng kiến một trong những thảm kịch khủng khiếp nhất trong lịch sử. Lần đầu tiên, một cách mới chưa từng có, thế giới chứng kiến trọn vẹn tiềm năng hủy hoại của con người. Từ đống tro tàn thảm kịch vô cùng của Thế chiến II, các quốc gia đã nảy sinh một ý chí đối thoại và gặp gỡ mới, truyền cảm hứng thành lập Liên hiệp quốc mà chúng ta sẽ mừng lễ kỷ niệm 70 năm trong năm nay.  Trong chuyến viếng thăm tổng hành dinh Liên hiệp quốc cách đây 50 năm, giáo hoàng Phaolô VI đã lưu ý rằng, ‘máu của hàng triệu người, vô số đau khổ không được nghe đến, những cuộc thảm sát vô nghĩa và đống đổ nát khủng khiếp đã chuẩn y sự hợp nhất của các bạn trong một lời thề sẽ thay đổi tương lai thế giới: không bao giờ chiến tranh nữa, không bao giờ chiến tranh nữa! Chính hòa bình, hòa bình phải hướng dẫn vận mệnh của các quốc gia toàn nhân loại’ (Diễn văn với Liên hiệp quốc, 04 tháng 10, 1965)

Đây cũng là lời cầu nguyện đầy hi vọng của tôi cho năm mới này, mong muốn được thấy sự tiếp diễn của hai tiến trình quan trọng: soạn thảo Nghị trình Phát triển hậu 2015, với việc đưa vào các Mục tiêu Phát triển Bền vững, và việc phác thảo một Thỏa ước Biến đổi Khí hậu. Điều kiện giả định bắt buộc cho tất cả những điều này là hòa bình, vốn không chỉ là chấm dứt chiến tranh, nhưng phải là hoa trái của sự hoán cải tâm hồn.

Với những cảm nghĩ này, một lần nữa tôi gởi đến các bạn, gia đình và dân tộc các bạn, những lời nguyện chúc tốt lành mong cho năm mới 2015 này sẽ là một năm đầy hi vọng và hòa bình.

Bài mới nhất