Home Blog Page 376

Đức Bênêđictô XVI: “Ngài luôn chiến đấu cho đức tin của những người đơn sơ”

Đức Bênêđictô XVI: “Ngài luôn chiến đấu cho đức tin của những người đơn sơ”

lanuovabq.it, Nico Spuntoni, 2023-01-05

Giáo dân về Quảng trường Thánh Phêrô để dự tang lễ của Đức Bênêđictô

Phỏng vấn hồng y Thụy Sĩ Kurt Koch, chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về Hiệp nhất kitô hữu.

Phong thánh Đức Bênêđictô XVI ngay lập tức? “Giáo hoàng sẽ quyết định, tôi nghĩ Đức Bênêđictô XVI sẽ là tiến sĩ Giáo hội với huấn quyền của ngài. Ngài luôn đấu tranh cho đức tin của những người đơn sơ. Tính trung tâm của câu hỏi về Chúa và học thuyết kitô học là hai điểm mạnh trong thần học của ngài”.

Một cuộc phỏng vấn với hồng y Koch, người mà bằng mọi giá Đức Ratzinger muốn hồng y về Vatican làm việc với ngài và sau đó hồng y đã trở thành một trong những cộng tác viên tin cậy nhất của ngài: “Tôi nói với ngài tôi không muốn rời giáo phận của tôi. Ngài trả lời: ‘Tôi hiểu anh, nhưng xin anh về’”.

Khi Trung tâm Schülerkreis mới ra đời, gồm các nhà thần học tuy không học với giáo sư Joseph Ratzinger, nhưng đã tự nghiên cứu sâu tác phẩm của ngài, Đức Bênêđictô XVI muốn hồng y Kurt Koch làm cố vấn. Hồng y được Đức Bênêđictô XVI cho là người đáng tin cậy nhất để có thể giải thích đúng đắn về Công đồng Vatican II và về cải cách phụng vụ. Là chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về Hiệp nhất kitô hữu chắc chắn ngài là một trong những thành viên của Hồng y đoàn thân cận nhất với Đức Ratzinger. Hồng y trả lời phỏng vấn báo La Bussola tại văn phòng của ngài ở Via della Conciliazione để nói về hình ảnh người thầy của mình.

Trọng kính hồng y, xin cha cho biết một kỷ niệm cá nhân với Đức Bênêđictô XVI.

Hồng y Kurk Koch: Tôi biết ngài qua sách vở. Trên thực tế, khi bắt đầu học, tôi đã đọc tất cả sách của giáo sư Joseph Ratzinger, đặc biệt quyển Nhập môn Kitô giáo. Sau đó, khi làm giám mục giáo phận Bâle, tôi có liên hệ với ngài khi ngài làm bộ trưởng bộ Tín Lý. Năm 2010, khi là giáo hoàng, ngài gọi tôi về Rôma làm việc. Và cuộc gặp gỡ này rất thú vị với tôi. Xin cha cho chúng tôi biết chuyện này. Ngài mong muốn có tôi ở Giáo triều. Tôi trả lời sau mười lăm năm làm giám mục, thật không dễ để rời giáo phận. Câu trả lời của ngài: “Đúng, tôi hiểu cha, nhưng mười lăm năm là đủ. Tôi xin cha về đây.”

Ngài có giải thích lý do vì sao ngài muốn cha làm chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về Hiệp nhất Kitô hữu không?

Có. Ngài nói với tôi, sau nhiệm kỳ của hồng y Walter Kasper, ngài muốn có một giám mục biết các cộng đồng giáo hội được sinh ra từ cuộc Cải cách không những chỉ qua sách vở mà còn qua kinh nghiệm cá nhân. Lý do này cho tôi hiểu, phong trào đại kết rất gần với trái tim ngài. Với tư cách là Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng, tôi cộng tác chặt chẽ với ngài và mỗi buổi gặp đều rất dễ chịu vì ngài rất quan tâm đến sự tiến bộ của phong trào đại kết. Sau đó, khi ngài là giáo hoàng danh dự, tôi đã có niềm vui được gặp ngài nhiều lần và đó luôn là một điều quý giá với tôi.

Ngài có tiếp tục quan tâm đến việc thúc đẩy sự hiệp nhất kitô hữu sau khi ngài từ nhiệm không?

Chúng tôi chủ yếu nói về công việc của các nhóm sinh viên, vì ngài muốn tôi là người cố vấn. Nhưng rõ ràng ngài rất quan tâm đến phần còn lại và câu hỏi của ngài là: “Mối quan hệ với Constantinople như thế nào? Mọi thứ với Matxcova ra sao? Mọi thứ với các Giáo hội Luther như thế nào?” Có, ngài luôn quan tâm.

Trong một bài cha viết nhân dịp sinh nhật thứ 90 của Đức Bênêđictô XVI, cha nhấn mạnh đến ngày sinh của ngài, một ngày thứ bảy Tuần Thánh và bây giờ ngài qua đời trong Tuần bát nhật Giáng sinh. Nhìn sự trùng hợp này như thế nào?

Đúng, thời điểm chính xác xảy ra trong mùa Giáng sinh, một mùa rất gần trái tim của ngài. Nhưng tôi nghĩ có một sự thật khác cần làm nổi bật: ngày bầu chọn ngài diễn ra cùng ngày với ngày bầu chọn giáo hoàng Lêô IX, và ngày ngài qua đời cùng ngày với giáo hoàng Silvestre. Thứ bảy Tuần Thánh rất quan trọng với ngài vì ngày này nói lên bối cảnh của mọi tín hữu: “Chúng ta đang trên đường đến Phục Sinh nhưng chúng ta chưa có kinh nghiệm về Phục Sinh. Và hôm nay, Đức Bênêđictô XVI có thể cử hành Phục Sinh, Phục Sinh và cuộc gặp gỡ với Thầy của mình.

Chúng ta tìm thấy gì trong tư tưởng và huấn quyền của Đức Joseph Ratzinger-Bênêđictô XVI về sự sống đời đời?

Mục tiêu của đời sống của người tín hữu kitô là sự sống đời đời. Giáo sư Joseph Ratzinger cho biết quyển sách được nghiên cứu nhiều nhất của ngài là quyển “Cánh chung học”. Cái chết và sự sống vĩnh cửu. Thông điệp thứ hai của ngài nói về hy vọng đã được ngài viết khi ngài là giáo hoàng. Niềm hy vọng kitô giáo là niềm hy vọng của phục sinh. Đây là mục tiêu của mọi kitô hữu: hoán cải cuộc sống trần thế để đạt tới sự sống vĩnh cửu.

Có những người xin phong thánh cho ngài ngay lập tức. Đức Bênêđictô XVI đã nhìn các thánh như thế nào và ngài đã đặt các thánh ở vị trí nào trong đời sống Giáo hội?

Ngài tin chắc các nhà cải cách thực sự của Giáo hội luôn là các thánh, vì sự thánh thiện là mục tiêu của đời sống người tín hữu kitô. Có một bài giảng rất hay, trong đó Đức Bênêđictô XVI nói thánh thiện không phải là tài sản riêng của một số ít nhưng là ơn gọi cho tất cả mọi người vì có rất nhiều hoa trong vườn của Chúa. Ngài so sánh sự kinh ngạc do thị kiến về một khu vườn với nhiều loại hoa khác nhau với sự kinh ngạc bao trùm chúng ta trước sự thông công của các thánh với nhiều hình thức thánh thiện. Các thánh thông công là chủ đề quan trọng với ngài nên ngài đã đề cập đến trong bài giảng thánh lễ khi bắt đầu sứ vụ Thánh Phêrô của ngài. Nhưng hiệp thông của con người cũng quan trọng không kém: trên thực tế, ưu tiên của ngài là suy tư về đức tin của cộng đồng giáo hội, chứ không phải về thần học.

Về phương diện này, vì sao ngày nay chúng ta vẫn còn nghe trong các bình luận về ngài, cho ngài là mục tử không có khả năng nói chuyện với các tín hữu đơn sơ, trong khi ngài luôn xem ngài và vai trò của giám mục như người bảo vệ đức tin của dân Chúa?

Ngài luôn chiến đấu cho đức tin của những người đơn sơ. Thần học là thứ yếu, đức tin là trên hết. Ngài lập luận, thần học được định hướng nhờ đức tin chứ không phải đức tin được định hướng nhờ thần học. Không thể nói ngài xa cách mọi người. Ngài không thiên về quan hệ với quần chúng mà thiên về quan hệ với cá nhân. Trên thực tế, ngài luôn chú ý đến những người đối thoại với ngài.

Có đúng không khi nói giáo hội học của Ratzinger dạy chúng ta Giáo hội không chỉ là một tổ chức xã hội?

Đúng. Đã có một định nghĩa rất hay về Giáo hội trong luận án tiến sĩ của ngài về Thánh Augutinô. Trong luận án này, ngài nói Giáo hội là dân Chúa sống trong nhiệm thể Chúa Kitô. Đó là một giáo hội học Thánh Thể: Giáo Hội là nơi các tín hữu cử hành Thánh Thể, dưới sự chủ sự của linh mục.

Những lời cuối cùng của ngài “Lạy Chúa Giêsu, con yêu Chúa” có đại diện cho trọng tâm linh đạo thần học của ngài không?

Trọng tâm thần học của ngài là câu hỏi về Thiên Chúa, nhưng không phải bất kỳ Thiên Chúa nào, nhưng một Thiên Chúa muốn tiếp xúc với thế giới, muốn có quan hệ với con người, yêu thương con người và tỏ mình ra trong sự cứu rỗi trước hết là ở Israel và nhất là nơi Chúa Giêsu Kitô. Trong Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã hiện ra khuôn mặt của Ngài. Tôi tin chắc khi Đức Bênêđictô XVI viết quyển sách về Chúa Giêsu thành Nadarét, ngài dành thời gian và sức lực trong triều giáo hoàng của ngài để biến nó thành di sản của ngài. Tính trung tâm của câu hỏi về Thiên Chúa và thuyết kitô học là hai điểm mạnh trong thần học của ngài. Và những lời cuối cùng, “Chúa Giêsu, con yêu Chúa,” là câu kết hoàn hảo cho toàn bộ cuộc đời và thần học của Đức Bênêđictô XVI.

Có chính đáng khi chúng ta mong chờ ngài được “phong thánh ngay lập tức” không?

Trước hết, chính Chúa là Đấng phán xét ai là người thánh thiện, vì thế chúng ta để Ngài phán xét. Thứ hai, giáo hoàng quyết định. Tôi nghĩ Đức Bênêđictô XVI là người thầy vĩ đại, là tiến sĩ của Giáo hội với thần học và huấn quyền của ngài, và với tôi, đó là điều quan trọng nhất. Nhưng tất cả chúng ta đều được gọi để nên thánh.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Ratzinger đích thực

Đức Bênêđictô XVI: một tang lễ thanh đạm và đầy xúc động

Bà Romilda Ferraauto: “Đức Bênêđictô XVI là người hiện đại”

Bà Romilda Ferraauto: “Đức Bênêđictô XVI là người hiện đại”

cath.ch, I.Media, 2023-01-04

Bà Romilda Ferraauto, khi đó là tổng biên tập ban tiếng Pháp của Đài phát thanh Vatican.

Tổng biên tập ban tiếng Pháp của Đài phát thanh Vatican từ năm 1991 đến năm 2016, bà Romilda Ferraauto làm việc suốt triều giáo hoàng Đức Bênêđictô XVI đưa tin tức đến cho hàng triệu thính giả nói tiếng Pháp. Theo bà, Đức Joseph Ratzinger là người hiện đại.

Hiện bà là phụ tá cho giám đốc Văn phòng Báo chí Tòa thánh ban nói tiếng Pháp, bà trả lời phỏng vấn trang I.MEDIA để nhắc lại kỷ niệm cá nhân của bà với Đức Joseph Ratzinger, người mà bà đã gặp nhiều lần khi ngài còn là bộ trưởng bộ Tín Lý.

Hồng y Ratzinger có quan hệ gì với giới truyền thông, đặc biệt là với Đài phát thanh Vatican?

Bà Romilda Ferraauto: Hồng y Ratzinger là người không gặp khó khăn khi nói trước truyền thông và nhận trả lời phỏng vấn dù giới truyền thông không nương tay với ngài. Ngài có mối quan hệ khá yên lặng với Đài phát thanh Vatican, nhất là trong quan hệ của ngài với ban biên tập tiếng Đức. Ngài đã đến nhiều lần đến Đài nói chuyện để giải thích một số văn bản mà bộ Tín Lý đã tạo lo ngại.

Mối quan hệ tốt đẹp này tiếp tục trong triều giáo hoàng của ngài, đến mức linh mục Dòng Tên Lombardi, lúc đó là giám đốc Đài phát thanh Vatican, đã trở thành “phát ngôn viên” của ngài dù linh mục không có chức danh chính thức. Linh mục có mối quan hệ rất tốt đẹp với ngài.

“Đức Bênêđictô XVI xuất hiện. Đối với tôi, ngài tỏa ra một loại ánh sáng, ngài để lại cho tôi một kỷ niệm tươi sáng.”

Ngài đến đài chúng tôi năm 2006 nhân dịp kỷ niệm 75 năm Đài phát thanh Vatican. Tôi có những kỷ niệm cá nhân rất vui vẻ với ngài. Chúng tôi chia nhóm theo ngôn ngữ. Với hơn mười người trong ban biên tập tiếng Pháp, chúng tôi có một văn phòng nhỏ có cửa đóng. Chúng tôi chờ ngài nhưng có một nghi thức chính xác: ngài phải đến gặp chúng tôi và nói chuyện, chứ không ngược lại.

Chúng tôi thấy cửa mở và ngài xuất hiện. Với tôi, ngài tỏa ra một loại ánh sáng, ngài để lại cho tôi một kỷ niệm tươi sáng. Nhưng chúng tôi như bị tê liệt: ngài nhìn chúng tôi, chúng tôi nhìn ngài, và không có gì xảy ra! Rồi sau đó, tôi cảm thấy có một bàn tay đẩy tôi về phía ngài, và thế là tôi ra đón ngài, tôi không định trước. Tôi nói với ngài: “Con rất vui nhưng cũng rất cảm động”. Và ngài đã trả lời “cha cũng vậy!”.

Từ lúc đó, một nhiệt tình bùng ra, mọi người tự nhiên vây quanh ngài, và ngài trả lời chúng tôi bằng tiếng Pháp rất xuất sắc. Sau đó chúng tôi bị trách nặng nề vì không giữ nghi thức phù hợp, nhưng tôi chắc chắn ngài rất vui khi ở bên cạnh chúng tôi.

Đài phát thanh Vatican đã và vẫn là một trong những tổ chức có nhiều phụ nữ làm việc nhất ở Vatican. Hồng y Ratzinger có thái độ khác với các vị giám chức khác với phụ nữ không?

Hoàn toàn khác! Ngược với hình ảnh chúng ta thường gán cho ngài, ngài là người hiện đại. Tôi hiểu tôi muốn nói gì, vì khi tôi bắt đầu làm việc ở Đài phát thanh Vatican, tôi là phụ nữ trẻ và việc xuất hiện trong “Sacri Palazzi” (Dinh Thánh) thì không hề dễ cho phụ nữ, khi tại đây sự có mặt của phụ nữ còn rất hiếm và bị lu mờ. Trưởng ban của tôi, một linh mục Dòng Tên người Pháp thường gởi tôi đi phỏng vấn khi có các cuộc họp hoặc hội nghị.

Đó là cơ hội để gặp những người đứng đầu Giáo triều Rôma, các khách mời, kể cả các nhân vật tên tuổi lớn trong giờ giải lao. Nhưng với tôi, đó là cả một cực hình. Khi còn trẻ, tôi vô hình. Mọi người coi thường tôi, họ hỏi tôi “cô là thư ký của ai?”. Và cuối cùng, khi họ biết tôi là nhà báo, phản ứng tử tế nhất của họ là nói “không, cảm ơn, tôi không quan tâm”… rồi tôi thấy chính những người này trả lời phỏng vấn các nam ký giả.

“Đó là cái nhìn của Ratzinger, cái nhìn rất dịu dàng nhưng cũng rất kiên quyết, ngài không phải chỉ “tử tế”.

Và tôi nhớ một ngày nọ khi tôi tuyệt vọng nghĩ mình sẽ không phỏng vấn được ai, tôi nghĩ tôi sẽ ra về tay không… Đột nhiên, tôi thấy Ratzinger ngồi một mình, ngài đang uống gì đó, và tôi đi tới, tôi nhất định phải có một phỏng vấn. Nhưng tôi quá rụt rè, đó là giáo sư vĩ đại người Đức vừa mới đứng đầu bộ Tín Lý, chúng tôi chưa biết rõ ngài.

Và tôi nói với ngài, tôi là nhà báo và tôi muốn phỏng vấn ngài. Ngài chỉ đơn giản nói “được, cha đồng ý, con cứ đặt câu hỏi”. Tôi hoảng vía vì tôi không đủ tầm cao với tình huống, tôi còn trẻ lại phải đối diện với một thần học gia vĩ đại. Nhưng tôi sẽ không bao giờ quên nụ cười và ánh mắt của ngài: một nụ cười rụt rè nhưng rất thẳng thắn, và một cái nhìn sâu sắc, vượt ra vẻ bề ngoài. Đó là cái nhìn của Ratzinger, rất dịu dàng nhưng cũng rất cương nghị, ngài không chỉ “tử tế”.

Tôi không biết làm cách nào nhưng tôi cũng có được một cuộc phỏng vấn tốt. Tôi không chuẩn bị tốt, nhưng từ câu trả lời của ngài, tôi đặt ra được những câu hỏi liên quan. Vì thế tôi lấy được uy tín có được cuộc phỏng vấn đầu tiên “tốt” của một nhà báo mới vào nghề. Rồi sau đó, tôi luôn cảm thấy ngài nhìn mọi người như những con người, bất kể đàn bà hay đàn ông, ngài luôn đối xử tử tế với họ, quan tâm đến họ.

“Đức Bênêđictô XVI đã phát triển một tư tưởng hợp lý đến nỗi các bài của ngài rất khó cắt bỏ: mỗi từ đều cần thiết, ở đúng vị trí của nó.”

Đức Bênêđictô XVI nổi tiếng với những suy nghĩ rất sắc thái, rất hàn lâm và rõ ràng, khác xa với những rút gọn của các phương tiện truyền thông đại chúng. Có khó để chuyển lời nói của ngài đến với công chúng không?

Là nhà báo làm việc với các văn bản của các giáo hoàng như Đức Gioan-Phaolô II và Đức Bênêđictô XVI, tôi đã nhiều khó khăn. Nhưng đó không phải do sự phức tạp của các bài viết: ngược lại, chúng rất rõ ràng. Nhưng chúng rất khó cắt. Với Đức Gioan-Phaolô II, tôi có thể tóm tắt dễ dàng hơn dù bài diễn văn của ngài trôi chảy, với một tư tưởng “xoay vòng” và ít cấu trúc hơn. Còn “Đức Bênêđictô XVI phát triển một tư tưởng hợp lý đến nỗi các bài của ngài rất khó cắt bỏ: mỗi từ đều cần thiết, ở đúng vị trí của nó.

Ngài nói rõ ràng, đầy đủ và trong sáng. Nhưng thật khó tóm tắt cho một nhà báo khi chỗ đăng hạn chế. Thật khó để tóm lại suy nghĩ của ngài.

Triều giáo hoàng của ngài được đánh dấu qua một số cuộc khủng hoảng, nhất là sau bài diễn văn ở Regensburg (2006), khi những bình luận của ngài về bạo lực trong hồi giáo đã gây tranh cãi trên toàn thế giới, và sau những chỉ trích của ngài về việc dùng bao cao su (2009). Vai trò của các phương tiện truyền thông Vatican trong việc làm giảm bớt những tranh cãi và giải thích ý nghĩa của những nhận xét của ngài là gì?

Trong trường hợp của Regensburg, mối quan tâm chính của chúng tôi là cho những người phẫn nộ, những người bị tai tiếng có tiếng nói, nhưng kèm với những cuộc phỏng vấn, những gặp gỡ này là lời giải thích mà ngài muốn đưa ra. Tất nhiên vai trò của chúng tôi là bảo vệ đường lối, tư tưởng của ngài trong một đối thoại với những người chưa hiểu hoặc không đồng ý.

Như thế có những trao đổi được tái tạo, cho chúng tôi có dịp có những tiếp xúc rất hữu ích với các nhà lãnh đạo hồi giáo, những người mà tôi sẽ không thể liên lạc nếu không có cuộc khủng hoảng này, đó là những người chúng tôi cố gắng hòa hợp, những người mà tôi có thể hỏi sau đó về những chủ đề khác.

Chúng tôi đã phải vượt lên khủng hoảng, đó là thực tế, và vượt qua nó, duy trì tinh thần đối thoại. Mọi việc diễn ra rất tốt đẹp, với những người đối thoại rất tốt, những người bày tỏ sự bất đồng với chúng tôi nhưng họ chấp nhận trao đổi. Trong thế giới nói tiếng Pháp, các hồng y Poupard và Tauran là những người của trạng huống, các ngài biết cách đối thoại.

Ba năm sau, trong vụ bao cao su, Đức Bênêđictô XVI giao cho linh mục Lombardi nhiệm vụ giải thích những lời của giáo hoàng nói trên máy bay khi đến châu Phi đã bị hiểu sai. Linh mục đã đóng một vai trò rất trực tiếp và minh bạch trong tư cách là phát ngôn viên của giáo hoàng trên đài phát thanh.

“Tôi nghe một tiếng hét ở hành lang, một tiếng hét thực sự: một nữ nhà báo Ý đã hét lên trong hành lang, giáo hoàng đã từ nhiệm.”

Đài phát thanh Vatican đã sống như thế nào khi nghe tin ngài từ nhiệm?

Đó là một ngạc nhiên hoàn toàn. Các người có trách nhiệm chính đã được báo trước đó vài giờ, nhưng không ai mong chờ chuyện này. Đó là một trận động đất, có thể so sánh với vụ 11 tháng 9 năm 2001, một cú sốc lớn khác trong cuộc đời nghề nghiệp của tôi. Tôi nghe một tiếng hét ở hành lang, một tiếng hét thực sự: một nữ nhà báo Ý đã hét lên trong hành lang, giáo hoàng đã từ nhiệm.

Tôi như tê liệt, tôi không phản ứng. Tôi đã lọc tin. Trong nghề chúng tôi, chúng tôi đã quen phản ứng rất nhanh, chúng tôi phải sẵn sàng cho mọi tình huống, mọi tin tức có thể ập đến bất cứ lúc nào. Nhưng với tin này, tôi nhớ đã có một lúc, thời gian như ngừng lại, không hoạt động, tê liệt hoàn toàn, thời gian này kéo dài vài phút làm cho các đồng nghiệp của tôi sợ hãi, những người không biết phải làm gì, khi chúng tôi chỉ còn một giờ nữa là đến giờ phát thanh trực tiếp.

Sau đó tôi biết các đồng nghiệp khác cũng có phản ứng này. Một cú sốc dữ dội, rất mạnh. Nhưng sau đó, cần phải nuốt cú sốc xuống, che nó, và đi giúp các phương tiện truyền thông khác. Việc Đức Bênêđictô XVI từ nhiệm là một sự kiện chưa từng có trong tiền lệ và quan trọng đến mức hầu hết các nhà báo không biết phải đối phó như thế nào. Chỉ riêng thuật ngữ “từ nhiệm” cũng  đã khó giải thích, vì nó không phải là từ chức hay thoái vị.

Tôi còn nhớ, ngoài công việc làm tin, đặc biệt chúng tôi còn phải giúp các nhà báo khác, họ từ khắp nơi trên thế giới về và rất đông, họ tìm đến Đài phát thanh Vatican để được giúp đỡ, để giải thích tình hình. Nhiều nhà báo bối rối, lạc lõng và cần sự giúp đỡ của chúng tôi. Trong giai đoạn rất đặc biệt này, Đài phát thanh Vatican đã trải qua một gánh nặng trách nhiệm.

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Đức Bênêđictô… Và cho phụ nữ một tiếng nói

Đức Bênêđictô… Và cho phụ nữ một tiếng nói

Đức Bênêđictô… Và cho phụ nữ một tiếng nói

larazon.es, Lucetta Scaraffia, 2023-01-03

Nhận thức được vai trò thứ yếu của phụ nữ đã bị hạ thấp trong Giáo hội, Ratzinger đã phát động “cuộc cách mạng mang tính biểu tượng”, trong các bài diễn văn của ngài, ngài trích dẫn những phụ nữ trí thức, không nhất thiết họ phải là người theo kitô giáo.

Các nữ tu ngồi chờ Đức Phanxicô Đền thánh Quốc gia Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội. ẢNH: David Goldman AP

Joseph Ratzinger, chú ý đến tất cả các vấn đề mà cuộc xung đột với tính hiện đại gây ra cho Giáo hội, luôn ý thức rất rõ về sự tương phản gay gắt giữa quá trình giải phóng phụ nữ trong xã hội thế tục và vai trò thứ yếu của họ trong Giáo hội, một thể chế đã hai ngàn năm tuổi này.

Phản ứng của ngài trong vấn đề này phù hợp với tâm lý của ngài, một nhà trí thức, đã phát triển trên hết ở mức lý thuyết, nơi ngài đã phát động một loại cách mạng mang tính biểu tượng mà không may, ít người nhận ra.

Trong “Thiên Chúa và Thế giới” quyển sách phỏng vấn thứ hai của nhà văn Peter Seewald xuất bản năm 2000, câu hỏi giải thích qua lập luận về sự tạo dựng Adam và Eva. Bình luận về bản văn Kinh thánh, Ratzinger khẳng định rõ “sự bình đẳng về mặt bản thể giữa nam và nữ. Họ thuộc một giới tính duy nhất và có một phẩm giá duy nhất”, tuy nhiên, ngài nói thêm “sự phụ thuộc lẫn nhau” được thể hiện “nơi vết thương hiện diện trong chúng ta và điều này dẫn chúng ta đến việc tìm thấy chính mình”.

Sự phụ thuộc lẫn nhau này ngài xem là cơ hội để phát triển và mở rộng: “Con người được tạo ra cần đến người khác để vượt lên chính mình”. Đồng thời, sự phụ thuộc lẫn nhau lại bị xem như một bi kịch tiềm tàng: “Cùng nhau họ sẽ nên một xương, một thịt. Khúc đoạn này chứa đựng tất cả kịch tính về sự chia rẽ của hai giới tính, về sự độc lập lẫn nhau, về tình yêu.”

Văn hóa ngày nay tạo một huyền thoại về quyền tự trị cá nhân, từ chối mọi hình thức bổ sung và phụ thuộc lẫn nhau. Với quan niệm bình đẳng, trong sự khác biệt giữa nam và nữ, văn hóa đương đại đối lập với một hệ tư tưởng bình quân chủ nghĩa, trong đó Ratzinger nhìn thấy “một hình thức linh đạo bộc lộ một kiểu khinh thường thể xác và không muốn thừa nhận thân xác cấu thành con người quan trọng như thế nào.

Trong tác phẩm thần học của ngài, Đức Bênêđictô bảo vệ lòng kính mến Đức Mẹ, mà ngài giải thích là sự tiếp nối truyền thống Kinh thánh, bởi vì “hình ảnh người phụ nữ chiếm một vị trí không thể thay thế trong cấu trúc chung của đức tin và của lòng mộ đạo trong Cựu ước.”

Ngài nhấn mạnh, “trong tư duy và đức tin của Israel, người phụ nữ không xuất hiện trong chức nữ tư tế, nhưng là nữ tiên tri, như vị thẩm phán kiêm vị cứu tinh; đó là những gì đặc biệt đã được phác thảo chỗ đứng đã được định của họ”.

Trong triều giáo hoàng của mình, Đức Bênêđictô XVI đã dành nhiều thời gian hơn là theo chiều kim đồng hồ để nhìn phụ nữ trong Giáo hội với cái nhìn đơn lẻ. Trong các bài phát biểu của ngài, ngài thường trích dẫn các nữ trí thức theo kitô giáo hoặc không theo kitô giáo như Etty Hillesum và Simone Weil.

Nhưng, đặc biệt quan trọng kể từ ngày 1 tháng 9 năm 2010 đến 26 tháng 1 năm 2011, ngài dành trọn một chu kỳ giáo lý trong các buổi tiếp kiến chung thứ tư hàng tuần nói về các thánh thời trung cổ, xem lại cuộc đời các ngài với một quan tâm đến hiện tại.

Lần đầu tiên, có một giáo hoàng dành một loạt tư duy về các nhân vật nữ, và việc lựa chọn các ông chỉ có thể dự trù trước một phần. Ngoài hai bài giáo lý dành riêng cho Hildegard Bingen và cho Catarina Siêna; Clara Assisi cũng ở trong danh sách của ngài. Nhưng cũng có cả Angela Foligno, một phụ nữ đã phải đợi vài thế kỷ để Giáo hội xua tan những nghi ngờ nảy sinh xung quanh trải nghiệm thần bí phi thường và nguyên gốc của bà. Đức Bênêđictô XVI đã tiến thêm một bước khi đề cập đến sự tồn tại và hoạt động của hai nhà thần bí khác mà sự thánh thiện của họ vẫn chưa được công nhận: Margaret de Oingt và Juliana de Norwich.

Nhưng, chắc chắn ngài đã làm để Hildegard de Bingen thành Tiến sĩ Hội thánh, một phụ nữ cho đến lúc đó đã tạo nhiều tranh cãi.

Nhà khoa học, bác sĩ, nghệ sĩ (đặc biệt là có năng khiếu âm nhạc), người sáng lập một dòng tu nữ, nhà thần bí và nhân vật chính của những bài giảng khó quên trong các thánh đường ở các thành phố miền nam nước Đức bị dị giáo Cathar tác động, Hildegard là hình ảnh của một phụ nữ mạnh mẽ và hiện đại, khó đóng khung trong mô hình truyền thống của chủ nghĩa thần bí thánh thiện phản cải cách.

Chính vì lý do này, bà chưa bao giờ được phong thánh, nhưng giáo hoàng Ratzinger đã quyết định nhờ một quá trình phi thường, phong ngài làm Tiến sĩ của Giáo hội.

Đức Bênêđictô XVI không quan tâm đến thực tế là trong những năm gần đây, Hildegarde đã được tái khám phá nhờ các nhà nữ quyền và những người ủng hộ y học tự nhiên, tôn vinh bà gần như là một nhà bảo vệ môi trường.

Từ người phụ nữ “tiên tri” này, ngài muốn khẳng định kinh nghiệm thần bí sâu sắc, bày tỏ lòng kính trọng đối với những phẩm chất đặc biệt mà nữ thánh đã cho thấy trong cuộc đời của ngài, luôn đi theo Ánh sáng đã nói với ngài và soi sáng cho ngài.

Là người yêu âm nhạc, nhà thần học có khả năng hiểu biết sâu sắc về tâm linh, Ratzinger đã tìm thấy mẫu gương thánh thiện của mình nơi người phụ nữ này. Hildegarde đã cho ngài cơ hội xác nhận sự hiện diện cần thiết của phụ nữ trong lĩnh vực kiến thức này: “Chúng ta thấy thần học cũng có thể nhận được sự đóng góp đặc biệt của phụ nữ như thế nào, vì họ có khả năng nói về Thiên Chúa và các mầu nhiệm đức tin với trí thông minh và sự nhạy cảm đặc biệt của phụ nữ.”

Vì thế tôi xin tất cả những ai làm công việc này hãy làm với một tinh thần giáo hội sâu sắc, nuôi dưỡng suy tư bằng lời cầu nguyện và nhìn vào sự phong phú to lớn, vẫn còn một phần chưa được khám phá của truyền thống thần bí thời trung cổ.

Một khía cạnh gây ngạc nhiên ngay lập tức, khi lần đầu tiên đọc các văn bản về các nhà thần bí ngài chọn: có bao nhiêu người trong số những phụ nữ này đã được học đàng hoàng hay nói đúng hơn là có học thức cao. Nhiều người trong số họ biết tiếng la-tinh, thậm chí họ có thể viết bằng ngôn ngữ này, và họ rất quen thuộc không chỉ với Kinh thánh mà còn với các Giáo phụ.

Cũng theo quan điểm này, Hildegarde nổi bật hơn hết nhờ thiên tài đa diện của bà, nhờ đó bà đã có những đóng góp quan trọng cho y học, âm nhạc và thơ ca, cũng như thần học: những món quà của Chúa Thánh Thần không những dành cho việc gầy dựng Giáo Hội mà còn mở ra một khả năng quan trọng khác, đó là khả năng “nhận định các dấu chỉ thời đại”.

Do đó, sự chú ý của Joseph Ratzinger đối với phụ nữ chủ yếu là văn hóa, nhưng sáng suốt. Bằng cách này, Đức Bênêđictô XVI đã rất có ý thức khi cống hiến “những gương mẫu phụ nữ cao cả và quan trọng cho kitô hữu ngày nay”. Và do đó mở đường cho thần học, và nói chung cho sự hiện diện trí thức cuối cùng được công nhận trong đời sống Giáo hội.

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Bà Romilda Ferraauto: “Đức Bênêđictô XVI là người hiện đại”

Ratzinger đích thực

Đức Bênêđictô XVI ‘phong thánh’ ngay? Tổng giám mục Bätzing cho rằng còn quá sớm

Đức Bênêđictô XVI ‘phong thánh’ ngay? Tổng giám mục Bätzing cho rằng còn quá sớm

cath.ch, I. Media, 2023-01-06

Tổng giám mục Georg Bätzing giáo phận Limbourg, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức | DR

Phản ứng với “Santo Subito!” khi đám đông dự tang lễ của Đức Bênêđictô XVI xin phong thánh ngay cho ngài, tổng giám mục Georg Bätzing cho rằng “nên chờ khi Giáo hội quyết định”. Trong cuộc họp báo ngày thứ năm 5 tháng 1, ngài nhắc lại, Giáo hội khuyên nên chờ 5 năm trước khi mở hồ sơ cho một tiến trình phong thánh khả thi.

Ngài nhấn mạnh hiện tượng trong tang lễ của Đức Gioan-Phaolô II năm 2005 không thể lặp lại. Đám đông đã ồ ạt xin phong thánh nhanh chóng cho giáo hoàng Ba Lan, “điều độc nhất vô nhị trong lịch sử Giáo hội”.

Tổng giám mục Bätzing nhấn mạnh: “Tang lễ Đức Bênêđictô XVI là ngày rất cảm động cho Giáo hội Đức và Giáo hội thế giới ”, những giây phút thinh lặng cầu nguyện thật cảm động, ”đó là điều chắc chắn sẽ làm giáo hoàng danh dự rất vui lòng.”

Ngài nghĩ cố giáo hoàng sẽ đánh giá cao bài giảng của Đức Phanxicô, bài giảng tôn vinh linh đạo của ngài hơn là nói về con người của ngài. Giám mục nêu lên, trong bài giảng Đức Phanxicô đã trích dẫn Đức Bênêđictô XVI bốn lần.

Giám mục Bätzing càng vui hơn khi dự một thánh lễ “vừa đơn sơ vừa trang nghiêm”. Ngài nói sự hiện diện của 50.000 người so với khoảng một triệu người của Đức Gioan Phaolô II năm 2005, là một phần trong phong cách giản dị đặc trưng của cố giáo hoàng nhưng cũng xuất phát từ tư cách là giáo hoàng danh dự của ngài: “Tôi không thấy có ít người.”

Ngài cũng đã bác bỏ bất kỳ sự phân cực nào để “những người cấp tiến và những người theo chủ nghĩa truyền thống” đứng sau Đức Phanxicô và cố giáo hoàng chống đối nhau. Theo ngài, cả hai đều đặt trọng tâm vào sự phát triển của Giáo hội. Tuy nhiên, ngài nhấn mạnh phong cách cổ động cho tính đồng nghị lớn hơn của đương kim giáo hoàng là “con đường phía trước” cho tương lai của Giáo hội.

Chỗ đứng của tổng giám mục Gänswein

Khi được hỏi về tương lai của tổng giám mục thư ký Georg Gänswein của Đức Bênêđictô XVI, ngài có thể được bổ nhiệm làm giám mục ở Đức hay không, tổng giám mục Bätzing giải thích quyết định này liên quan đến đương sự và Bộ Giám mục ở Rôma. Ngài cũng cám ơn giám mục Gänswein trong công việc phục vụ Đức Bênêđictô XVI.

Liên quan đến tuyên bố của giám mục Gänswein cho rằng Đức Bênêđictô XVI đã bị tổn thương vì tự sắc Traditionis custodes năm 2021 (Cử hành thánh lễ theo phụng vụ tiền Công đồng), ngài lưu ý cố giáo hoàng đã “rất muốn đối thoại với các cơ quan theo chủ nghĩa truyền thống của Giáo hội”. Tuy nhiên giám mục Bätzing ủng hộ Đức Phanxicô, vì có nguy cơ có quá nhiều nghi thức khác nhau và nhắc lại bản chất công đồng của nghi thức phụng vụ hiện tại.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Đức Phanxicô tạ ơn Chúa đã ban cho chúng ta Đức Bênêđictô

Đức Bênêđictô XVI: “Ngài luôn chiến đấu cho đức tin của những người đơn sơ”

Ratzinger đích thực  

Ratzinger đích thực

ncregiste.com, George Weigel, 2023-01-04

Di ảnh của Đức Bênêđictô XVI ở nhà thờ chính tòa Regensburg, miền nam nước Đức ngày 29 tháng 12 năm 2022, trong một buổi lễ tưởng niệm ngài. (ảnh: Florian Cazeres/AFP/Getty)

Nhân vật vĩ đại cuối cùng của thế giới công giáo thế kỷ 20 không giống với bức tranh biếm họa của các đối thủ thần học và văn hóa của ngài tạo ra.

Joseph Ratzinger đích thực mà tôi biết trong 35 năm – đầu tiên khi ngài là bộ trưởng bộ Tín Lý, sau đó là giáo hoàng Bênêđictô XVI và cuối cùng là giáo hoàng danh dự – là người thông minh thánh thiện, thoạt nhìn không giống bức tranh biếm họa bị các kẻ thù thần học và sau đó là bê tông truyền thông đúc ra chút nào.

Ratzinger của biếm họa là quan thẩm vấn/người điều hành giáo hội khắt khe hung dữ, “Rottweiler de Dieu”. Người  mà tôi biết là người cao thượng có tâm hồn dịu dàng, người nhút nhát nhưng có khiếu hài hước, người yêu nhạc Mozart, thực chất là người vui vẻ, không phải là người cay chua.

Ratzinger của biếm họa không có khả năng hiểu hay đánh giá cao tư tưởng hiện đại. Ratzinger mà tôi biết được cho là người uyên bác nhất thế giới, với kiến thức bách khoa về thần học kitô giáo (công giáo, chính thống giáo và tin lành), triết học (cổ đại, trung cổ và hiện đại), nghiên cứu Kinh thánh (kitô giáo và do thái giáo) và lý thuyết chính trị (cổ điển và đương đại). Trí óc của ngài sáng sủa và có thứ trật, khi trả lời một câu hỏi, ngài trả lời đầy đủ các đoạn văn – bằng ngôn ngữ thứ ba hoặc thứ tư của ngài.

Ratzinger của biếm họa là người phản động chính trị, hoang mang trước các cuộc biểu tình của sinh viên năm 1968 ở Đức và khao khát khôi phục quá khứ quân chủ; những kẻ thù độc ác nhất của ngài cho rằng ngài có cảm tình với Đức quốc xã (vì thế ngài có biệt danh đáng ghét là hồng y xa tăng, panzerkardinal). Ratzinger mà tôi biết là người Đức, trong chuyến thăm Vương quốc Anh năm 2010, đã cám ơn người Anh đã chiến thắng trong cuộc chiến nước Anh. Ngài là tín hữu kitô-dân chủ vùng Bavaria (điều này làm cho ngài hơi thiên tả theo thuật ngữ chính trị Mỹ), có thái độ khinh thường chủ nghĩa Mác vừa mang tính lý thuyết (không có một ý nghĩa triết học nào) vừa mang tính thực tiễn (nó không bao giờ hoạt động và thực chất là toàn trị và sát nhân).

Ratzinger của biếm họa là kẻ thù của Công đồng Vatican II. Ratzinger mà tôi biết, khi ngoài ba mươi, đã là một trong ba thần học gia có ảnh hưởng và có hiệu quả nhất của Vatican II – người, với tư cách là bộ trưởng bộ Tín Lý đã làm việc cùng với Đức Gioan-Phaolô II để đưa ra một diễn giải có thẩm quyền cho Công đồng mà ngài đã đào sâu trong triều giáo hoàng của mình.

Ratzinger của biếm họa là người ngầm làm việc phụng vụ,  quyết tâm quay ngược đồng hồ cải cách phụng vụ. Ratzinger mà tôi biết đã chịu ảnh hưởng sâu xa về mặt thiêng liêng và thần học của phong trào phụng vụ thế kỷ 20. Khi là giáo hoàng, Ratzinger độ lượng hơn khi chấp nhận đa nguyên phụng vụ hợp pháp so với người kế nhiệm của ngài, vì Đức Bênêđictô XVI tin rằng từ đa nguyên quan trọng như vậy, các mục tiêu cao cả của phong trào phụng vụ đã đào tạo ngài cuối cùng sẽ được thực hiện trong một Giáo hội có quyền thờ phượng tôn kính cho sứ mạng và phục vụ.

Ratzinger biếm họa là câu chuyện của ngày hôm qua, một trí thức lạc hậu với những quyển sách sớm bị phủ bụi và vỡ vụn, không để lại dấu ấn gì cho Giáo hội hay văn hóa thế giới. Ratzinger mà tôi biết là một trong số ít tác giả đương đại có thể chắc chắn sách của họ sẽ được đọc trong nhiều thế kỷ. Tôi còn nghĩ một số bài giảng của giáo hoàng vĩ đại nhất kể từ thời Thánh giáo hoàng Grêgôriô Cả cuối cùng sẽ được đưa vào kinh nguyện chính thức hàng ngày của Giáo hội, của Phụng vụ giờ kinh.

Ratzinger của biếm họa khao khát quyền lực. Ratzinger mà tôi biết đã ba lần cố gắng từ chức khỏi Giáo triều, không muốn làm giáo hoàng, năm 2005 đã nói với các đồng nghiệp trong Giáo hội, ngài “không phải là người quản trị” và chỉ chấp nhận việc được bầu chọn làm giáo hoàng bằng cách tuân theo những gì mà ngài gọi là ý Chúa, thể hiện qua số phiếu tối đa của các hồng y bạn hữu của ngài.

Ratzinger của biếm họa thờ ơ với cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục của giáo sĩ. Ratzinger mà tôi biết đã làm nhiều như bất cứ ai khi ngài là hồng y bộ trưởng bộ Tín Lý và sau đó là giáo hoàng, để tẩy sạch Giáo hội khỏi những gì ngài mô tả một cách tàn bạo và chính xác là “ô uế”.

Chìa khóa cho con người thật của Joseph Ratzinger, và cho sự vĩ đại của ngài, là tình yêu sâu đậm của ngài dành cho Chúa Giêsu – một tình yêu được mài dũa bởi trí thông minh thần học và chú giải phi thường, thể hiện rõ trong bộ ba tác phẩm Chúa Giêsu Nadarét, Đấng mà ngài xem như viên đá tảng của dự án kiến thức cho suốt cuộc đời ngài.

Trong những quyển sách này, hơn sáu thập kỷ học hỏi đã được chắt lọc thành câu chuyện mà ngài hy vọng sẽ giúp người khác yêu mến Chúa Giêsu như ngài, vì như ngài nhấn mạnh trong nhiều cách diễn đạt của một chủ đề lớn, “tình bằng hữu với Chúa Giêsu Kitô“ là bước đầu, là điều kiện tiên quyết của đời sống kitô hữu. Nuôi dưỡng tình bạn này chính là mục đích của Giáo hội.

Nhân vật vĩ đại cuối cùng của Công giáo thế kỷ 20 đã về với Chúa, Đấng chắc chắn sẽ thưởng công cho người tôi tớ trung tín của Ngài.

George Weigel là thành viên danh dự William E. Simon, giáo sư nghiên cứu công giáo tại Trung tâm Chính sách Công và Đạo đức ở Washington.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Đức Bênêđictô XVI: “Ngài luôn chiến đấu cho đức tin của những người đơn sơ”

Lịch sử của Giáo hội sẽ không như ngày hôm nay nếu không có mẫu đăng tìm bạn này

Lịch sử của Giáo hội sẽ không như ngày hôm nay nếu không có mẫu đăng tìm bạn này

© Mitrija / Shutterstock

fr.aleteia.org, Pia Bou Acar, 2023-01-03

Nếu không có tờ báo Đức Altoettinger Liebfrauenbote và sự kiên trì người cha Joseph Ratzinger thì giáo hoàng Bênêđictô XVI sẽ không bao giờ nhìn thấy mặt trời.

Lịch sử của Giáo hội sẽ như thế nào nếu không có mẫu báo đăng tìm bạn trên báo công giáo Bavarian Altoettinger Liebfrauenbote ngày 7 tháng 3 năm 1920?

“Công chức cấp thấp độc thân, công giáo, 43 tuổi có quyền về hưu, tìm một phụ nữ, người công giáo đạo hạnh, biết nấu ăn, may vá được, có của hồi môn và tài chính tốt để kết hôn càng sớm càng tốt. Thư ưu tiên kèm ảnh xin gởi đến số 734”.

Mẫu báo © tư liệu cá nhân

Thông báo này được một người lấy tên Joseph Ratzinger viết. Độc thân, 43 tuổi, ông tìm một phụ nữ để cùng ông đi hết phần đời còn lại. Cố gắng đầu tiên không may bị thất bại. Không nản lòng, bốn tháng sau ông viết lại. Ngày 11-7-1920, ông đăng từ công chức cấp thấp thành “công chức hạng trung” và viết thêm, ông có “quá khứ không tì vết và yêu nông thôn”. Ông cũng tiết chế những mong chờ của mình: của hồi môn và gia sản không còn cần thiết.

Lần này, ông có câu trả lời của cô Maria Peintner, 36 tuổi, con gái ngoài giá thú của người thợ làm bánh và đầu bếp xuất sắc, cô gởi thư đến số 734. Cuối cùng, tình yêu dành cho Joseph Ratzinger. Bốn tháng sau họ kết hôn. Với những cái tên như vậy, Joseph và Maria, họ chỉ có thể sinh ra một đứa con trai có định mệnh đặc biệt. Và thành quả của họ: ngày 16 tháng 4 năm 1927, một ngày thứ bảy Tuần Thánh, Maria hạ sinh người con trai thứ hai, Joseph Aloisius Ratzinger, giáo hoàng Bênêđictô XVI tương lai.

Marta An Nguyễn dịch

Những giây phút cuối cùng của Đức Bênêđictô XVI: “Trong vòng ba giờ, ngài suy sụp hẳn”

Những giây phút cuối cùng của Đức Bênêđictô XVI: “Trong vòng ba giờ, ngài suy sụp hẳn”
Trong cuộc phỏng vấn trên Vatican News ngày thứ tư 4 tháng 1, tổng giám mục thư ký riêng Georg Gänswein kể lại tuần cuối cùng và những giờ cuối cùng của Đức Bênêđictô.
famillechretienne.fr, 2023-01-04
Buổi cầu nguyện cho Đức Bênêđictô tại Bavaria, quê hương của ngài.
Là cộng tác viên của Đức Joseph Ratzinger từ năm 1996 và thư ký riêng của ngài từ năm 2003 đến năm 2022, tổng giám mục Georg Gänswein đã sống bên cạnh Đức Bênêđictô trong những giây phút cuối cùng. Tổng giám mục cho biết ngài về Đức thăm gia đình ngày 26 tháng 12. Sáng hôm sau, một trong các phụ nữ thánh hiến điện thoại cho giám mục biết đêm hôm qua Đức Bênêđictô yếu hẳn và bác sĩ tim mạch Patrizio Polisca người Ý chăm sóc cho Đức Bênêđictô đã đến.
Rước lễ lần cuối với mình máu thánh Chúa Kitô
Ngày 27 tháng 12, giám mục Gänswein lên máy bay về lại Rôma ngay, ngài về đan viện Mẹ Giáo hội lúc một giờ sáng ngày 28 tháng 12. Ngài kể: “Lập tức tôi đến gần giường của ngài và tôi rất sợ vì ngài đã thở rất nặng nề, có thể ngài bị vấn đề phổi hoặc phế quản.”
Buổi sáng thứ tư 28 tháng 12, giám mục điện thoại cho Đức Phanxicô để báo tin cho ngài biết. Cuối buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư, Đức Phanxicô xin giáo dân cầu nguyện đặc biệt cho Đức Bênêđictô. Ngày hôm đó thật “khó khăn” nhưng sáng hôm sau, ngược với mọi mong chờ, tình trạng sức khỏe của Đức Bênêđictô được ổn định, bác sĩ không thể giải thích vì sao. Tuy nhiên sau đó tình trạng suy sụp lại, giám mục Gänswein quyết định xức dầu cho ngài. Một thánh lễ được dâng trong phòng ngài.  Đức Bênêđictô XVI rước mình máu thánh Chúa Kitô từ chiếc thìa phụng vụ vì đã hai ngày nay ngài không ăn.
Hấp hối lúc sáng sớm
Giám mục cho biết, đêm cuối cùng của Đức Bênêđictô từ ngày 30 đến 31 tháng 12 khá tốt đẹp. Chính trong đêm này, ngài đã nói “Lạy Chúa, con yêu Chúa” bằng tiếng Ý trước mặt y tá đang trực canh ngài, từ 2:50 đến 3:10 sáng. Rồi trời sáng và “trong vòng ba giờ đồng hồ, ngài suy sụp hẳn.” Giám mục Gänswein nói: “Tạ ơn Chúa, cơn hấp hối không kéo dài lâu, khoảng 45 phút trước khi ngài qua đời lúc 9:34 sáng.
Trong cuộc phỏng vấn, tổng giám mục tâm sự về mối quan hệ cá nhân của mình với Đức Bênêđictô XVI, ngài đã thực sự sống Chặng đàng Thánh giá, “Via crucis” bên cạnh Đức Bênêđictô trong những ngày gần đây. Nhưng trên hết ngài đã giữ được niềm vui, vui vì “những kho tàng sâu sắc” mà Đức Bênêđictô XVI để lại như một di sản có thể được nhiều người biết đến.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Đức Bênêđictô XVI: một tang lễ thanh đạm và đầy xúc động

Đức Bênêđictô XVI: một tang lễ thanh đạm và đầy xúc động
Nếu Vatican tổ chức tang lễ được đánh dấu bằng trang nghiêm long trọng cho Đức Bênêđictô, thì với sự hiện diện của 50.000 người hành hương, chúng ta thấy được lòng kính trọng của họ với ngài.
lavie.fr, Marie-Lucile Kubacki, Rôma, 2023-01-05
Từ sáng tinh mơ ngày thứ năm 5 tháng 1, giáo dân đã chờ để dự tang lễ cố giáo hoàng danh dự Bênêđictô XVI tại Quảng trường Thánh Phêrô. MICHAEL KAPPELER/ZUMA PRESS/ZUMA
Ông Matteo Bruni, giám đốc Văn phòng Báo chí Tòa Thánh tuyên bố: “Đây là tang lễ long trọng nhưng thanh đạm.” Tang lễ đã diễn ra theo đúng chương trình, nghiêm túc và được đánh dấu qua nét buông bỏ đến trần trụi. Thử thách mang tính biểu tượng vừa nhằm tôn vinh cố giáo hoàng danh dự, vừa cho thấy đây không phải là tang lễ của giáo hoàng tại vị.
Như thế, ở nước nhỏ nhất thế giới, ngày thứ năm 5 tháng 1 tuy không chính thức là ngày quốc tang, nhưng các siêu thị đóng cửa trong thời gian tang lễ cử hành. Và các nhân viên được nghỉ làm để đến dự tang lễ, với điều kiện tính liên tục của dịch vụ được đảm bảo.
50.000 giáo dân hành hương tỏ lòng thành kính với “người ông” của Vatican
Nghi thức trong việc chính thức mời các nguyên thủ quốc gia đã giảm đến mức cần thiết, vì chỉ có nước Đức và Ý được mời, đại diện là thủ tướng Đức Frank-Walter Steinmeier và tổng thống Ý Sergio Mattarella. Vì thế các phái đoàn và nhân vật khác có mặt là “với tư cách cá nhân”. Các nhân vật chính trị khác như thủ tướng Ý Giorgia Meloni, vua Philippe và hoàng hậu Mathilde của Bỉ, nữ hoàng Sofia của Tây Ban Nha, hay tổng thống Ba Lan Andrzej Duda đều đến dự.
Sự giản dị – hơi quá triệt để với một số người ở Vatican và trong quần chúng – đã không ngăn được khoảng 50.000 giáo dân thức dậy từ bình minh và chờ trong giá lạnh dưới màn sương mù để bày tỏ lòng tôn kính cuối cùng với người mà Đức Phanxicô gọi là “người ông” của Vatican. Một con số khiêm tốn, khác xa với ba triệu giáo dân đã về Thành phố Vĩnh cửu để dự tang lễ Đức Gioan Phaolô II. Nhưng trên hết, có lẽ là con số 3700 linh mục đến đồng tế đã làm nhiều người xúc động, bảo đảm cho sự mến chuộng Đức Bênêđictô XVI của hàng giáo sĩ, họ xúc động mạnh trong buổi lễ. Một trong các linh mục nói với chúng tôi: “Chính nhờ Ngài mà tôi đã vững vàng trong ơn gọi. Tại một thời điểm, tôi trải qua một cuộc khủng hoảng cá nhân. Tôi kiệt sức, tôi tức giận và buồn bã. Nhờ ngài, nhờ sự kiên định trong Sự thật của ngài, tôi đã có thể tìm lời, tìm hành động giúp tôi đứng vững trở lại và cho tôi sức mạnh để tiếp tục.”
“Một người trấn an và đặt chúng tôi trở lại con đường”, đó cũng là hình ảnh đọng lại của một nhân viên Vatican không thể đến dự tang lễ vì phải đi làm, họ gởi cho chúng tôi lời chứng qua e-mail: “Bằng cách nào đó tôi được trấn an nhờ sự hiện diện của ngài ở Vatican, dù sự hiện diện này bị lu mờ. Khi tôi đến gần đan viện nơi ngài ở để làm các thủ tục hành chính, tôi không thể không bùi ngùi liếc nhìn về đó. Đức Phanxicô nói về ngài như một người ông, một người ông minh triết, và đó là sự thật. Chúng tôi có thể dựa vào ngài, vào giá trị suy nghĩ của ngài. Ngài cũng giúp tôi sống đức tin. Khi tôi cầu nguyện với Chúa Kitô, tôi biết tôi hiệp thông với giáo hoàng danh dự, người đã cống hiến một công trình lịch sử cho Chúa Giêsu.”
“Tảng đá trong cơn bão”
Những người hành hương khi nào cũng là những nhóm với đủ mọi ngôn ngữ, văn hóa, họ đi từng nhóm, từng gia đình từ khắp nơi trên thế giới, nhưng đặc biệt là từ Đức, Ý, Ba Lan, Pháp, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha.
Bà Suzanna người Ý, người gắn bó với Giáo hội thú nhận: “Tôi không hào hứng lắm với Đức Bênêđictô, mà theo tôi, ngài không may đã đến sau Đức Gioan Phaolô II với năng lực mặt trời có thể đốt cháy đám đông. Rõ ràng ngài không có sức thu hút này. Chúng tôi hỏi vì sao bà đến đây, bà giải thích: “Tôi đã học thần học, tôi ấn tượng với sự tinh tế trong suy nghĩ của ngài. Với tôi, ngài đã để lại một tác phẩm tuyệt vời Chúa Giêsu thành Nadarét, vì đó là thần học không khó hiểu như thường lệ, quần chúng có thể đọc được.”
Bà Pilar, từ Tây Ban Nha đến cùng hai con, bà nói về “đức tin lan truyền” của Đức Bênêđictô XVI. Bà đặc biệt nhớ Ngày Thế Giới Trẻ ở Madrid vì tại đây bà đã gặp chồng mình, bà vừa nói vừa cười to: “Đúng là tôi đặc biệt mắc nợ ngài.”
Những Ngày Thế Giới Trẻ trẻ năm đó là thời điểm xây dựng của nhiều người khi giáo hoàng và tín hữu ở bên nhau bất chấp cơn bão. Bà nói: “Tôi đặc biệt nhớ cơn bão này, chúng tôi nghĩ ngài sẽ về, cơn bão thật lớn. Nhưng ngài giữ vững, tôi thấy ngài đứng dưới cơn mưa tầm tã, mặc áo mưa che kín người. Tôi nghĩ hình ảnh này mô tả rất rõ về ngài: một tảng đá trong cơn bão.”
Hoặc như trong truyện ngụ ngôn, cây sậy uốn cong nhưng không gãy. Đó là xác tín của sơ Clara người Brazil sống lâu năm ở Amazon: “Với tôi, đóng góp của Đức Bênêđictô luôn mời gọi mọi người hướng về Chúa Giêsu, bằng công việc thần học cũng như qua thái độ của ngài. Trong thời điểm thế giới có nhiều khủng hoảng, Chúa Kitô là tảng đá duy nhất để bám vào.”
Theo sơ, điểm nổi bật nhất triều giáo hoàng của ngài vẫn là việc ngài từ nhiệm: “Ở thời buổi của tự quy và tự mê, ngài chấp nhận xóa mình, khi ngài là người ở vị trí đầu tiên trong thứ bậc Giáo hội công giáo. Sau đó, mỗi lần khi người khác chống đối Đức Phanxicô, ngài im lặng và nói Đức Phanxicô là giáo hoàng duy nhất: ngài chú tâm đến việc hiệp thông. Sự quên mình này là minh chứng quan trọng cho thời đại chúng ta khi mọi người chăm chăm lo cho hình ảnh cá nhân mình. Khi ngài mờ nhạt nhất là khi ngài cao cả nhất.” Chứng từ của sơ bị gián đoạn vì tiếng vỗ tay của đám đông khi quan tài bằng gỗ tùng bách của Đức Bênêđictô vừa  đặt xuống bên dưới bàn thờ, lúc đó là 8:50 sáng.
Bài Tin Mừng Người Trộm Lành, một chọn lựa mạnh và độc đáo của ban nghi lễ phụng vụ, có thể được Đức Phanxicô đồng ý trước hoặc do chính ngài chọn, cũng đã làm mọi người xúc động. Phúc âm Thánh Luca kể cuộc đối thoại giữa hai người kẻ trộm bên cạnh Thánh giá Chúa Giêsu, và người trộm lành sau khi bênh vực Chúa Kitô khỏi những lời chế nhạo của tên trộm dữ, ông ăn năn và nhận ra thiên tính của Chúa Kitô, vì thế ông là người đầu tiên vào Nước Trời.
Trong bài giảng, cũng rất giản dị, với nét mặt rất nghiêm trọng, Đức Phanxicô bắt đầu suy niệm về bàn tay của những người bị đóng đinh, “những bàn tay bầm dập đưa ra để gặp gỡ, để tận hiến, để chúng ta biết được tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta, để chúng ta tin vào Ngài”. Sau đó, ngài đưa ra các phẩm chất của người mục tử: “Tận tâm phục vụ Chúa và dân của Ngài, hết lòng cầu nguyện, hình thành và tôi luyện cách âm thầm giữa ngã tư đường, giữa những mâu thuẫn mà người mục tử phải đối diện, một tận hiến được Chúa Thánh Thần nâng đỡ an ủi, Đấng luôn đi trước trong sứ mệnh.”
Sau đó ngài trích dẫn một suy tư về tình bạn thiêng liêng của Thánh Grêgôriô Cả: “Giữa những giông bão của cuộc đời, tôi tự an ủi với niềm tin tưởng bạn sẽ giữ vững tôi trong cầu nguyện, và  nếu gánh nặng lỗi lầm của tôi làm tôi gục ngã và sỉ nhục tôi, bạn sẽ cho tôi mượn nhân đức của bạn để nâng tôi lên.” Có thể ám chỉ đến sự hỗ trợ thông qua lời cầu nguyện mà cố giáo hoàng danh dự  đã đảm bảo với Đức Phanxicô trong suốt những năm ngài về hưu chọn cuộc sống cầu nguyện để phục vụ Giáo hội ở đan viện Mẹ Giáo hội, nhưng có lẽ còn hơn thế nữa cho những người đồng hành với các mục tử của họ bằng lời cầu nguyện. Đức Phanxicô giải thích: “Đó là ý thức của người mục tử biết mình không thể gánh vác một mình, trong thực tế, ngài không bao giờ có thể gánh vác một mình và vì thế ngài biết xóa mình để cầu nguyện và chăm sóc những người được giao phó”.
“Bênêđictô, người bạn trung thành của Phu quân”
Chính trong phần kết bài giảng, lần đầu tiên Đức Phanxicô trực tiếp đề cập đến vị tiền nhiệm của ngài: “Chính những người trung tín của Chúa, đã quy tụ lại với nhau, đồng hành và phó thác cuộc đời cho vị mục tử của họ. Giống như người phụ nữ trong Phúc âm ở ngôi mộ, chúng ta ở đây với hương thơm của lòng biết ơn và dầu thơm của hy vọng để một lần nữa chứng tỏ cho thấy tình yêu không bao giờ mất đi.” Đức Phanxicô vinh danh “sự khôn ngoan, tinh tế, sự cống hiến mà ngài đã làm trong những năm qua”. Trong một hơi thở, Đức Phanxicô kết thúc bài giảng của ngài: “Bênêđictô, người bạn trung thành của Phu quân, ước gì niềm vui của bạn được trọn vẹn khi nghe giọng nói của Phu quân, thật sự và mãi mãi!”
Thành ngữ “người bạn trung thành của Phu quân” là theo truyền thống được liên kết với Thánh Gioan Tẩy Giả, người loan báo Chúa Kitô trong Tin Mừng. Một cách để giáo hoàng chỉ định Đức Bênêđictô là người loan báo Chúa Kitô. Sự đề cập này được giáo dân hành hương đánh giá cao mà với một số người, họ đã muốn tôn vinh Đức Bênêđictô XVI là “tiến sĩ của Giáo hội”. Ông Pierre người Pháp nói: “Không thể nghĩ một di sản trí tuệ như vậy trong thời đại khủng hoảng như thời đại chúng ta lại không được ghi dấu ấn bằng con dấu của thể chế có thẩm quyền. Joseph Ratzinger là nhà thần học có đức tin sâu sắc và suy nghĩ chắc chắn, điều này đặc trưng cho một tiến sĩ Giáo hội.”
Sau santo subito năm 2005 được giáo dân xin trong tang lễ của Đức Gioan Phaolô II, một biểu ngữ cũng viết câu này được giăng vào cuối thánh lễ. Ngoài ra có một băng rôn mang hàng chữ “Bênêđictô XVI, tiến sĩ Giáo hội” được người làm ra đăng trên  mạng xã hội, dường như lặp lại thông điệp được chia sẻ nhiều nhất. Một số bài báo đã nói về chủ đề này. Hồng y Bagnasco, tổng giám mục danh dự của Genoa đã nói về việc này trong một phỏng vấn trên truyền hình, cũng như hồng y Koch, bộ trưởng bộ Cổ Vũ Hiệp Nhất Kitô Giáo, trong một cuộc phỏng vấn dành cho La Nuova Bussola. Khi được hỏi về khả năng phong thánh cho Đức Bênêđictô XVI một cách nhanh chóng, ngài trả lời: “Thứ nhất, Chúa là người phán xét ai là thánh, nên tôi phải để ngài phán xét. Thứ hai, giáo hoàng quyết định. Tôi nghĩ Bênêđictô XVI là người thầy vĩ đại, là tiến sĩ Giáo hội với thần học và huấn quyền của ngài, đó là điều quan trọng nhất với tôi. Nhưng tất cả chúng ta đều được kêu gọi để nên thánh.” Việc này tạo tranh luận, một số người khó chịu trước khuynh hướng phải phong thánh bằng mọi giá cho các giáo hoàng, một người mỉa mai, “giống như một loại trá hình của phong thánh ngay, santo subito.”
Thánh lễ kết thúc, quan tài được đưa đến Hầm mộ của các giáo hoàng, bên dưới vương cung thánh đường Thánh Phêrô. Trước khi di quan, Đức Phanxicô đến cúi đầu, đặt tay lên hòm gỗ đông cứng vì giá lạnh mùa đông. Trong đám đông, nhiều người khóc. Ban nhạc Bavaria quê hương cố giáo hoàng diễn hành qua quảng trường. Một người đàn ông đến từ Bavaria bật khóc và nghẹn ngào nói trong hơi thở: “Ngài đã để lại một khoảng trống lớn.” Sau lưng ông, một nữ tu cũng khóc, sơ nói: “Nhưng lịch sử là vậy. Các giáo hoàng đã nối tiếp nhau trong 2000 năm, Giáo hội vẫn tiếp tục.”
Marta An Nguyễn dịch
Bài đọc thêm: Các chi tiết trong tang lễ Đức Bênêđictô

Đức Bênêđictô qua đời: tang lễ có nguy cơ bị công cụ hóa không?

Đức Bênêđictô qua đời: tang lễ có nguy cơ bị công cụ hóa không?
Tang lễ của Đức Bênêđíctô XVI do Đức Phanxicô cử hành sáng thứ năm 5 tháng 1 tạo cơ hội cho những người chỉ trích ngài đưa ra một cái nhìn khác về Giáo hội, xem việc bảo vệ học thuyết là ưu tiên hàng đầu của họ.
la-croix.com, Loup Besmond de Senneville, Rôma, 2023-01-05
Đức Phanxicô tiễn biệt lần cuối trước linh cữu của Đức Bênêđictô trong tang lễ tại Quảng trường Thánh Phêrô ngày 5 tháng 1-2023.
Có bao nhiêu người sẽ dự tang lễ Đức Bênêđictô ngày thứ năm 5 tháng 1? Đó là câu hỏi nảy sinh ở Rôma, vài giờ trước tang lễ của giáo hoàng danh dự sẽ do Đức Phanxicô cử hành lúc 9:30 sáng tại Quảng trường Thánh Phêrô. Nếu Vatican từ chối đưa ra bất kỳ con số nào, nhưng ban quản trị thành phố Rôma đã lên kế hoạch sẽ có 65.000 đến dự, nhưng đã có ít nhất 200.000 người đã đến viếng thi hài của ngài từ thứ hai đến thứ tư.
Các chi tiết trong tang lễ Đức Bênêđictô
Nếu những con số này không liên quan gì đến tang lễ của Đức Gioan Phaolô II, với hơn một triệu người tham dự, thì chúng đã làm tăng thêm mong chờ. Và một mong muốn, ít nhiều rõ ràng làm cho tang lễ này thành một cuộc biểu dương sức mạnh của một bên gắn liền với tầm nhìn về Giáo hội do Đức Joseph Ratzinger phát triển, ngược với tầm nhìn của Đức Phanxicô.
“Tại sao lại có tang lễ hạ thấp như vậy?”
Mặt khác, những người ngưỡng mộ giáo hoàng danh dự cố tình nhấn mạnh Đức Phanxicô mắc nợ người tiền nhiệm rất nhiều. Vì Đức Bênêđictô XVI là người đầu tiên đối diện với các vấn đề lạm dụng tình dục trong Giáo hội hay các vấn đề tài chính của Giáo triều. Thêm nữa, một nguồn tin khác cho biết, Đức Bênêđictô “đã là giáo hoàng xanh, ngài đã bắt đầu viết một thông điệp về chủ đề này, và đã ra chỉ thị cho Hội đồng Công lý và Hòa bình chuẩn bị. Vì thế khi thành giáo hoàng, Đức Phanxicô chỉ cần công bố dưới tên của mình, cộng thêm nhiều trang của ngài.
Một số người cũng công khai chỉ trích sự khác biệt trong nghi thức mà Vatican mong muốn, để phân biệt tang lễ của Đức Bênêđictô XVI với tang lễ của một giáo hoàng đương kim. Một nhân vật trong giới bảo thủ Rôma thắc mắc: “Tại sao lại có tang lễ hạ thấp như vậy, họ bị “sốc” vì các nguyên thủ quốc gia và chính phủ không được Vatican chính thức mời.
Một nguồn tin khác trong Giáo triều gắn bó với cựu giáo hoàng, họ không che giấu những chỉ trích của mình với giáo hoàng hiện tại, họ nói: “Có rất nhiều người trẻ tuổi, chúng tôi không làm sao hết ngạc nhiên.” Dưới con mắt của họ, Đức Joseph Ratzinger là biểu tượng của một Giáo hội gắn bó với học thuyết, ngược với Đức Phanxicô, Giáo hội của ngài gắn bó với các vấn đề xã hội.
Một người rành về triều giáo hoàng của Đức Bênêđictô giải thích: “Xung quanh ngài là cuộc đối đầu giữa hai thế giới không còn các nhà lãnh đạo nữa. Những người bảo thủ và ôn hòa không còn những hình ảnh đứng đầu như vào thời của Đức Gioan Phaolô II, các hồng y Martini và Ratzinger.” Nguồn tin cho biết tiếp: “Dù giáo hoàng danh dự sống ẩn dật, nhưng đơn thuần sự hiện diện của ngài cũng đã góp phần xoa dịu toàn bộ lãnh vực bảo thủ. Họ có ảo tưởng ngài có thể can thiệp. Bây giờ không còn nữa. Giống như cây cột thu lôi đã biến mất.”
Thủ tướng Hungary Viktor Orban đến viếng
Những ngày gần đây các nghi lễ cũng là dịp để thấy các khía cạnh chính trị như thủ tướng Hungary, Viktor Orban đến viếng ngày thứ ba 3 tháng 1. Qua thủ tướng Hungary người theo phái Calvin, một biểu hiệu được cho là của một chính trị gia cấp cao gắn liền với việc quảng bá các giá trị kitô giáo. Nhiều người cũng nêu bật sự hiện diện của họ tại tang lễ như hồng y Joseph Zen, cựu giám mục Hồng Kông, người chỉ trích lập trường của Đức Phanxicô trong hồ sơ Trung Quốc.
Tại Vatican, đa số khó chịu khi nêu lên những khác biệt này giữa hai giáo hoàng. Và từ chối bất kỳ giải thích chính trị nào về tang lễ này. Một nguồn tin Vatican khẳng định: “Đây sẽ là giây phút hiệp thông giáo hội, không phải là một khoảnh khắc chính trị. Chúng ta không thể buộc tội giáo hoàng đã làm quá ít: ngài sẽ chủ trì tang lễ ở Quảng trường Thánh Phêrô. Ở Vatican, không có gì lớn hơn. Nhưng chúng ta cũng không thể cho rằng việc chôn cất Đức Bênêđictô XVI là việc chôn cất một giáo hoàng tại chức: chính ngài đã chọn cách chấm dứt triều giáo hoàng của ngài đã gần mười năm. Và giáo hoàng duy nhất bây giờ là giáo hoàng Phanxicô.”
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Đức Bênêđictô XVI: một tang lễ thanh đạm và đầy xúc động

Chúng ta chia buồn với ai khi một giáo hoàng qua đời và cụ thể là Đức Bênêđictô XVI?

Chúng ta chia buồn với ai khi một giáo hoàng qua đời và cụ thể là Đức Bênêđictô XVI?

Gia đình Đức Bênêđictô XVI © Vatican Media

Trong Giáo hội, người ta gởi lời chia buồn đến “gia đình giáo hoàng”. Nhưng “gia đình giáo hoàng” là ai? Chính xác hơn, “gia đình” của Đức Biển Đức XVI là ai?

fr.zenit.org, 2023-01-04

Cái chết của một giáo hoàng có thể đặt câu hỏi cho đến khi chôn ngài. Đó là trường hợp của Đức Bênêđictô XVI. Một trong những câu hỏi là gởi phân ưu đến ai.

Giáo hoàng danh dự đã qua đời, Đức Phanxicô tiếp tục chức vụ của ngài. Thực tế đặc biệt này gồm hai loại phân ưu: những lời chia buồn do các cơ quan chính trị và tôn giáo gởi đến, và những lời chia buồn trong Giáo hội do các đại diện giáo hội hoặc các nhà lãnh đạo giáo dân của các phong trào, hiệp hội hoặc tổ chức công giáo gởi đến.

Các cơ quan chính trị và tôn giáo quốc tế đã gởi phân ưu đến  Đức Phanxicô. Chúng ta thấy qua các tuyên bố và thông cáo báo chí gởi đến ngài và sau đó chia sẻ trên mạng xã hội.

Tuy nhiên, trong Giáo hội, lời chia buồn được gởi đến “gia đình giáo hoàng”. Sáng thứ hai ngày 2 tháng 1, tổng thống Ý gởi phân ưu ngoại giao đến Đức Thánh Cha, có nghĩa là “gia đình giáo hoàng.

Gia đình giáo hoàng là ai?

Gia đình giáo hoàng là tập hợp những người trong một thực tế lớn hơn được gọi là “gia đình tòa thánh”. “Nhà giáo hoàng” là một thực thể cho đến thời Đức Phaolô VI, được gọi là “Triều đình giáo hoàng”. Dù tên đã thay đổi, nhưng ý nghĩa vẫn như cũ. Đó là tập hợp những người thuộc môi trường gần nhất của giáo hoàng: những người sống gần ngài nhất.

Trong “Nhà giáo hoàng”, “Gia đình giáo hoàng” là môi trường thân cận giáo hoàng, được chia thành hai: phần giáo hội và phần thế tục. Tóm lại, có thể nói “gia đình giáo hoàng” gồm những người chăm sóc việc nhà cho giáo hoàng (bữa ăn, phòng ở, quần áo, v.v.) và những người giúp ngài trong các nghi lễ công cộng, dân sự, tôn giáo cũng như các nghi lễ tôn giáo, tổ chức chương trình nghị sự, các sự kiện và các buổi tiếp kiến.

Phần giáo hội của “gia đình tòa thánh” gồm các ban thư ký của Phủ Quốc vụ khanh, ban thư ký quan hệ với các Quốc gia, ban tuyên úy giáo hoàng, chủ tịch Học viện Giáo hoàng, nhà thần học của Nhà tòa thánh, các người phụ trách nghi lễ tòa thánh, các tuyên úy của Đức Thánh Cha, nhà giảng thuyết của Nhà tòa thánh, thư ký riêng của giáo hoàng và các đại diện đệ nhất lục sự tòa thánh.

Phần thế tục gồm chỉ huy Đội cận vệ Thụy Sĩ, giám đốc Giáo hoàng Học viện, các quý ông của tòa thánh, quản gia của giáo hoàng, thân thuộc ruột thịt của giáo hoàng.

Với số lượng người cần điều phối, giáo hoàng bổ nhiệm một giám chức cho gia đình tòa thánh, được một giám chức nhiếp chính hỗ trợ.

“Gia đình tòa thánh” của Đức Bênêđictô XVI

Đức Bênêđictô XVI không còn là giáo hoàng đương nhiệm, “gia đình tòa thánh” thu hẹp lại. Chỉ còn bảy người: bốn phụ nữ thánh hiến: Rosella, Cristina, Loredana và Carmela; sơ Birgit Wansing, tổng giám mục thư ký riêng Georg Gänswein, thư ký riêng của ngài, người mà Đức Thánh Cha Phanxicô. Đức ông Georg Ratzinger, anh trai của nguyên giáo hoàng, cũng là thành viên của Gia đình cho đến khi ngài qua đời vào năm 2020.

Đó là lý do vì sao vào sáng ngày 2 tháng 1, tổng giám mục Gänswein đứng ra nhận lời chia buồn của những ai đến vương cung thánh đường Thánh Phêrô, nơi đặt di hài của Đức Bênêđictô XVI.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài mới nhất