Home Blog Page 35

Sự khác biệt giữa Tòa thánh, Thành phố Vatican và Giáo triều Rôma là gì?

Sự khác biệt giữa Tòa thánh, Thành phố Vatican và Giáo triều Rôma là gì?

Hồng y Gianfranco Ghirlanda, Dòng Tên, nhà giáo luật và giáo sư danh dự của Đại học Giáo hoàng Gregorian giải thích sự khác biệt.

fr.zenit.org, Anne Van Merris, 2025-06-26

Hồng y Gianfranco Ghirlanda, Dòng Tên, nhà giáo luật và giáo sư danh dự của Đại học Giáo hoàng Gregorian, cựu Viện trưởng Viện Athenaeum, cố vấn cho nhiều cơ quan của Vatican, ngài đưa ra suy tư sâu sắc về ba khái niệm thường bị nhầm lẫn nhưng lại khác biệt: Tòa thánh, Thành phố Vatican và Giáo triều La-mã theo góc độ pháp lý và ngoại giao.

Nhân dịp Năm Thánh, Hồng y Ghirlanda giải thích: “Ngoại giao của Tòa thánh chỉ có ý nghĩa khi phục vụ con người và hòa bình. Đây là dịp để chúng ta học hỏi bản chất, sứ mệnh  Tòa thánh, Giáo triều La-mã dưới ánh sáng của Phúc âm và lịch sử. Ngoại giao Vatican không bảo vệ lợi ích, nhưng nâng đỡ con người.”

Tòa thánh thường bị nhầm lẫn với Thành quốc Vatican. Xin cha giải thích vấn đề này.

Hồng y Gianfranco Ghirlanda – Tòa thánh hay Hội thánh Tông đồ thường nói đến Giáo hoàng và Giáo triều La-mã tùy theo ngữ cảnh. Chúng ta cần phân biệt Tòa thánh, được hiểu là trung tâm quản lý của Giáo hội, với Thành quốc Vatican, được thành lập theo Hiệp ước Lateran ngày 11 tháng 2 năm 1929 đảm bảo Giáo hoàng hoàn toàn tự do trong chức vụ của mình. Ngay từ năm 1871, nhà nước Ý đã ban hành Luật Bảo hộ, một đạo luật đơn phương nhằm điều chỉnh mối quan hệ với Tòa thánh, nhưng đã bị Đức Piô IX bác bỏ vì đặt Giáo hoàng dưới quyền của chính quyền Ý. Phải đến năm 1929, thông qua một thỏa thuận song phương, các quy định chính thức mới được đưa ra. Tòa thánh chứ không phải Nhà nước Vatican mới là bên có chủ thể pháp lý quốc tế và duy trì quan hệ ngoại giao.

Định nghĩa về Tòa thánh: Tòa thánh là một chủ thể của luật pháp quốc tế khác biệt với Thành quốc Vatican. Thành quốc Vatican có quan hệ ngoại giao với hơn 180 quốc gia, là quan sát viên thường trực tại Liên Hiệp Quốc, ký kết các hiệp ước quốc tế. Không như các quốc gia khác, vai trò của Tòa Thánh dựa trên sứ mệnh thiêng liêng của Giáo hoàng với tư cách là mục tử của Giáo hội hoàn vũ. Thành quốc Vatican được thành lập từ Hiệp ước Lateran năm 1929 nhằm đảm bảo tính độc lập của chức thánh Phêrô.

Chủ nghĩa tập trung của La-mã thường bị chỉ trích. Đức Lêô phản ứng thế nào trước nhận xét này dựa trên Hiến chế Praedicate Evangelium về Giáo triều Rôma do Đức Phanxicô ban hành năm 2022?

Cấu trúc cụ thể của chính quyền Giáo hội thay đổi theo thời gian, thích ứng với những thay đổi lịch sử nhưng vẫn duy trì các nguyên tắc cơ bản. Tông hiến Anh em hãy rao giảng Tin Mừng Praedicate Evangelium là một phần của công việc phân quyền, vốn đã được Công đồng Vatican II mong muốn. Tuy nhiên, việc triển khai đầy đủ cần có thời gian.

Chức năng của chính quyền trung ương, được giao phó cho Tòa thánh, là bảo vệ sự hiệp nhất của đức tin, các bí tích và luân lý. Tuy nhiên, chức năng này phải được hài hòa với quyền tự chủ và trách nhiệm mục vụ của các Giáo hội địa phương được giao phó cho các giám mục. Tính công đồng, được Đức Phanxicô mạnh mẽ khuyến khích là cách cụ thể để củng cố sự hòa hợp này. Thượng Hội đồng gần đây, được xây dựng từ các giáo xứ là một ví dụ hùng hồn.

Làm thế nào để tránh sự đối lập giữa trung tâm và ngoại vi…

Điều quan trọng là không được đối lập hai chiều này nhưng phải nhận ra tính đồng bản chất của chúng. Các Giáo hội cụ thể không chỉ là sự điều chỉnh hành chính của Giáo hội hoàn vũ, các Giám mục cũng không chỉ là công chức của Giáo hoàng. Họ có sự nhất quán về quyền thiêng liêng, giống như Giáo hội hoàn vũ. Một tầm nhìn chỉ mang tính địa phương có nguy cơ làm giảm Giáo hội hoàn vũ xuống thành một liên bang của các Giáo hội độc lập, một quan điểm sai lầm về mặt thần học. Sự cân bằng thực sự chính là công nhận Giáo hội vừa mang tính phổ quát vừa mang tính đặc thù.

Khi nhấn mạnh vào một khía cạnh nhưng lại làm tổn hại khía cạnh khác, tầm nhìn công giáo về sự hiệp thông giáo hội sẽ bị tổn hại.

Cha thấy những thách thức cụ thể nào khi triển khai Tông hiến Anh em hãy rao giảng Tin Mừng Praedicate Evangelium vào đời sống hằng ngày của Giáo triều?

Như với bất kỳ văn bản lập pháp nào, tính hợp lệ và hiệu quả của cải cách được xác minh tại thời điểm thực hiện. Tông hiến Anh em hãy rao giảng Tin Mừng nên được thực hiện dần dần để có những sửa đổi và điều chỉnh cần thiết,đây là giai đoạn tâm-sinh lý lành mạnh của quá trình cải cách.

Thành quốc Vatican là quốc gia nhỏ nhất thế giới, là vùng đất có chủ quyền nằm ngay trung tâm thủ đô Rôma, đảm bảo tự do và độc lập hoàn toàn của Giáo hoàng. Tòa thánh là cơ quan chính quyền trung ương của Giáo hội, đứng đầu là Giáo hoàng và Giáo triều La-mã.

Giáo triều Rôma là tập hợp các cơ quan hỗ trợ Giáo hoàng trong việc phục vụ Giáo hội hoàn vũ. Chỉ có Tòa thánh mới có tư cách pháp nhân quốc tế và chính thức đại diện cho Giáo hội trong quan hệ với các quốc gia khác.

Nguồn gốc vai trò quốc tế của Tòa thánh là gì?

Tòa thánh có tầm quan trọng quốc tế vì bản chất tâm linh. Từ thế kỷ thứ tư, với sự công nhận quyền tự do tôn giáo của  kitô giáo, Giáo hội bắt đầu thiết lập quan hệ với chính quyền đế quốc. Sau khi Đế chế Rôma bị sụp đổ ở Phương Tây, Tòa Thánh là lực lượng thống nhất duy nhất trong bối cảnh chính trị hỗn loạn, dần dần đảm nhận vai trò ngày càng rõ ràng hơn trên trường quốc tế.

Từ thế kỷ thứ 5 trở đi, các nhà ngoại giao, đại diện Giáo hoàng với chính quyền dân sự đã xuất hiện. Trong những thế kỷ tiếp theo, các Quốc gia Giáo hoàng, các sứ thần và vào thế kỷ 15, các tòa sứ thần đầu tiên đã được hình thành. Lịch sử đã mang lại cho Tòa thánh chức năng ngoại giao, nhưng bắt nguồn từ sứ mệnh tâm linh: thúc đẩy hòa bình, bảo vệ nhân quyền và bảo vệ phẩm giá con người.

Trong trường hợp này, ngoại giao Vatican có những đặc điểm riêng không?

Ngoại giao Vatican là ngoại giao nhân đạo, không hướng tới việc bảo vệ lợi ích quyền lực nhưng hướng tới việc thúc đẩy con người. Theo nghĩa này, Tòa thánh đôi khi có nhiệm vụ khó khăn là lên án những hành vi vi phạm các quyền cơ bản xảy ra ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Kinh nghiệm có được qua nhiều thế kỷ là vô cùng quý báu, nhưng ngoại giao phải luôn phục vụ cho Phúc âm.

Liệu việc thực hiện chức năng này có khó khăn hơn khi không có các công cụ đặc trưng của Nhà nước không?

Chắc chắn khó khăn hơn, nhưng chính điều kiện này đã củng cố thêm tính đặc thù của sứ mệnh. Tòa thánh được kêu gọi hành động trong thế giới nhưng không cho phép mình trở nên thế tục. Đây chính là lúc cần phân định phát huy tác dụng. Như Thánh I-Nhã đã dạy, phương tiện luôn là phương tiện. Nếu phương tiện thành mục đích, sự gắn kết của truyền giáo sẽ mất đi. Khi các công cụ thế gian nắm quyền, Giáo hội có nguy cơ đánh mất bản sắc, bảo vệ uy tín và quyền lực thay vì bảo vệ con người. Điều này sẽ dẫn tới thất bại nghiêm trọng trong sứ mệnh của Giáo hội.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Con đường phục vụ và yêu thương của linh mục trẻ, người chồng, người cha 70 tuổi

Đức Lêô sẽ giải quyết khủng hoảng ơn gọi nơi người công giáo trẻ như thế nào

Đức Lêô: “Chúa Giêsu, niềm hy vọng chữa bệnh chán sống của chúng ta”

Đức Lêô: “Chúa Giêsu, niềm hy vọng chữa bệnh chán sống của chúng ta”

vaticannews.va, Myriam Sandouno, Vatican, 2025-06-25

Tiếp tục chuỗi bài giáo lý trong buổi tiếp kiến chung ngày thứ tư 25 tháng 6 về chữa lành “Chúa Giêsu, niềm hy vọng có thể chữa lành tâm hồn chúng ta”, trước các thất vọng và tuyệt vọng Đức Lêô khuyên chúng ta hướng về Chúa Kitô, Đấng chữa lành và tái sinh chúng ta.

Hôm nay là buổi tiếp kiến chung cuối cùng trước kỳ nghỉ hè, Đức Lêô nhắc lại đoạn trong Phúc âm thánh Marcô, kể lại hai phép lạ chữa lành.. một em bé gái 12 tuổi nằm trên giường sắp chết; và người phụ nữ bị băng huyết 12 năm tìm đến Chúa Giêsu để được chữa lành (Mc 5:21-43).

Trong trường hợp đầu tiên, ngài nhấn mạnh đến đức tin và hy vọng của người cha cô gái đứng trước hoàn cảnh khó khăn: “Ông không ở nhà phàn nàn bệnh của con, ông đi ra ngoài để xin giúp đỡ. Là người đứng đầu giáo đường Do Thái, ông không đòi hỏi bất cứ điều gì nhờ địa vị xã hội của ông. Ông không mất kiên nhẫn, ông vẫn chờ đợi. Khi những người ở gần Chúa Giêsu nói với ông ‘con gái ông đã chết và không có lý do gì để làm phiền Thầy’, ông vẫn tiếp tục hy vọng và tin vào Chúa Giêsu. Chúa nói với ông: “Đừng sợ, chỉ cần tin thôi.” Sau đó Ngài vào nhà và thấy gia đình khóc lóc, Ngài nói: Đứa trẻ không chết, nó đang ngủ, Ngài vào chỗ đặt em bé, cầm lấy tay em và nói: “Talità kum, con hãy dậy.”

“Cái chết của cơ thể giống như giấc ngủ. Cái chết của linh hồn là điều chúng ta phải sợ.”

Tiếp tục bài giáo lý, Đức Lêô làm rõ, Chúa Giêsu không chỉ chữa lành mọi bệnh tật mà còn đánh thức chúng ta khỏi cái chết: “Đối với Thiên Chúa, Đấng là Sự Sống vĩnh cửu, cái chết của thân xác giống như giấc ngủ. Cái chết thực sự là cái chết của linh hồn: đó là điều chúng ta phải sợ.”

Ngoài phép lạ Ngài làm, Chúa Giêsu cho thấy “sự gần gũi của Ngài với chúng ta” khi Ngài xin cha mẹ cho đứa trẻ ăn. Ở đây, Đức Lêô mời gọi chúng ta suy ngẫm sâu sắc hơn và tự hỏi mình một số câu hỏi: “Khi con cái chúng ta bị khủng hoảng, cần được nuôi dưỡng về mặt tinh thần, chúng ta có biết cách giúp chúng không? Và làm sao chúng ta có thể làm được điều này nếu chúng ta không nuôi dưỡng mình bằng Phúc Âm? ”

Đừng đến với Chúa Giêsu một cách hời hợt

Trong bài giáo lý hôm nay, Đức Lêô nhấn mạnh câu chuyện người phụ nữ bị băng huyết, bà đến gần Chúa Giêsu và chạm vào áo Ngài. Đức Lêô giải thích: “Bà có thể được chữa lành khi đức tin của bà lớn lên, nhưng bà tìm được sức mạnh để đi ra ngoài tìm Chúa, mong muốn ít nhất được chạm vào áo Ngài. Đám đông rất lớn vây quanh Chúa Giêsu, rất nhiều người chạm vào Ngài nhưng không có chuyện gì xảy ra với họ. Ngược lại, khi người phụ nữ chạm vào Chúa Giêsu, bà được chữa lành. Đức tin cũng như lòng dũng cảm của bà nhắc chúng ta “không đến với Chúa Giêsu một cách hời hợt, không thực sự tin vào quyền năng của Ngài”.

“Mỗi lần chúng ta có một hành vi tin vào Chúa Giêsu, một tiếp xúc với Ngài được thiết lập và ơn của Ngài lập tức ban cho chúng ta. Đôi khi chúng ta không nhận ra, nhưng theo một cách kín đáo và thực sự, ơn của Ngài đến với chúng ta từ bên trong, dần dần biến đổi đời sống chúng ta”.

Đức Lêô mời gọi chúng ta trải nghiệm sức mạnh của Chúa Kitô khi chúng ta đối diện với thử thách. Trong những lúc thất vọng và chán nản, điều chúng ta nên làm là “đến với Chúa Giêsu, Đấng có thể chữa lành chúng ta, Đấng tái sinh chúng ta và Ngài là niềm hy vọng của chúng ta.”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Đức Lêô nhắc lại giá trị của bậc sống độc thân

Những “thách thức mới” của Đức Lêô: Chủ nghĩa tân ngoại giáo công nghệ

Đức Lêô nhắc lại giá trị của bậc sống độc thân

Đức Lêô nhắc lại giá trị của bậc sống độc thân
cath.ch, I.Media, 2025-06-25
Hình ảnh | © Vatican media
Trong cuộc gặp với các chủng sinh Ý ngày thứ tư 25 tháng 6, Đức Lêô tuyên bố: “Bậc sống độc thân của linh mục là đặc sủng cần được công nhận, bảo vệ và giáo dục. Thánh Augustinô (354-430) là gương mẫu của chúng ta, ngài hiến mình cho Chúa nhưng bị kiềm chế và bị cám dỗ.”
Đức Lêô tiếp các chủng sinh của vùng Triveneto, gồm khoảng 15 giáo phận của miền Bắc nước Ý trong dịp các chủng sinh về Rôma dự Năm Thánh.
Đức tính tiết chế
Trong quyển Tự Thú, Thánh Augustinô thú nhận ngài khó từ bỏ các thú vui xác thịt. Nhưng chính trong tình trạng này, ngài nhận ra “đức tính tiết dục” làm cho ngài trông cậy vào Chúa hơn là cậy vào sức mình.
Theo gương Thánh Augustinô, Đức Lêô khuyên các chủng sinh: “Nên hết lòng tin tưởng vào Chúa, từ bỏ thói kiêu ngạo, nghĩ rằng tự mình có thể làm được mọi việc. Bảo vệ bậc sống độc thân như một đặc sủng cần được công nhận, bảo vệ và giáo dục.”
Vào cuối buổi sáng, khi tiếp các Giám mục từ khắp nơi trên thế giới về dự Năm Thánh, ngài giải thích lại vấn đề này: “Bậc sống độc thân và các đức tính của con người không chỉ giữ bậc sống độc thân nhưng còn giữ tâm hồn và hành vi trong sạch.”
Một câu hỏi vẫn còn
Lời của Đức Lêô về vấn đề độc thân được đưa ra trong bối cảnh vấn đề này thường được nêu ra trong các cuộc tranh luận của Giáo hội. Tháng 10 năm 2019, Thượng hội đồng về Amazon đã tranh luận về việc đề xuất phong linh mục cho các ông đã lập gia đình – dưới danh nghĩa ‘viri probati’ – để giải quyết tình trạng thiếu hụt linh mục. Đề xuất được các thành viên của Thượng Hội đồng bỏ phiếu nhưng cuối cùng không được Đức Phanxicô giữ lại trong Tông huấn Querida Amazonia (2020).
Tháng 3 năm 2023, trong quản trị cải cách, Giáo hội Đức đã yêu cầu Giáo hoàng “xem xét lại” luật độc thân của linh mục. Sau đó chủ đề này được nhắc lại trong Thượng hội đồng gần đây về tương lai Giáo hội. Tháng 10 năm 2023, văn bản làm cơ sở cho việc này đặt câu hỏi về khả năng “mở cuộc thảo luận về các phương thức tiếp cận chức linh mục cho các ông đã kết hôn”, nhưng tài liệu cuối cùng chỉ đơn giản xem đây là “nghĩa vụ kỷ luật, cần được nghiên cứu thêm”.
Sau đó Đức Phanxicô đã giao chủ đề này cùng với các vấn đề tế nhị khác cho mười nhóm làm việc, có nhiệm vụ đệ trình kết luận của họ vào tháng 6 năm 2025, vì thế hồ sơ này sẽ được đệ trình lên Đức Lêô.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Đức Lêô: “Chúa Giêsu, niềm hy vọng chữa bệnh chán sống của chúng ta”

Những “thách thức mới” của Đức Lêô: Chủ nghĩa tân ngoại giáo công nghệ

Những “thách thức mới” của Đức Lêô: Chủ nghĩa tân ngoại giáo công nghệ

Những “thách thức mới” của Đức Lêô: Chủ nghĩa tân ngoại giáo công nghệ

revistaecclesia.es, Juan Vicente Boo, 2025-06-23

Đức Lêô quan tâm đến các thách thức mới do tác động soi mòn của chủ nghĩa tân ngoại giáo cộng nghệ trên xã hội, đặc biệt đến tâm trí và hành vi của thanh thiếu niên và người trẻ tuổi.

Ngài có các đặc điểm của nhà khoa học, của luật gia, ngài là người của thời đại, ngài hiểu rõ các vấn đề ảnh hưởng đến từng khu vực trên thế giới. Ngài tốt nghiệp Toán học trước khi lấy bằng Thạc sĩ Thần học và Tiến sĩ Giáo luật. Thêm vào nền tảng trí tuệ và khoa học, ngài dùng máy tính, điện thoại thông minh và phương tiện truyền thông xã hội thông thạo. Ngài là Giáo hoàng đầu tiên dùng WhatsApp trong một thời gian dài. Ngài hiểu ở mức độ nào, ở nhóm tuổi nào điện thoại di động đã thay thế cha mẹ, bục giảng và ghế ngồi nghe giảng trong nhà thờ. Game điện tử và mạng xã hội đã thay thế sách.

Kiến thức về thế giới kỹ thuật số đã làm cho ngài quyết định lấy tông hiệu Lêô XIV, vì Đức Lêô XIII, với Thông điệp Tân sự Rerum Novarum, đã giải quyết vấn đề xã hội trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lớn đầu tiên và ngày nay Giáo hội truyền lại di sản học thuyết xã hội để ứng phó với một cuộc cách mạng công nghiệp khác và với sự phát triển của trí tuệ nhân tạo, mang đến những thách thức mới trong việc bảo vệ phẩm giá con người, công lý và lao động.

Trong lần nói chuyện với các Đại sứ ủy nhiệm tại Tòa thánh, ngài lên tiếng về nhu cầu: “Phải đối diện mạnh hơn với những thách thức của thời đại, như vấn đề di cư, việc dùng trí tuệ nhân tạo một cách có đạo đức và bảo vệ vùng đất thân yêu của chúng ta. Khi các từ ngữ mang hàm ý mơ hồ và trái chiều, thế giới ảo với nhận thức sai lệch về thực tế, những ưu thế không được kiểm soát, chúng ta sẽ rất khó để xây dựng các mối quan hệ chân thực.”

Giáo hội phải đối diện với nhiều thách thức. Đức Lêô không bỏ qua những điều cũ, nhưng ngài tập trung hơn vào các điều mới, do tác động soi mòn của chúng đối với xã hội, đặc biệt với tâm trí và hành vi của thanh thiếu niên và của người trẻ, những người dễ bị tổn thương nhất trong thế giới kỹ thuật số, nơi các công ty lớn khai thác chứng nghiện game để làm giàu, các loại cờ bạc trực tuyến, khiêu dâm và chứng ám ảnh về hình ảnh. Thêm vào đó là các trò chuyện gây nghiện với trí thông minh nhân tạo “yêu thương” đã phổ biến trên mạng rất nhiều, một số mang tính tình cảm nhưng một số khác mang tính khiêu dâm.

Trong bài phát biểu sâu sắc gởi đến Hiệp hội Centesimus Annus pro Pontifice (Kỷ niệm 100 năm Giáo hoàng), ngài lưu ý: “Trong bối cảnh cuộc cách mạng kỹ thuật số đang diễn ra, chúng ta phải tái khám phá, nhấn mạnh, vun đắp bổn phận đào tạo để mọi người có tư duy phản biện, vượt lên những cám dỗ đôi khi nảy sinh trong các cộng đồng.” Ngài cảnh báo: “Có rất ít đối thoại xung quanh chúng ta vì các đối thoại này thường bị thay thế bằng tiếng la hét dưới dạng tin tức giả mạo và những lập luận phi lý của một số ít người có quyền lực đưa ra.”

Cha mẹ của thanh thiếu niên và người trẻ tuổi lo lắng trước những nguy hiểm bên ngoài, họ thấy con cái không còn chú ý hoặc ngày càng có những ý tưởng kỳ quặc từ màn hình. Các công ty công nghệ lớn có ảnh hưởng chính trị, không bị hạn chế ở Hoa Kỳ, không những họ thu hút sự chú ý của trẻ em, họ còn truyền bá hệ tư tưởng của những người siêu giàu thống trị lãnh vực này. Sự bùng phát của chủ nghĩa bài ngoại, phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa đề cao nam tính độc hại, thái độ ghét phụ nữ trong giới trẻ không phải là ngẫu nhiên. Sự lây lan của tín điều Tescreal – bao gồm nhiều hệ tư tưởng, trong đó có chủ nghĩa siêu nhân – mê tiền điện tử, nhà nước mạng và chủ nghĩa không tưởng tự do cũng không phải là chủ nghĩa tân ngoại giáo kỳ lạ về công nghệ.

Những vấn đề cha mẹ thấy ở nhà cũng là các vấn đề được các giáo lý viên, linh mục giáo xứ và các cơ quan giáo dục phát hiện. Ngày càng khó khăn hơn để truyền tải đức tin, củng cố tinh thần con cái trong thế giới đầy những người có sức ảnh hưởng.

Đức Lêô nhận thức rõ tình trạng này, ngài nhắc lại cuộc cách mạng công nghệ, trí tuệ nhân tạo và “sự thay đổi mang tính thời đại” đã được tiền nhiệm của ngài báo trước. Ngài ứng phó các “thách thức mới” này với vũ khí là lời cầu nguyện, lý trí, kiến thức kỹ thuật số cho cha mẹ, cho các nhà giáo để thực thi sứ mệnh truyền giáo.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Đức Lêô nhắc lại giá trị của bậc sống độc thân

Đức Lêô: “Chúa Giêsu, niềm hy vọng chữa bệnh chán sống

Linh mục Clément Barré: “Danh tiếng Giáo hội không còn quan trọng với tôi, cuộc khủng hoảng lạm dụng đã thay đổi cuộc đời tôi”

Linh mục Clément Barré: “Danh tiếng Giáo hội không còn quan trọng với tôi, cuộc khủng hoảng lạm dụng đã thay đổi cuộc đời tôi”

la-croix.com, Héloise de Neuville, 2025-06-22

Linh mục Clément Barré giáo phận Bordeaux. Ảnh: Clément Barré

Là linh mục của giáo phận Bordeaux và là cộng tác viên của giáo xứ Saint-Joseph-des-Jalles, Linh mục Clément Barré, 35 tuổi, mô tả cuộc khủng hoảng bạo lực tình dục trong Giáo hội đã làm linh mục bàng hoàng như thế nào. Từ việc bảo vệ thể chế đến việc nghiên cứu thần học, linh mục không còn ảo tưởng nào về chức linh mục.

Bây giờ tôi ít quan tâm đến danh tiếng của Giáo hội hơn trước rất nhiều. Cách đây 4 năm, tôi không nghĩ tôi sẽ nói câu này. Tôi, linh mục mặc áo dòng, được đào tạo trong môi trường cổ điển, mong muốn truyền giáo lý công giáo với tất cả sự thật, vẻ đẹp và những đòi hỏi của giáo lý. Nhưng hôm nay tôi muốn nói một điều khác: Giáo hội sẽ là chính mình hơn khi chấp nhận chịu hổ nhục vì tội lỗi của các thành viên hơn là bảo vệ danh tiếng của mình. Tôi nợ sự thay đổi này trong hiểu biết của tôi về chức tư tế và Giáo hội nhờ vào cuộc khủng hoảng bạo lực tình dục. Xin ngược lại thời gian: tháng 10 năm 2021 khi Báo cáo Ciase được công bố, tôi mới làm phó tế được ba tháng. Lúc đó tôi không xúc động. Tôi nghĩ báo cáo đề cập đến thực tế trong quá khứ. Dù sao tôi vẫn đọc để có thể nói chuyện với giáo dân. Và có điều gì đó bắt đầu làm tôi bận tâm. Có phải tất cả những mù quáng, những rối loạn chức năng và sự đồng lõa này đều cho thấy mối quan hệ lệch lạc với quyền lực và sự thiếu thẩm quyền rõ ràng trong Giáo hội đó không? Cuối cùng tôi nhận ra những gì được mô tả nói lên rất nhiều điều về cách chúng ta giải quyết các vấn đề trong nhiều năm: mà không đối diện với chúng – dù đó là vấn đề phụng vụ, tài chính hay giáo lý.

Các nạn nhân, “những mảnh vụn của Bí tích Thánh Thể”

Một khoảnh khắc quan trọng với tôi là vụ án xâm hại tình dục trẻ em liên quan đến một linh mục tôi quen. Tôi đã dự hội thảo cùng linh mục. Một số người trong chúng tôi đã báo cáo về hành vi rất đáng lo ngại của linh mục với các người trẻ tuổi. Chúng tôi đã bị loại ra. Khi cuối cùng linh mục bị buộc tội nghiêm trọng, tôi mới biết linh mục đã thừa nhận đầy đủ về sự việc. Tôi hiểu đây không phải là quá khứ, nhưng vẫn là thực tại hiện tại của Giáo hội.

Nhưng điều thực sự làm mọi thứ thay đổi là cuộc gặp gỡ với các nạn nhân. Thường thì việc này rất tế nhị với linh mục. Chúng ta cho họ một hình ảnh nào đó về kẻ xâm lược, chúng ta buộc phải cho rằng mình có chung một điều gì đó với những kẻ đã lợi dụng Chúa Kitô. Chúng ta đang đối diện với “những mảnh vụn của Bí tích Thánh Thể”. Nhưng chúng ta cũng là nhân chứng của sự phục sinh. Điều này làm tôi buồn. Sau những buổi họp này, có những nạn nhân bắt đầu điều trị, họ kết nối lại với nhau bằng lời cầu nguyện. Điều này nói lên điều gì đó về ân sủng. Chúng ta chứng kiến nỗi kinh hoàng và bất lực, nhưng cũng chứng kiến công trình phục sinh này.

“Một số người muốn ngăn Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá”

Kinh nghiệm này đã dẫn tôi đến sự thay đổi trong hiểu biết của tôi về Giáo hội và chức tư tế. Vấn đề, theo tôi hiểu, không phải là những người muốn đóng đinh Chúa Kitô, mà là những người muốn ngăn Chúa Kitô lên thập giá – giống như Phêrô đã rút gươm ra để bảo vệ Chúa Giêsu. Giáo hội cũng có nhiệm vụ sám hối tội lỗi của các thành viên. Giáo hội sẽ trở nên chính mình khi nhấn mạnh đến tội lỗi của các thành viên hơn là khi bảo vệ danh tiếng của mình. Và tôi phải chịu một phần trách nhiệm trong việc này. Điều này được phản ánh trong phương pháp, cách định vị, cách rao giảng và cách hỗ trợ giới trẻ của tôi.

Tất nhiên, Giáo hội phải có uy tín nhất có thể để hoàn thành sứ mệnh của mình. Nhưng có một chiều kích thứ hai trở nên hiện hữu rõ nét hơn với tôi: Giáo hội được kêu gọi gánh chịu tội lỗi của thế gian, theo chân Chúa Kitô trong chiều kích đền tội. Khi Giáo hội chấp nhận bị chỉ trích vì tội lỗi của các thành viên, Giáo hội cũng làm như vậy với tư cách là thừa tác viên của Chúa Giêsu Kitô, được kêu gọi gánh chịu tội lỗi của toàn thế giới để mang đến cho thế giới Sự cứu rỗi trong Chúa Giêsu Kitô.

Sự chuyển đổi này có những hậu quả cụ thể đến cách tôi là linh mục. Ở chủng viện, chương trình đào tạo ảnh hưởng rất nhiều từ trường phái tâm linh Pháp: một cách nhìn rất anh hùng về linh mục. Tôi đã không thoải mái với điều này. Bây giờ hơn bao giờ hết, tôi chấp nhận tôi là linh mục có thể sai lầm khi phục vụ Chúa Kitô bị đóng đinh. Điều ngăn cản tôi là tôi không thể nói những gì tôi nghĩ khi tôi giảng. Tôi cố gắng phục vụ lời Chúa Kitô. Điều làm cho tôi không phải là anh hùng, đó là tôi chỉ cần nói ra một lời không phải của tôi. Lời này tôi có thể nói, dù bị tổn thương, dù không hoàn hảo.

Tại sao lại là anh ấy?

Kể từ khi Báo cáo Sauvé được công bố vào tháng 10 năm 2021, Giáo hội công giáo Pháp đã vô cùng quan ngại đến bạo lực tình dục. Ngoài các cải cách thể chế và các cuộc tranh luận cần thiết, chúng tôi muốn nói, cuộc khủng hoảng này có thể tác động cụ thể đến cuộc sống của linh mục và thay đổi cách hiểu về chức linh mục.

Linh mục Clément Barré, 35 tuổi có một hành trình đặc biệt: được đào tạo trong môi trường cổ điển và bảo thủ, được thụ phong vào thời điểm vụ bê bối nổ ra, linh mục đã trải qua sự chuyển đổi này “ngay tại thời điểm đó”. Chứng từ của linh mục cho thấy cách gặp gỡ với các nạn nhân trong Giáo hội có thể thay đổi quan điểm về chức thánh.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

YoungHoon Kim, người “thông minh nhất thế giới” tuyên bố Chúa tồn tại!

Linh mục Cunk, tuyên úy bệnh viện: “Tôi ở đó khi ngọn nến cuộc đời tắt lịm”

YoungHoon Kim, người “thông minh nhất thế giới” tuyên bố Chúa tồn tại!

YoungHoon Kim, người “thông minh nhất thế giới” tuyên bố Chúa tồn tại!

YoungHoon Kim có chỉ số IQ cao nhất thế giới, Truyền hình Arirang

aleteia.org, Bérengère Dommaigné, 2025-06-25

Anh YoungHoon Kim, 36 tuổi, người Hàn quốc có chỉ số IQ cao nhất thế giới. Anh tuyên bố trên mạng xã hội: “Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa, là đường, là sự thật và là sự sống.” Như vậy không còn nghi ngờ gì nữa!

Trang Twitter của anh có 135.000 người theo dõi. Kể từ năm 2024, chỉ số IQ 276 (vượt xa chỉ số IQ 160 của Einstein!) của anh đã được chứng nhận trong Giải vô địch trí nhớ thế giớiHội đồng thể thao trí nhớ thế giới, hợp tác với Kỷ lục Guinness thế giới nổi tiếng.

Ngày thứ ba 17 tháng 6, trên tài khoản Twitter, anh tuyên bố rõ ràng và hết sức khiêm tốn: “Là người giữ kỷ lục IQ cao nhất thế giới, tôi tin Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa, Ngài là đường, là sự thật và là sự sống.”

Có 14 triệu lượt người xem và có hàng ngàn lượt thích, anh làm rõ suy nghĩ của anh trong một loạt các câu trả lời, anh cho biết anh muốn đưa nhiều người đến với Chúa, vì “Chúa Kitô là logic của tôi. Tôi tin con người sinh ra là để biết Chúa. Đó là lý do vì sao tôi đến với Chúa qua Chúa Giêsu Kitô vì Chúa Giêsu Kitô là mặc khải cuối cùng và hoàn hảo của Chúa. Amen”.

“Cái chết không phải là kết thúc”

Cùng với các lập luận của anh, anh rất rõ ràng trên các mạng xã hội, anh khẳng định niềm tin vào cuộc sống sau khi chết, đức tin và khoa học không xung đột nhau. Anh kết luận: “Nếu thực tại là một phần của điều gì đó lớn lao hơn, thì cái chết không phải là kết thúc, mà là một chuyển tiếp, là đi đến một thực tại khác.” Với những ai còn nghi ngờ, có lẽ họ nên xem lý lịch của anh: anh có nhiều bằng cấp và danh hiệu, nhà sáng lập và giám đốc điều hành NeuroStory, được Bộ Doanh nghiệp vừa và nhỏ Khởi nghiệp của Hàn Quốc công nhận là “đơn vị đổi mới độc đáo trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe não bộ kỹ thuật số”. Anh cũng là người sáng lập và chủ tịch hội đồng quản trị Hiệp hội tình báo United Sigma, một hiệp hội phi lợi nhuận của “những bộ óc thông minh nhất thế giới”.

Trong danh sách dài các bằng cấp của anh, anh có bằng cử nhân thần học kitô giáo (phi giáo phái) của Đại học Yonsei, trường đại học tư thục đầu tiên của Châu Á. Anh nói: “Thần học là ngành học cuối cùng của mọi nghiên cứu. Đó là một trong những điều tuyệt vời nhất tôi làm trong đời.”

Marta An Nguyễn dịch

Linh mục Cunk, tuyên úy bệnh viện: “Tôi ở đó khi ngọn nến cuộc đời tắt lịm”

Linh mục Clément Barré: “Danh tiếng Giáo hội không còn quan trọng với tôi, cuộc khủng hoảng lạm dụng đã thay đổi cuộc đời tôi”

Linh mục Cunk, tuyên úy bệnh viện: “Tôi ở đó khi ngọn nến cuộc đời tắt lịm”

Linh mục Cunk, tuyên úy bệnh viện: “Tôi ở đó khi ngọn nến cuộc đời tắt lịm”

      Tatjana Splichal | Družina / Cha Anže Cunk.

fr.aleteia.org, Lojze Grčman, Ban biên tập Aleteia, 2025-01-27

Linh mục Anže Cunk, 34 tuổi, chia sẻ về sứ vụ tuyên úy tại Trung tâm Y tế Đại học Ljubljana (UMCL) ở Slovenia, nơi giao thoa giữa sự sống và cái chết, nỗi đau và niềm vui. Trung tâm được thành lập năm 1975, có 2.000 giường bệnh và hơn 8.300 nhân viên, một trong những bệnh viện lớn nhất Trung Âu. Mỗi ngày, Linh mục đi dọc các hành lang dài trong bệnh viện để thăm bệnh nhân. Không ngơi nghỉ, ngài gõ cửa, ngồi xuống nói chuyện, ban phép lành, ban bí tích cho những ai cần. Dù vất vả, cha Cunk luôn vui vẻ làm việc với tâm tình biết ơn.

Cha tâm tình: “Chúng ta đều là con người, đều mong manh, nhất là khi đối diện với sự bất lực, với cái chết. Vai trò của linh mục rất quan trọng trong những lúc này: xoa dịu bằng lời nói, cầu nguyện, bằng các bí tích. Bệnh nhân, gia đình và nhân viên y tế cảm thấy được an ủi trong lúc đau khổ. Tôi luôn đứng giữa ranh giới sự sống và cái chết.”

Mỗi tuần, cha Cunk đều dâng thánh lễ, đi thăm các phòng bệnh, xức dầu nếu bệnh nhân yêu cầu. Cha nhấn mạnh: “Tôi không có cây đũa thần. Nếu có thể giúp gì được thì tôi giúp, nhưng quan trọng là giúp người bệnh nhận ơn Chúa, hòa giải với Chúa, với chính mình và với người khác.” Gần như mỗi ngày, cha Cunk đều chứng kiến những chuyện mà cha gọi là phép lạ sau khi ban các bí tích: “Tôi thấy rõ người bệnh được chuyển biến. Tôi đã chứng kiến người bệnh hồi phục hoàn toàn sau khi rước lễ. Có lần, một ông cụ 85 tuổi, bác sĩ đã mời gia đình đến để từ biệt. Sau khi xức dầu, cha ra về. Hôm sau, điện thoại reo: bác sĩ báo cho biết bệnh nhân đã tỉnh táo, ngồi dậy trên giường. Ông bị ung thư, nhưng đã đủ sức xuất viện về nhà.”

Nguồn bình an và an ủi

Một lần khác, cha rửa tội gấp cho một trẻ sơ sinh sinh non, cha kể: “Bác sĩ cho biết em bé chỉ có thể sống thêm được một ngày. Nhưng sau khi rửa tội, em bé hồi phục dần dần và lớn lên. Bây giờ em đã về nhà khỏe mạnh, không bị di chứng gì. Cha mẹ của em thường gởi ảnh cho tôi, em bé hoàn toàn bình thường và sắp được một tuổi.”

Điều làm cha xúc động là giây phút người thân nói lời từ biệt với người sắp qua đời: “Tôi luôn đứng giữa ranh giới sự sống và cái chết. Tôi đứng ở đầu giường, chứng kiến họ chào nhau lần cuối. Thường là những chuyện sâu kín nhất, có lần tôi nghe những bí mật nặng nề: chuyện người anh giết em, con giết cha mẹ. Có cụ 90 tuổi thú nhận đã từng phá thai. Khi một số người cuối đời phải đơn độc đối diện với cái chết, tôi có mặt, tôi như người lính gác cuối cùng cho cuộc đời đang khép lại: Tôi có mặt khi ngọn nến cuộc đời tắt lịm.”

Têrêxa Trần Tuyết Hiền dịch

YoungHoon Kim, người “thông minh nhất thế giới” tuyên bố Chúa tồn tại!

Linh mục Clément Barré: “Danh tiếng Giáo hội không còn quan trọng với tôi, cuộc khủng hoảng lạm dụng đã thay đổi cuộc đời tôi”

“Chúng tôi đã mất đi một người bạn ở trần thế”

“Chúng tôi đã mất đi một người bạn ở trần thế”

americamagazine.org, Linh mục Dòng Tên Ricardo da Silva, 2025-04-25

Đức Phanxicô qua đời lúc 7:35 ngày 21 tháng 4 năm 2025. Tôi sẽ không bao giờ quên sáng thứ hai khi thức dậy tôi nghe tin này. Trong 13 năm qua, ngài không chỉ lãnh đạo Giáo hội công giáo mà còn minh định chức vụ giáo hoàng qua phong cách mục vụ của ngài: dễ gần, nhân ái, khiêm tốn. Ngài là hiện thân của một gương mẫu lãnh đạo trong tình bạn nổi bật với sự hiện diện, lắng nghe và dũng cảm thầm lặng đồng hành với những người đau khổ. Theo cách này, chức vụ giáo hoàng của ngài không chỉ là các vấn đề ưu tiên của ngài, nhưng đó là một tư thế.

Ngày thứ ba 22 tháng 4, một ngày sau khi ngài qua đời, tôi ngồi với các đồng nghiệp của tôi là bà Colleen Dulle và ông Gerard “Gerry” O’Connell để dự buổi thảo luận bàn tròn đặc biệt của “Inside the Vatican, Bên trong Vatican”, chương trình podcast hàng tuần chúng tôi cùng nhau sản xuất. Trong nhiều năm qua, chúng tôi đã sàng lọc các thông điệp, theo dõi diễn biến của Thượng hội đồng, phân tích các bổ nhiệm của Giáo hoàng tại Vatican và trên khắp thế giới. Năm ngoái, ba chúng tôi đến Rôma để dự Thượng hội đồng về tính đồng nghị. Nhưng lần này thì khác. Chúng tôi không phân tích. Chúng tôi đau buồn ngồi với nhau, micro vẫn bật.

Gerry, phóng viên kỳ cựu của chúng tôi tại Vatican, đã biết ngài từ những ngày ngài còn là Tổng giám mục ở Buenos Aires. Ông và vợ là bà Elisabetta Piqué đặc phái viên Vatican của báo La Nación và là tác giả quyển Giáo hoàng Phanxicô: Cuộc đời và Cách mạng (Pape François: Vie et Révolution), họ là những người bạn thân thiết của giáo hoàng tương lai, ngài đã rửa tội cho các con của họ, Juan Pablo và Carolina. Hai vợ chồng đã có mặt ở Quảng trường Thánh Phêrô đêm ngài được bầu, chứng kiến khi ngài ở ban-công lần đầu tiên. Họ đã đến thăm bạn giáo hoàng của họ ở Nhà Thánh Marta, nơi ngài ở và qua đời. Sau đó Gerry viết câu chuyện về cuộc bầu cử của ngài: Cuộc bầu chọn Giáo hoàng Phanxicô (The Election of Pope Francis).

Còn bà Colleen, bà đã đưa tin về Vatican trong hơn một thập kỷ đặc biệt là cách ngài mở ra cánh cửa cho phụ nữ và giáo dân. Bà sắp xuất bản quyển sách về triều giáo hoàng và tình yêu Giáo hội của ngài, bà gặp chúng tôi ngay sau khi Gerry đi viếng thi hài của ngài ở Nhà nguyện Thánh Marta về, nơi gia đình ông đã nhiều lần đến dự thánh lễ ngài dâng.

Tôi chưa bao giờ gặp Đức Phanxicô ngoài đời, dù tôi có đi dự Ngày Thế Giới Trẻ ở Lisbon năm ngoái. Điều đọng lại trong ký ức của tôi không phải là cuộc trò chuyện hay một cái bắt tay, nhưng là khoảnh khắc ngài  rạng rỡ hô to “Tất cả, tất cả, tất cả!” với hàng triệu giáo dân ở Lisbon. Tất cả đều phải được chào đón. Niềm vui của ngài không thể nhầm lẫn. Cảm giác như ngài đang hé mở tâm hồn – một tâm hồn đã chứng kiến nhiều đau khổ nhưng vẫn kiên trì hy vọng.

“Chúng tôi đã mất một người bạn ở trần thế, nhưng chúng tôi có được một người bạn trên thiên đàng”, Gerard O’Connell.

Những gì tôi viết ở đây không phải là cáo phó, Gerry và Colleen đã viết cáo phó của họ. Đây là suy tư mật thiết: một ký ức về những cử chỉ, lời nói và khoảnh khắc đã dấy lên trong lòng chúng ta. Đó không phải là những điều duy nhất quan trọng, nhưng là những điều còn ở trong lòng chúng ta khi ngài qua đời.

Cha xứ của thế giới

Ngay từ đầu, ngài đã đảo ngược mọi chuyện về chức giáo hoàng. Tác giả Gerry nhớ lại: “Ngay đêm đầu tiên, ngài đã cúi chào mọi người, xin giáo dân chúc phúc và cầu nguyện cho ngài trước khi ngài chúc phúc cho họ, trong lịch sử chưa có giáo hoàng nào làm như vậy.”

Điều này đã tạo nên nét mới cho triều giáo hoàng dựa trên đồng hành của ngài, Tác giả Gerry giải thích: “Ngài nói đôi khi nhà lãnh đạo phải đi trước, đôi khi đi sau, đôi khi đi giữa giáo dân, nhưng luôn ở cùng giáo dân, không phải ở ngoài giáo dân.”

Đức Phanxicô đã đi 47 chuyến tông du đến 67 quốc gia. “Ngài không chỉ đến thăm các nguyên thủ quốc gia – ngài phải làm như vậy – nhưng đặc biệt ngài ở giữa dân chúng”.

Ngày chúa nhật lễ Phục sinh, một ngày trước khi qua đời, ngài đã ra ban-công Đền thờ Thánh Phêrô để ban phép lành Urbi et Orbi cuối cùng. Quá yếu để tự đọc thông điệp, ngài nhờ cộng sự của ngài đọc.

Sau đó ngài đi một vòng cuối cùng Quảng trường Thánh Phêrô trên xe giáo hoàng. Ông Gerry nhớ lại: “Đó là hình ảnh cuối cùng của tôi có về ngài. Ngài đi giữa giáo dân.”

Một chức thánh của cử chỉ

Đức Phanxicô là giáo hoàng của hành động, của những cử chỉ tự phát, mạnh hơn những bài phát biểu của ngài. “Giáo dân đến Rôma để gặp Đức Gioan-Phaolô II, để lắng nghe Đức Bênêđíctô XVI nhưng họ đến Rôma để chạm vào Đức Phanxicô”, ông Hendro Munstermann, một đồng nghiệp và phóng viên Vatican đến từ Hà Lan chia sẻ với bà Colleen.

“Ngài tin chắc nịch ý tưởng: hành động có sức mạnh hơn lời nói. Hãy để tôi ở giữa mọi người. Hãy để tôi gần gũi với mọi người.”

Đó không chỉ là lời nói, Đức Phanxicô đã sống với lời này. Ngài ôm người bị bệnh ngoài da, rửa chân cho các tù nhân, cả những tù nhân hồi giáo và phụ nữ, ngài quỳ xuống hôn chân các nhà lãnh đạo Nam-Soudan để xin họ mang lại hòa bình cho người dân: những hành vi tự phát này đã là những lời nói hùng hồn của một đức tin trong hành động: “Mở lòng ra với Chúa Thánh Thần và các cảm nghiệm của Ngài.”

Tác giả Gerry nhắc: “Thông điệp cuối cùng của ngài ở ban-công ngày chúa nhật Phục sinh: xin ngừng giết nhau, xin thả con tin, xin giúp đỡ những người đang chết đói. Hòa bình ở Ukraine, hòa bình ở Cộng hòa Dân chủ Công-gô, ở Sudan, ở Myanmar.” Từ đầu đến cuối, Đức Phanxicô là giáo hoàng của hòa bình, và cuối cùng, khi ngài đã rất yếu, ngài vẫn bảo vệ cho sứ mệnh này. Sẵn lòng để lộ yếu đuối của mình trước công chúng nói lên nhiều điều hơn lời nói: một lời chứng cuối cùng cho hòa bình và lòng thương xót.

“Chương trình nghị sự ẩn giấu” của Đức Phanxicô

Dù ngài là một trong những giáo hoàng được nhìn thấy nhiều nhất trong lịch sử hiện đại, nhưng phần lớn sứ vụ của ngài ở xa các máy quay phim và các tít lớn trên báo chí.

Tác giả Gerry giải thích: “Ngài có một chương trình nghị sự chính thức nhưng ít người thấy các sinh hoạt của ngài buổi chiều – một chương trình nghị sự riêng của ngài. Một thế giới hoàn toàn mới của lòng trắc ẩn, của tình yêu, của can đảm, của những chuyện ngoại thường vẫn còn ẩn giấu khỏi thế giới.”

Thế giới ẩn giấu đó không phải là mới. Ông Gerry nhớ lại: “Cũng như khi ngài là tu sĩ Dòng Tên ở Argentina: Ngài đã nhiều lần liều mạng sống của mình để cứu người dân sống dưới chế độ độc tài quân sự.”

Và trong một cử chỉ khiêm nhường cuối cùng: “Khi được bầu làm giáo hoàng, ngày hôm sau ngài đến khách sạn để trả tiền. Và bây giờ, khi ngài qua đời, chúng tôi biết Vatican không trả chi phí tang lễ, nhưng một nhà hảo tâm sẽ trả. Đó là phong cách xưa cũ của ngài, từ đầu đến cuối.”

Một ngôi mộ đơn giản, di sản lâu dài của ngài

Đức Phanxicô sẽ không chôn ở Đền thờ Thánh Phêrô như các giáo hoàng khác nhưng ở đền thờ Đức Bà Cả, nơi ngài thường đến cầu nguyện ngay cả trong thời gian lâm bệnh cuối cùng. Ông Colleen cho biết: “Quý vị sẽ không xếp hàng ở Vatican để thấy ngài. Bây giờ quý vị phải qua xếp hàng ở đền thờ Đức Bà Cả.”

Theo phong cách đơn sơ thường thấy của ngài, ngài xin chỉ ghi một chữ Franciscus trên mộ. Bà Colleen nói: “Không phải vì ngài nhưng vì tình anh em, về tình yêu và lòng thương xót của Chúa.” Ngài đơn giản hóa các nghi thức tang lễ giáo hoàng – một cử chỉ khác hướng đến những điều vượt ra ngoài bản thân ngài. Bà nói thêm: “Tôi nghĩ điều này là để giữ ký ức về ngài: sống và làm việc vì những điều này, nơi an nghỉ cuối cùng của ngài sẽ không ở Vatican nhưng ở Rôma – giữa mọi người. Thật phù hợp khi ngài nằm gần biểu tượng Salus Populi Romani, “gần với lời cầu nguyện của mọi người và cách mọi người cầu nguyện.”

“Tất cả, tất cả, tất cả”

Cuối buổi nói chuyện, tôi nhận ra còn bao nhiêu chuyện chưa được nói ra và chưa được suy ngẫm – cải cách giáo triều của ngài, bổ nhiệm phụ nữ vào những vị trí cao cấp nhất ở Vatican, sự thay đổi từ việc thực thi giáo lý sang thực hành mục vụ, tầm nhìn táo bạo nhưng đầy tranh cãi của ngài về một Giáo hội lắng nghe, theo tinh thần công đồng và sự tiếp cận mang tính bước ngoặt của ngài với người công giáo L.G.B.T.Q. và các nạn nhân bị giáo sĩ lạm dụng tình dục. Ông Gerry nói: “Ngài đã bắt đầu các tiến trình, người kế nhiệm phải tiếp tục.”

Những tưởng nhớ này không bao giờ là đầy đủ. Đây chỉ đơn giản là những ký ức xuất hiện đầu tiên, không phải vì chúng là những ký ức duy nhất quan trọng, mà vì chúng là những ký ức gần gũi nhất với trái tim chúng tôi.

Dù tôi chưa bao giờ gặp ngài, giống như nhiều người khác, tôi cảm thấy như thể tôi biết ngài – sự gần gũi, niềm vui, lòng can đảm và sự khích lệ thầm lặng của ngài.

Đức Phanxicô không đưa ra những câu trả lời dễ dàng hay kết luận bao quát và ngài đã làm cho một số người không hài lòng. Nhưng thay vào đó ngài mời gọi Giáo hội suy ngẫm và phân định điềm tĩnh hơn – được hình thành qua lòng thương xót, đối thoại và can đảm vững vàng để tiếp tục, ngay cả khi con đường không rõ ràng.

Cuối cùng, ngài để lại cho chúng ta cùng một lời mời mà ngài đã gởi đến các bạn trẻ ở Ngày Thế Giới Trẻ ở Lisbon:

Todos, todos, todos. Tất cả, tất cả, tất cả.

Với những lời nói này, ngài mở toang cánh cửa nhà thờ và bước ra để đến với thế giới.

Ricardo da Silva, S.J.

Linh mục Dòng Tên Ricardo da Silva là biên tập viên cộng tác của America Media, người dẫn chương trình podcast “Preach.”

Marta An Nguyễn dịch

Đức Phanxicô là Giáo hoàng ngôn sứ, ngài không để lại nhiều chỗ cho các ngôn sứ khác

“Donald Trump, Đức Lêô: hòa bình trong một thế giới hoang dã”

“Donald Trump, Đức Lêô: hòa bình trong một thế giới hoang dã”

“Donald Trump, Đức Lêô: hòa bình trong một thế giới hoang dã”

lefigaro.fr, Nicolas Baverez, 2025-05-25

Tổng thống Mỹ và Đức Lêô có những ý tưởng hoàn toàn trái ngược nhau về hòa bình: với Donald Trump, hòa bình được xây dựa trên lợi ích và thỏa thuận giữa các nhà lãnh đạo, còn với Đức Lêô hòa bình dựa trên các giá trị và sự hòa giải.

Đối diện với tình trạng bạo lực ngoài tầm kiểm soát và những rủi ro nhân loại phải gánh chịu, hai nhà lãnh đạo Donald Trump và Đức Lêô XIV có cái nhìn toàn cầu về hòa bình theo trọng tâm hành động của họ. Cả hai đều là công dân Mỹ phản đối chiến tranh, đã đề nghị làm trung gian, đặc biệt giữa Nga và Ukraine hoặc giữa Israel, người Palestine và các nước Ả Rập. Cả hai đều nhấn mạnh đến các rủi ro chiến tranh toàn diện, mà công nghệ số mang đến chiều hướng khải huyền. Nhưng mọi thứ đều ngược nhau giữa Tổng thống Hoa Kỳ và Giáo hoàng. Quan niệm và cách tiếp cận hòa bình của họ đối lập nhau: với Donald Trump, hòa bình thông qua lợi ích và thỏa thuận giữa các nhà lãnh đạo; với Đức Lêô, hòa bình thông qua các giá trị và hòa giải giữa các dân tộc.

Trong thời của các đế chế và của các nhà độc tài, Donald Trump như người lính cứu hỏa mắc chứng đốt phá. Quan điểm của ông về hòa bình kết hợp chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa vật chất. Một mặt, liên kết với các đế chế, những đế chế tuyên bố một trật tự hậu phương Tây dựa trên sự cùng tồn tại của các chế độ chuyên chế với các khu vực ảnh hưởng được duy trì bằng vũ lực và áp bức. Mặt khác, là cách tiếp cận thực tế, mang tính giao dịch chỉ dựa trên lợi ích kinh tế và việc chiếm đoạt tài nguyên, bác bỏ mọi gắn kết với các giá trị như tôn trọng chủ quyền và biên giới của các quốc gia, bảo vệ tự do chính trị, bảo vệ nhân quyền. Phù hợp với lý thuyết về sự xung đột giữa các nền văn minh do Samuel Huntington đưa ra, Donald Trump có ý định ủng hộ quyền lực đế quốc của Hoa Kỳ, trải dài từ Panama đến Bắc Cực, không còn dân chủ nhưng dựa vào sức ảnh hưởng lớn của Hoa Kỳ trong việc tài trợ cho Giáo hội, với biến thể dựa trên bản sắc công giáo, giống như Trung Quốc của Tập Cận Bình với Chủ nghĩa Mao, nước Nga của Putin với Chính thống giáo, Ấn Độ của Modi với Ấn Độ giáo, Thổ Nhĩ Kỳ của Erdogan với Hồi giáo Sunni.

Vào đúng ngày bầu cử 8 tháng 5 năm 2025, Đức Lêô XIV đặt triều của ngài dưới dấu hiệu kêu gọi hòa bình, “một hòa bình không vũ trang, một hòa bình giải trừ vũ khí, khiêm nhường, bền bỉ và cái ác sẽ không thắng thế”. Với ngài, hòa bình không chỉ đơn thuần không có chiến tranh nhưng là trạng thái đối thoại và hợp tác ổn định giữa các quốc gia. Đức tin không phải là công cụ quyền lực hay khẳng định bản sắc nhưng là cầu nối với người khác. Đi theo bước chân Đức Phaolô VI và Đức Gioan Phaolô II, ngài quan niệm hệ thống quốc tế như một gia đình của các quốc gia, tất cả đều khác nhau nhưng đều thuộc về một nhân loại. Mặt khác, nó đánh dấu một khác biệt với Đức Phanxicô. Về bản chất, Đức Lêô XIV tách mình ra khỏi chủ nghĩa tương đối của Đức Phanxicô, ngài đặt kẻ xâm lược và người bị tấn công ngang hàng và lên án chiến tranh, ngay cả chiến tranh chính nghĩa, kêu gọi “một nền hòa bình thực sự, công bằng và lâu dài cho Ukraine”. Về hình thức, ngài triển khai một chính sách ngoại giao nhất quán nhằm xây dựng lại trật tự quốc tế ổn định, khác xa với các sáng kiến ngẫu hứng và khuynh hướng thù nghịch  phương Tây của Đức Phanxicô.

Sẽ thiếu nhất quán khi cố gắng đưa ra phán quyết về hành động của Donald Trump và của Đức Lêô nhằm phục vụ hòa bình, chỉ vài tuần hoặc vài ngày sau khi nhậm chức. Tuy nhiên, một nghịch lý xuất hiện: đạo đức trách nhiệm và đạo đức nhất quán trong niềm tin của Đức Lêô, trong khi ngoại giao của Donald Trump không đạt được kết quả do thiếu nhất quán, thiếu linh hoạt và không mang tính chuyên nghiệp.

Khi khẳng định tính ưu việt của hiệu quả trong hành động hơn là nguyên tắc và phô trương khả năng đưa ra quyết định của mình, Donald Trump vẫn chưa đạt được tiến triển nào trong các cuộc xung đột lớn. Chính quyền của ông chắc chắn đã đóng vai trò hữu ích trong việc giảm căng thẳng giữa Ấn Độ và Pakistan, lệnh ngừng bắn với lực lượng Houthi hoặc vai trò trung gian giữa Cộng hòa Dân chủ Congo và Rwanda. Nhưng các cuộc đàm phán được tiến hành với Iran để quay lại thỏa thuận năm 2015 mà đất nước này đã lên án năm 2018 đang bị đình trệ. Trên hết, hòa bình vẫn chưa được tiến triển ở Ukraine hay Trung Đông. Tệ hơn, Donald Trump, thay vì tách Matxcơva khỏi Bắc Kinh, lại hợp thức hóa các yêu cầu và lập trường trì hoãn của Vladimir Putin, trao cho ông toàn quyền không chỉ leo thang chiến tranh ở Ukraine mà còn lên kế hoạch cho các cuộc xâm lược mới ở châu Âu, lợi dụng việc Mỹ rút quân và NATO suy yếu. Ở Trung Đông, ông trao toàn quyền cho Thủ tướng Do thái Benjamin Netanyahu, ủng hộ dự án chiếm đóng quân sự và lệnh phong tỏa nhân đạo vô lý ở Gaza, đang biến Israel thành quốc gia bị ruồng bỏ.

Chính sách ngoại giao của Donald Trump chắc chắn sẽ thất bại vì dựa trên tầm nhìn và phương pháp sai lầm. Chiến lược gây hỗn loạn và làm mất ổn định có hệ thống các thể chế, thương mại và thanh toán toàn cầu không tạo điều kiện cho hòa bình mà còn mở ra không gian rộng lớn cho bạo lực. Việc tối đa hóa sự giàu có và an ninh ở một quốc gia, không màng đến lợi ích chung sẽ làm tăng nguy cơ xung đột. Việc xoa dịu Nga, một chế độ dựa trên chiến tranh liên miên cả trong và ngoài nước, cùng với việc xác nhận các kế hoạch mở rộng lãnh thổ và chinh phục quân sự của các đế chế đã thúc đẩy cuộc chạy đua hướng tới chiến tranh toàn diện. Việc phá vỡ các liên minh chiến lược, sự đảo ngược liên tục và bản chất nửa vời trong chính sách ngoại giao của Donald Trump đang mang lại lợi ích cho các chế độ chuyên chế của thế kỷ 21.

Giải trừ động lực của nỗi sợ hãi

Đức Lêô XIV tóm tắt tầm nhìn của ngài: hiệp nhất nội tâm, hòa hợp trong Giáo hội, hòa bình giữa các dân tộc. Dù không có quyền lực, ngài đã phác thảo các nguyên tắc liên quan để giải trừ động lực của sợ hãi, của thù hận và bạo lực đang lan rộng trên hành tinh, củng cố hy vọng mong manh về hòa hoãn như chúng ta thấy ở Ấn Độ và Pakistan, ở Trung Đông và Châu Phi.

Trước hết, ngài nhắc lại chiến tranh là hiện tượng chính trị chứ không phải kinh tế, điều này làm cho việc tìm kiếm hòa bình qua sự làm giàu cá nhân của các nhà lãnh đạo trở nên viển vông như các hiệp định thương mại hoặc luật pháp. Ngài nhấn mạnh: không thể có hòa bình lâu dài nếu không có trật tự quốc tế, hòa bình đòi hỏi phải tái thiết một hệ thống đa phương, bác bỏ thỏa thuận giữa các đế chế, điều chắc chắn sẽ dẫn đến xung đột. Cuối cùng, ngài khẳng định, theo Thánh Augustinô đã viết trong tác phẩm Soliloquies: “Những vương quốc không có công lý chỉ là những hoạt động cướp bóc. Không thể có hòa bình nếu không có công lý, không có quyền lực hợp pháp và không có phẩm giá con người.” Trong tác phẩm này, ngài hoàn toàn kế thừa di sản của Đức Lêô XIII, dung hòa lòng trung thành với học thuyết Giáo hội và cam kết giải quyết vấn đề to lớn của con người thời đại chúng ta: chủ nghĩa cực đoan và phát tán bạo lực.

Chính sách ngoại giao của Donald Trump chắc chắn sẽ thất bại vì dựa trên tầm nhìn và phương pháp sai lầm. Chiến lược gây hỗn loạn và làm mất ổn định có hệ thống các thể chế, thương mại và thanh toán toàn cầu không tạo điều kiện cho hòa bình mà còn mở ra không gian rộng lớn cho bạo lực. Việc tối đa hóa sự giàu có và an ninh ở một quốc gia mà không màng đến lợi ích chung sẽ làm tăng nguy cơ xung đột. Việc xoa dịu Nga, một chế độ dựa trên chiến tranh liên miên cả trong và ngoài nước, cùng với việc xác nhận các kế hoạch mở rộng lãnh thổ và chinh phục quân sự của các đế chế đã thúc đẩy cuộc chạy đua hướng tới chiến tranh toàn diện. Việc phá vỡ các liên minh chiến lược, sự đảo ngược liên tục và bản chất nửa vời trong chính sách ngoại giao của Donald Trump đang mang lại lợi ích cho các chế độ chuyên chế của thế kỷ 21.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Đức Phanxicô là Giáo hoàng ngôn sứ, ngài không để lại nhiều chỗ cho các ngôn sứ khác

“Chúng tôi đã mất đi một người bạn ở trần thế”

Đức Phanxicô là Giáo hoàng ngôn sứ, ngài không để lại nhiều chỗ cho các ngôn sứ khác

Đức Phanxicô là Giáo hoàng ngôn sứ, ngài không để lại nhiều chỗ cho các ngôn sứ khác

nd.nl/geloof/katholiek, Hendro Munsterman, 2025-06-20

Vậy Đức Lêô là cấp tiến, bảo thủ hay trung dung? Có lẽ những thuật ngữ này không phù hợp với ngài, đó là những thuật ngữ trong Kinh thánh dành cho vua và các nhà tiên tri.

Đức Phanxicô trong một bài giảng năm 2015. Ảnh: ANP

Trong Giáo hội, chúng ta thích dán nhãn lên mọi thứ. Các thuật ngữ trái ngược nhau như “tiến bộ và bảo thủ” được dùng để chỉ định hai phái mà Giáo hội bị cho là có!

Đôi khi Giáo hội còn bị dính với các thuật ngữ chính trị như “tả và hữu” nhưng không đúng với thực tế. Đó là đơn giản hóa thực tế và chúng ta không tránh được việc phải giải thích những căng thẳng và diễn biến.

Hồng y người Đức Walter Kasper đã từng nói về Đức Phanxicô: “Ngài không phải là người tiến bộ hay bảo thủ, ngài là người cấp tiến,” khi nói “cấp tiến”, Hồng y muốn nói Đức Phanxicô đã quay về với gốc rễ trong tiếng la-tinh của Phúc âm.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

“Donald Trump, Đức Lêô: hòa bình trong một thế giới hoang dã”

“Chúng tôi đã mất đi một người bạn ở trần thế”

Bài mới nhất