Home Blog Page 21

Đức Lêô XIV: Quản lý kỷ nguyên hậu-Phanxicô, giữa đột phá phong cách và tiếp nối huấn quyền

Đức Lêô XIV: Quản lý kỷ nguyên hậu-Phanxicô, giữa đột phá phong cách và tiếp nối huấn quyền

la-croix.com, Anna Kurian, I.Media, 2025-08-14

Một trong những chuyến đi đầu tiên của Đức Lêô: ngài đến “Borgo Laudato si’”, phòng thí nghiệm sinh thái của Vatican nằm trong khuôn viên Castel Gandolfo, phía đông nam Rome. Christian Gennari / AFP

Sau khi được bầu, Đức Lêô XIV kế thừa một Giáo hội mang dấu ấn “Cuộc Cách mạng Phanxicô”, ngài phải đảm nhiệm các dự án lớn còn bỏ ngỏ – công đồng, cải cách Giáo triều Rôma, v.v. nhưng cùng lúc ngài khẳng định phong cách riêng của ngài. Giữa những hành vi phá vỡ và tính liên tục của giáo quyền, những bước đi đầu tiên của ngài cho thấy ngài thận trọng, nhưng điểm mấu chốt vẫn chưa được thấy.

Ngay từ đầu, ngài đã thể hiện một phong cách khác biệt so với người tiền nhiệm: ngài mặc áo mozzetta – chiếc áo choàng phụng vụ nhỏ màu đỏ – trên ban-công Đền thờ Thánh Phêrô; ngài thông báo với các nhân viên Vatican ngài tiếp tục truyền thống “thưởng nhân viên mỗi khi tân giáo hoàng được bầu”; ngài về nghỉ hè ở Dinh Castel Gandolfo và ở nơi cư trú của giáo hoàng… Theo các quan sát viên, ngài “khôi phục” lại một số việc mà Đức Phanxicô đã “xóa bỏ”.

Nhưng đằng sau sự khôi phục này, Đức Lêô đã áp dụng một số đường nét chính của Đức Phanxicô. Linh mục người Pháp Patrick Valdrini sống tại Rôma, chuyên gia giáo luật nhấn mạnh: “Các giáo hoàng luôn liên kết hành động và giáo huấn của các ngài với các vị tiền nhiệm đã nói và đã làm, thể hiện tính liên tục của cộng đồng đức tin sống động trong lịch sử.”                                                                              

Hòa bình và Khí hậu: hai trọng tâm quan trọng

Linh mục Valdrini, người am hiểu sâu sắc về Tòa Thánh, giải thích: “Giáo huấn của Đức Phanxicô chủ yếu liên quan đến mối quan hệ của Giáo hội với thế giới, cập nhật Hiến chế Vui mừng và Hy vọng của Công đồng Vatican II, nhằm đáp ứng sự thay đổi sâu sắc và liên tục của các mối quan hệ trong các xã hội quốc gia và quốc tế. Đức Lêô cũng đi theo hướng này, ngài liên tục kêu gọi hòa bình thế giới và tiếp nhận người nhập cư.”

Đức Lêô, người Mỹ gốc Peru thể hiện mạnh mẽ xu hướng sinh thái, ngài theo bước chân người tiền nhiệm, tác giả của Thông điệp Laudato si’ nổi tiếng năm 2015. Vì thế một trong các chuyến đi đầu tiên của ngài là đến “Borgo Laudato si’”, phòng thí nghiệm sinh thái của Vatican ở Castel Gandolfo, phía đông nam Rôma. Như đã được đưa ra trong ý chỉ của “thánh lễ cầu nguyện cho người nghèo” ngài sẽ cử hành ngày chúa nhật 17 tháng 8, ngài mong muốn duy trì ưu tiên cho công bằng xã hội và bảo vệ môi trường của triều Đức Phanxicô. Linh mục Valdrini nhấn mạnh: “Nhưng có các lãnh vực quan trọng ngài chưa đề cập đến, đặc biệt các chủ đề của Tông huấn Amoris Laetitia (2016) – đề cập đến gia đình, đạo đức sinh học, và tình trạng của các cặp vợ chồng ly hôn và tái hôn dân sự.”

Những câu hỏi của Tính đồng nghị

Một lãnh vực khác Đức Lêô kế thừa công việc của Đức Phanxicô: Tính đồng nghị, một dự án toàn cầu lớn được bắt đầu năm 2021 để giúp Giáo hội công giáo có sự tham gia của giáo dân nhiều hơn và ít giáo sĩ hơn. Ngài nhấn mạnh trước các giám mục Ý ngày 17 tháng 6: “Tính công đồng phải trở thành một tư duy, trong trái tim, trong các quá trình ra quyết định, trong các phương thức hành động.” Đức Lêô thường dùng các thuật ngữ này trong các bài phát biểu, khi ngài gặp những người tổ chức Thượng Hội đồng vào tháng 6. Thể hiện sự tiếp thu “phương pháp” này, chủ trương lắng nghe tất cả mọi người, ngài đã thành lập hai nhóm làm việc mới – ngoài 10 nhóm hiện có – về các chủ đề tế nhị: phụng vụ và tình trạng của các Hội đồng Giám mục.

Chữa lành vết thương

Nhưng vẫn còn nhiều điều chưa biết. Cụ thể, ngài không bình luận về các chủ đề gây tranh cãi khác nhau được các nhóm nghiên cứu đề cập (chia sẻ quyền quản trị giữa giáo dân và giáo sĩ, quyền tiếp cận chức phó tế của phụ nữ, vai trò của các sứ thần tòa thánh, v.v.). Đức Lêô XIV rõ ràng muốn dành thời gian trước khi tiếp tục các vấn đề này: việc công bố báo cáo của các nhóm nghiên cứu, dự kiến vào tháng 6 đã hoãn lại đến cuối năm dương lịch.

Trong khi tiền nhiệm của ngài tuyên bố rõ ràng ngài không sợ xung đột và căng thẳng, xem đó là những yếu tố thiết yếu cho đời sống xã hội và Giáo hội, Đức Lêô XIV thể hiện phong cách hòa giải hơn. Vì thế ngài quan tâm đến việc chữa lành vết thương, đặc biệt ngài an ủi các linh mục ở Rôma, họ đã bị Đức Phanxicô đối xử không tốt. Một trong những ưu tiên của Đức Lêô là tránh phân cực và duy trì sự hiệp nhất trong Giáo hội – một chủ đề được nhắc lại ba lần trong bài phát biểu đầu tiên của ngài.

Bài diễn văn công khai và khẩu hiệu của ngài: “In illo uno unum, Trong Đấng Duy nhất, chúng ta hãy nên một.”

Về nội bộ, việc cải cách Giáo triều là một dấu hiệu khác cho thấy phong cách đồng bộ. Trong cuộc gặp đầu tiên với các nhân viên ngày 24 tháng 5, sau khi ngài được bầu, ngài đã nói câu gây nhiều tranh cãi: “Giáo hoàng đến rồi đi, Giáo triều vẫn ở lại” trước sự hoan nghênh của các nhân viên. Sau khi Đức Phanxicô, ngài quen với việc chỉ trích thường xuyên, ngài đã gieo chia rẽ và cay đắng trong hàng ngũ nhân viên, lời động viên này cho thấy Đức Lêô muốn tham dự sâu rộng hơn vào bộ máy hành chính, thiết lập một sự thay đổi đáng kể.

Cũng vậy, ngài gặp các hồng y hai ngày sau khi đắc cử, ngài xin họ “chia sẻ” và mong muốn được nghe “lời khuyên, gợi ý, đề xuất những điều rất cụ thể” của họ. Tuy nhiên, Đức Lêô mong muốn tiếp nối cuộc cải cách của Đức Phanxicô, đã dẫn đến một Tông hiến mới cho Giáo triều Rôma năm 2022. Một linh mục cho biết: “Việc thực thi văn kiện Tông hiến Anh em hãy rao giảng Tin Mừng Praedicate Evangelium sẽ rất tế nhị và tạo nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời. Chúng ta phải chờ các cuộc bổ nhiệm sắp tới để thấy định hướng của Đức Lêô.”

Một phong cách giáo hoàng chưa được khám phá

Rõ ràng đã có một thay đổi về phong cách khi Đức Lêô XIV lên ngôi Thánh Phêrô. Sau một Giáo hoàng rất dễ tiếp cận và thân thiện với truyền thông, dường như Đức Lêô chuyển qua triều giáo hoàng ít công khai hơn. Hồng y Jean-Paul Vesco, Tổng Giám mục Algiers cho biết: “Khi bắt đầu triều của ngài, Đức Phanxicô đã thiết lập nhiều biểu tượng. Đức Lêô XIV thiết lập biểu tượng của sự hiện diện hòa bình. Nhưng vẫn còn quá sớm để so sánh phong cách của Đức Phanxicô và Đức Lêô. Việc thực thi chức vụ giáo hoàng có thể bị ảnh hưởng bởi tính cách của từng giáo hoàng, một thay đổi cần thiết trong cách thực thi chức vụ trong thời kỹ thuật số, sẽ tạo ra một chuyển đổi trong cách mọi người tương tác với nhau.”

Dù Đức Lêô phải tiếp quản, kế thừa di sản của Đức Phanxicô và đưa ra những lựa chọn tinh tế, nhưng hiện tại rất khó để xác định hướng đi của ngài. Một nguồn tin của Vatican cho biết: “Không ai có thể thực sự trả lời vì cho đến nay ngài rất kín tiếng. Ngay cả Phủ Quốc vụ khanh cũng đang tìm cách hiểu rõ hơn suy nghĩ của ngài. Họ vẫn chưa biết rõ đường lối của chính họ.”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

100 ngày đầu tiên của Đức Lêô

Hồng y Jean-Paul Vesco: “Đức Lêô rao giảng hòa bình do bản chất của ngài, ngài không tính toán”

Hồng y Jean-Paul Vesco: “Đức Lêô rao giảng hòa bình do bản chất của ngài, ngài không tính toán”

Hồng y Jean-Paul Vesco: “Đức Lêô rao giảng hòa bình do bản chất của ngài, ngài không tính toán”

cath.ch, I.Media, 2025-08-15

Hồng y Jean-Paul Vesco cho biết ngài rất ấn tượng trước khả năng Đức Lêô hiện thực hóa lập tức chức vụ của ngài | © Bernard Hallet

Hồng y Jean-Paul Vesco cho biết ngài rất ấn tượng trước “sự bình thản đến khó tin” của Đức Lêô khi nhậm chức, phong cách tạo biểu tượng của một hiện diện hòa bình sau triều tiên tri của Đức Phanxicô.

Hồng y Jean-Paul Vesco, Tổng Giám mục Algiers hy vọng một ngày nào đó ngài sẽ đi thăm Algeria, ngài đã hai lần đến vùng đất của Thánh Augustinô, ngài luôn mang trong tâm hồn ký ức về các vị tử đạo của Algeria.

Ngày 8 tháng 5, cha cho chúng tôi biết cha đã dự mật nghị bầu một “Giáo hoàng rất tốt”, cha đánh giá thế nào về 100 ngày đầu tiên của Đức Lêô XIV?

Hồng y Jean-Paul Vesco: Tối bầu cử, tôi cảm nhận một niềm vui lớn lao. Tôi biết chúng tôi đã bầu được Giáo hoàng mà Chúa đã chỉ định trước cho Giáo hội của Ngài. Tôi nghĩ: “Tôi không biết các quyết định Đức Lêô sẽ đưa ra, tôi không biết liệu tôi có luôn đồng ý với các quyết định này hay không, nhưng tôi sẽ không bao giờ nghi ngờ sự thật, ngài là người Chúa đã chọn.” Niềm tin sâu sắc này của tôi được củng cố mỗi ngày.

Điều gì tạo ấn tượng cho cha qua những bước đi đầu tiên của ngài?

Tôi đặc biệt ấn tượng về mức độ chuẩn bị và khả năng đảm nhận lập tức chức vụ của ngài. Ngài là người ở “bậc cao”. Điều này khá đáng chú ý trong sự nghiệp của ngài. Khi còn là tu sĩ Dòng Âugustinô trẻ ở Hoa Kỳ, ngài đã đi Peru và khám phá một thế giới mới. Sau này, khi là Bề trên Tổng quyền Dòng Âugustinô, một dòng tu toàn cầu, ngài đã đạt được một cột mốc mới. Là Giám mục Chiclayo năm 2015, chỉ 7 năm sau ngài được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Giám mục. Ở cương vị này, ngài nhanh chóng thiết lập được quyền lực trong Giáo triều. Ba năm sau, ngài là Giáo hoàng. Người giản dị này đã thăng tiến trong hàng ngũ với sự bình tĩnh đến khó tin và nụ cười rạng rỡ của một Giáo hoàng.

Tôi phải thú nhận, trong mật nghị, khi tôi nghĩ về các ứng viên trong số các hồng y, tôi đã hình dung họ trước hàng triệu người trẻ. Mùa hè này, Đức Lêô đã đạt cột mốc mới, khi ngài thành công trong cuộc gặp với hàng trăm ngàn người trẻ về Rôma dự Năm Thánh.

“Chúng ta đã thấy: ngài không phải là Giáo hoàng của một phe phái.”

Sự bình tĩnh này có làm cha ngạc nhiên không?

Không. Trước mắt chúng tôi, ngài là người như chúng tôi đã biết trước đây. Ngài được biết đến là con người của hòa bình, ngài rao giảng hòa bình bằng bản chất của ngài, ngài không tính toán. Ngài không phải là tư tưởng gia hay người hùng của những nhạy cảm trong giáo hội. Một trăm ngày sau khi được bầu, chúng tôi thấy: ngài không phải là Giáo hoàng của một phe phái.

Dường như phong cách của Đức Lêô truyền thống hơn so với Đức Phanxicô: ngài mặc một số phẩm phục giáo hoàng mà Đức Phanxicô không mặc. Ngài về Dinh mùa hè Castel Gandolfo và ngài sẽ dọn về Điện Tông Tòa của Vatican. Liệu sự trở lại mang tính biểu tượng truyền thống có phản ánh một mong muốn xoa dịu không?

Đức Phanxicô mang trong ngài những âm hưởng tiên tri. Ngài đã giúp làm mới lại nhiều điều. Đức Lêô XIV đang tái đầu tư một số yếu tố đã bị bỏ. Điều này phản ánh quan niệm tự nhiên của ngài về chức giáo hoàng mà ngài khiêm nhường đón nhận. Nhưng việc trở lại Castel Gandolfo vào mùa hè hay trở lại Điện Tông Tòa không phải là đi ngược với Đức Phanxicô. Điều quan trọng là cách chúng ta ở. Sẽ càng tốt hơn nếu sứ vụ Phêrô này có thể thực hiện theo một cách khác. Và sẽ càng tốt hơn nếu sứ vụ này mang lại hòa bình và nếu Giáo hội không bị chia rẽ vì những biểu tượng sai lầm.

“Đức Lêô đang tái đầu tư một số yếu tố đã bị bỏ rơi.”

Tôi cũng nhận thấy sự liên tục đáng kể giữa Đức Phanxicô và Đức Lêô XIV về bản chất. Sự gần gũi này, thể hiện rõ trong các bài phát biểu của ngài và không phải là điều bất ngờ. Nhiều dấu hiệu cho thấy Hồng y Prévost được Đức Phanxicô trân trọng. Việc ngài được Đức Phanxicô bổ nhiệm làm Hồng y Giám mục tháng 2 năm ngoái chẳng hạn, chứng tỏ Đức Phanxicô rất trân trọng Đức Lêô.

Những thách thức lớn của Đức Lêô XIV là gì?

Về cơ bản, tôi nghĩ các vấn đề chính Đức Lêô XIV sẽ phải giải quyết không phải là những vấn đề liên quan đến các nhạy cảm khác nhau của Giáo hội. Tôi nghĩ thách thức lớn nhất là hòa bình thế giới. Ngày nay, ai còn nói về hòa bình? Những lời đầu tiên của ngài – “Bình an cho tất cả anh chị em” – mang tính tiên tri và phản ánh chính xác thách thức triều của ngài.

“Đức Lêô rất am hiểu về quản trị thể chế. Đây là tài sản không thể phủ nhận.”

Đặc biệt trên bình diện ngoại giao, ngài dựa vào chính quyền của ngài nhiều hơn Đức Phanxicô. Liệu đây có phải là sự trở lại bình thường?

Một lần nữa, tôi nghĩ phải nhấn mạnh đến tính tiên tri của Đức Phanxicô trên bình diện ngoại giao. Ngài có khả năng khuấy động các quy ước để truyền tải thông điệp của Giáo hội. Đức Lêô XIV không có cá tính của Đức Phanxicô. Chắc chắn ngài đã đáp lại mong muốn của các hồng y muốn quay trở lại hình thức quản trị dựa nhiều hơn vào Giáo triều Rôma và Phủ Quốc vụ khanh. Sự chuyển giao từ Đức Bênêđictô XVI sang Đức Phanxicô được thúc đẩy với mong muốn cải cách Giáo triều. Đức Phanxicô đã lãnh đạo dự án này. Tôi không biết liệu có thành công về mặt thể chế hay không, nhưng tôi tin cuộc cải cách đã được thực hiện trên tinh thần. Đức Lêô XIV không phải là nhân vật chính trị, như kinh nghiệm truyền giáo của ngài đã chứng minh. Nhưng ngài rất am hiểu về quản trị thể chế. Đây là một lợi thế không thể phủ nhận.

Triều Đức Phanxicô đã kết thúc, để lại những dự án rộng lớn như suy tư về đời sống và việc quản trị Giáo hội. Kể từ khi được bầu, Đức Lêô XIV, đã tham dự Thượng Hội đồng về Tính đồng nghị,đã không đưa ra bất kỳ chỉ đạo cụ thể nào. Liệu giáo hoàng trẻ tuổi này có nên từ từ không?

Trước hết, tôi nghĩ chỉ trong Giáo hội, chúng ta mới được phép gọi một người 70 là trẻ. Thứ hai, chúng ta phải hình dung cảm nhận của người được bầu làm người đứng đầu Giáo hội hoàn vũ. Từ từ là điều khôn ngoan cơ bản, dù ở tuổi nào. Làm giáo hoàng có nghĩa là dự vào một tiến trình dài hạn. Chúng ta không đòi hỏi họ phải đưa ra những quyết định quan trọng trong 100 ngày đầu tiên, như một số chính trị gia vẫn làm. Đức Phanxicô, ngay từ đầu triều ngài đã thiết lập nhiều biểu tượng. Đức Lêô XIV thiết lập biểu tượng của một hiện diện hòa bình.

Về cách Đức Lêô XIV dự định thực hiện sứ vụ của ngài, tôi thấy chỉ hai ngày sau mật nghị ngài đã tập hợp các hồng y. Rất đơn giản, ngài tóm tắt cho chúng tôi những gì ngài đã học được trong các cuộc họp chung trước bầu cử. Sau đó, ngài xin chúng tôi thành lập các nhóm ba người, cùng với những người lân cận, dành một phút im lặng và suy ngẫm về những gì có thể bổ sung. Tóm lại, ngay từ ngày đầu tiên, ngài đã áp dụng phương thức hoạt động của Thượng Hội đồng về tính đồng nghị. Ngài đã cho chúng tôi biết phương pháp làm việc của ngài.

“Đức Phanxicô, ngay từ đầu triều ngài đã thiết lập nhiều biểu tượng. Đức Lêô XIV thiết lập biểu tượng của một hiện diện hòa bình.”

 

Kể từ khi được bầu, Đức Lêô đã trích dẫn Thánh Augustinô trong hầu hết các bài phát biểu và bài giảng của ngài. Ngài đã đến Algeria, quê hương của Thánh Augustinô chưa?

Ngài đã đến Algeria hai lần. Năm 2001, ngài dự hội nghị về hình ảnh Thánh Augustinô được tổ chức theo sáng kiến của Tổng thống Bouteflika và Giám mục Tessier. Đây là một sự kiện đầy tham vọng của Tổng thống Algeria, với mong muốn làm nổi bật hình ảnh phổ quát của Thánh Augustinô.

Năm 2013, Hồng y Robert Francis Prevost đã trở lại Algeria để dự lễ khánh thành Vương cung thánh đường Thánh Âugustinô được trùng tu tại Annaba. Thánh đường này do Dòng Thánh Augustinô điều hành, nơi ngài là Bề trên từ năm 2001 đến 2013. Nhân dịp này, ngài đã đến thăm các nữ tu Dòng Thánh Augustinô tại Algiers. Tại Bab El Oued, ngài đến thăm nơi Sơ Esther và Sơ Caridad, hai nữ tu Dòng Âugustinô bị sát hại năm 1994. Hai nữ tu ở trong số 19 chân phước tử đạo của Algeria. Tại Algiers, ngài cũng đến thăm thư viện Kasbah, nơi hai chân phước đầu tiên, Sơ Paul-Hélène và Thầy Henri Vergès bị ám sát ngày 8 tháng 5 năm 1994. Khi ngài được bầu giáo hoàng ngày 8 tháng 5 năm 2025, tôi đã nhắc ngài về sự trùng hợp của các ngày lễ. Hai chân phước tử đạo và các vị khác luôn ở trong ký ức cá nhân của ngài.

Đức Lêô XIV đã tiếp Tổng thống Algeria ngày 24 tháng 7 | © Vatican media

Ngài có sớm về lại Algeria không?

Chúng tôi hy vọng! Algeria là quê hương của Thánh Augustinô nhưng cũng là quê hương của một Giáo hội nhỏ bé cần được hỗ trợ. Xã hội Algeria cũng đang chờ đợi ngài. Thật tự hào khi chúng tôi biết ngài tự cho mình là “con của Thánh Augustinô”.

Tổng thống Tebboune đã được Đức Lêô tiếp tại Vatican vào cuối tháng 7, 26 năm sau cuộc gặp của Đức Gioan-Phaolô II với Tổng thống Bouteflika. Cuộc gặp này có ý nghĩa gì với ngài?

Tôi không dự cuộc gặp này, nhưng nó phản ánh mong muốn tăng cường quan hệ song phương. Năm 2022, Tổng Giám mục Paul Richard Gallagher, một trong những người đứng đầu ngành ngoại giao Vatican, đã đến thăm Algeria nhân dịp kỷ niệm 50 năm quan hệ giữa Cộng hòa Algeria và Tòa Thánh. Thật đáng mừng khi đối thoại đang được tiếp tục ở cấp độ này.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Đức Lêô XIV: Quản lý kỷ nguyên hậu-Phanxicô, giữa đột phá phong cách và tiếp nối huấn quyền

100 ngày đầu tiên của Đức Lêô

 

 

100 ngày đầu tiên của Đức Lêô

100 ngày đầu tiên của Đức Lêô

zenit.org, Anne van Merris, 2025-08-14

Anne van Merris, nhà báo người Pháp được đào tạo tại Học viện Báo chí Châu Âu Robert Schuman ở Brussels. Bà từng làm Quản lý truyền thông cho Giáo hội Công giáo và Quản lý bán hàng trong lãnh vực tư nhân. Bà là mẹ gia đình có bốn người con.

Ngày thứ bảy 16 tháng 8 là ngày thứ 100 Đức Lêô làm giáo hoàng. Được bầu ngày 8 tháng 5 năm 2025, chưa đầy 24 giờ, ngài đã nhanh chóng cho thế giới thấy phong cách hòa nhã nhưng kiên định của ngài. Ngay trong đêm bầu cử, ngài đã không che giấu cảm xúc và tính nhạy cảm của ngài.

Trong 100 ngày đầu tiên, ngài đã nhận được sự ủng hộ đồng nhất của Giáo hội dù ngài có những khác biệt. Bình tĩnh hơn người tiền nhiệm, Giáo hoàng 69 tuổi người Mỹ là người năng động, thông thạo nhiều ngôn ngữ và luôn khao khát hiểu biết thế giới ngày nay.

Ngay từ đầu, ngài đã tạo một tiếng nói chung khi ngài kêu gọi hòa bình, ngài mời giáo dân xây dựng các nhịp cầu, thực hành đối thoại và tiến bước trong sự hiệp nhất. Lời nói đầu tiên của ngài: “Bình an cho tất cả anh chị em. Đó là hòa bình của Chúa Kitô Phục sinh, một hòa bình giải trừ vũ khí, không vũ trang, khiêm nhường và bền bỉ.”

“Trong Đấng Duy nhất, chúng ta nên một”

Buổi tối ngày ngài được bầu chọn, 8 tháng 5 năm 2025 © Vatican Media

Từ đó, ngài luôn tìm cách để trở thành người hiệp nhất. Ngày 18 tháng 5 năm 2025, trong thánh lễ nhậm chức, ngài tuyên bố: “Tôi mong muốn đây là mong ước lớn lao đầu tiên của chúng ta: một Giáo hội hiệp nhất, một dấu chỉ của hiệp nhất và hiệp thông sẽ trở thành men cho một thế giới hòa giải.” Theo Truyền thông Vatican, tháng 11 ngài sẽ đi Thổ Nhĩ Kỳ để dự lễ kỷ niệm 1700 năm Công đồng Nicaea, tiếp tục đối thoại với Tòa Thượng phụ Chính thống Constantinople, một nỗ lực đại kết đã được các giáo hoàng tiền nhiệm khởi xướng.

Đức Lêô phát biểu với đại diện các Giáo hội và cộng đồng các Giáo hội khác ngày 19 tháng 5: “Sự hiệp nhất luôn là mối quan tâm của tôi, được thể hiện qua khẩu hiệu tôi chọn cho sứ vụ giám mục của tôi ‘Trong Đấng Duy nhất, chúng ta nên một’, câu này của Thánh Augustinô, ngài nhắc chúng ta, dù chúng ta nhiều, nhưng trong Đấng Duy nhất là Chúa Kitô, chúng ta vẫn là một.”

Mong muốn tham gia vào các mối quan hệ quốc tế, ngài đã tiếp Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky, điện thoại với Tổng thống Vladimir Putin. Ngài có vai trò tích cực trong cuộc chiến ở Gaza và các khu vực xung đột ở Châu Phi, ngài luôn kêu gọi hòa bình.

Với trẻ em Ukraine, ngày 3 tháng 6 năm 2025 © vaticanstate.va

Thượng Hội đồng về Tính Công đồng, Trí tuệ Nhân tạo, Thanh thiếu niên và Gia đình

Tuy có phong cách kín đáo hơn Đức Phanxicô, ngài tiếp tục một số ưu tiên của cố Giáo hoàng như công việc của Thượng Hội đồng về Tính đồng nghị mà ngài rất coi trọng.

Đặc biệt, ngài đã thành lập các nhóm nghiên cứu Thượng Hội đồng mới về các chủ đề phụng vụ và hội đồng giám mục. Văn phòng Thượng Hội đồng Vatican cũng đã xuất bản một hướng dẫn cho ba năm tiếp theo để Đức Lêô điều hành Thượng Hội đồng.

Trong cuộc gặp đầu tiên với Hồng y đoàn ngày 10 tháng 5, ngài giải thích ngài chọn danh hiệu Lêô XIV để tỏ lòng tôn kính Đức Lêô XIII và Thông điệp Tân sự Rerum Novarum để mang đến cho “cuộc cách mạng công nghiệp kỹ thuật số” mới bài học đạo đức về việc bảo vệ phẩm giá, công lý và lao động. Ngài xác định Trí tuệ Nhân tạo là một thách thức đạo đức lớn, tương đương với cuộc cách mạng công nghiệp của thế kỷ 19.

Khởi đầu triều của ngài được đánh dấu bằng nhiều cuộc gặp gỡ với trẻ em, thanh thiếu niên và các gia đình. Ngày 15 tháng 5, ngài phát biểu trước các trường học kitô giáo: “Những người trẻ của thời đại chúng ta, giống như những người trẻ của mọi thời đại, là ngọn núi lửa của sức sống, năng lượng, cảm xúc và ý tưởng. Điều này thể hiện rõ qua những việc làm tốt lành họ đã làm trong nhiều lãnh vực.” Cao điểm là vào đầu tháng 8 tại Tor Vergata, gần Rôma, nơi một triệu người trẻ “khao khát nên thánh” tụ họp để gặp và lắng nghe ngài.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Đức Lêô XIV: Quản lý kỷ nguyên hậu-Phanxicô, giữa đột phá phong cách và tiếp nối huấn quyền

Hồng y Jean-Paul Vesco: “Đức Lêô rao giảng hòa bình do bản chất của ngài, ngài không tính toán”

Quần vợt, gặp đông đảo giáo dân, hòa giải trong Giáo hội… Các công việc âm thầm của Đức Lêô trong những tháng đầu tiên

Quần vợt, gặp đông đảo giáo dân, hòa giải trong Giáo hội… Các công việc âm thầm của Đức Lêô trong những tháng đầu tiên

parismatch.com, Arthur Herlin, Đặc phái viên tại Rôma, 2025-08-13

Bánh ngọt và rượu vang sủi bọt mừng sinh nhật Bề trên Tổng quyền Dòng Âugustinô, Alejandro Moral Anton (bên phải). Từ trái sang phải: Đức ông Luis Marin de San Martin, Phó Thư ký Thượng Hội đồng Giám mục, và Sư huynh Efrem. Tại Tu viện Tổng quyền Dòng Augustinô, ngày 1 tháng 6. © Vatican Media

Kể từ khi kế vị Đức Phanxicô ngày 8 tháng 5, bước đi của Đức Lêô luôn hoàn hảo. Ngài làm vui lòng giáo dân cũng như giáo triều.

Trong các buổi tiếp kiến chung ở Quảng trường Thánh Phêrô, một hình ảnh siêu hiện thực được lặp đi lặp lại không ngừng: giáo dân ném bóng chày, không phải ý cầu nguyện, nhưng một quả bóng chày được Đức Lêô “chụp” trong chớp mắt với một động tác chính xác. Dễ dàng đến kinh ngạc, chính xác như phẫu thuật. Bên trong áo chùng là nhịp đập của trái tim một cậu bé Chicago trung tín, một fan say mê đội White Sox từ rất nhỏ. Phản xạ của một cầu thủ bắt bóng chuyên nghiệp, mà hào nhoáng của Vatican lẫn trang trọng của giáo hoàng đều không dập tắt được, nó mang hương vị của câu chuyện ngụ ngôn: trong khi chờ đợi để chứng minh mình có thể ngắm bắt chính xác, Đức Lêô đã chứng minh ngài không thiếu kỹ năng bắt bóng lạc… và có lẽ là cả những sai lầm của những vị tiền nhiệm.

Có một người mà kỹ năng bắt bóng của ngài đã không làm họ ngạc nhiên. Vào ngày bầu giáo hoàng, huấn huyện viên thể dục thể thao Valerio Masella đã phải tự nhéo tay để chắc chắn mình không bị ảo giác. Trong lớp áo rêu tím và mũ miện trắng của Giáo hoàng trên ban-công, ông nhận ra đó là một trong những học viên chăm chỉ nhất của ông, người này đến phòng tập thể dục của ông ở gần Vatican, ít nhất một tuần một lần. Chàng trai trẻ huấn luyện không biết gì về người này! Ông nói trên báo Ý ‘Il Messaggero’: “Ở tuổi 69 của người này, ông có một vóc dáng đặc biệt, điển hình của người không ngừng tập luyện. Khi tôi thấy người này trên truyền hình, tôi không thể tin được. Tôi đã huấn luyện cho Giáo hoàng tương lai!”

Valerio Masella, huấn luyện viên của Đức Lêô đã sốc khi thấy ngài trên truyền hình: “Tôi không thể tin được. Tôi đã huấn luyện cho Giáo hoàng tương lai!”

Ngoài việc có một trái tim khỏe mạnh – điều kiện tiên quyết để ở địa vị này – Đức Lêô còn rất cẩn thận săn sóc sức khỏe tim mạch, một việc không kém phần quan trọng để có thể làm việc nhanh chóng trong 100 ngày đầu tiên ở cương vị người đứng đầu Giáo hội. Chỉ vài ngày sau khi được bầu, ngài tiếp khách liên tục, cầu thủ quần vợt số một thế giới Jannik Sinner, đội bóng Naples, các nhà vô địch Ý, 159 tay đưa xe đạp tham dự giải Giro d’Italia. Lần đầu tiên các tay đua được đạp trong các vườn Vatican.

Đức Lêô biết rõ: trong những tuần đầu tiên, mọi việc ở trong tầm tay ngài. Không có gì phải lo lắng cho người đã biết cách “làm bàn” thành thạo được rèn luyện trên sân quần vợt, ngài đã thành thạo với các cú tạt tay mặt, tay trái trong nhiều năm. Trong một thời gian dài, Alejandro Moral một trong các bạn cùng chơi quần vợt với ngài cho biết: “Khi chúng tôi mới chơi, ngài chơi hay hơn tôi rất nhiều.” Bốn mươi năm tình bạn bền chặt giữa ông và Đức Lêô, và đó là lý do ngài đến dự sinh nhật thứ 70 của người bạn trung thành này.

Chính tại tu viện Thánh Augustinô, mọi thứ đã bắt đầu với Đức Lêô, rất lâu trước khi ngài là giáo hoàng thứ 267 của ngai Thánh Phêrô. Quanh bàn ăn ngày 3 tháng 6, hai anh em mặc áo choàng màu nâu than, trìu mến nhìn nhau. “Cha Robert”, họ vẫn thân mật gọi ngài khi ngài còn là sinh viên vào đầu những năm 1980, sau đó là Bề trên Tổng quyền của Dòng từ năm 2001 đến năm 2013.

Mười năm sau, sau khi rời Peru và được Đức Phanxicô phong hồng y, bổ nhiệm ngài làm Bộ trưởng Bộ Giám mục, mỗi sáng ngài đọc Kinh Sáng với anh em trước khi ăn sáng với họ. Sau đó ngài đánh quần vợt trên sân tu viện, giống như hồi trẻ ngài từng chơi với thầy Alejandro. Giữa những bức tường quen thuộc này, ngài thoải mái vui vẻ gặp thầy Alejandro, thầy cho biết: “Ngài hỏi tôi đã xem chiến thắng huy hoàng của Đội PSG trong trận chung kết với Inter Milan chưa, ngài cho biết ngài rất buồn vì không được xem trận đấu đó.”

Nhà vô địch quần vợt người Ý và tay vợt số một thế giới Jannik Sinner khi đến thăm Rôma đã mời Đức Lêô đến chơi quần vợt. Ngày 14 tháng 5. Bestimage / © Zuma Press

Trận đấu quần vợt cuối cùng của ngài diễn ra hai ngày trước mật nghị, giây phút thư giãn cuối cùng trước khi “số phận” an bài mãi mãi. Bên kia lưới là Cha Edgard Ivan Rimaycuna Inga, 35 tuổi, linh mục triết gia, thần học gia người Peru, thư ký riêng của ngài. Với nụ cười rạng rỡ, cặp kính lịch sự, ánh mắt sáng ngời thông minh, người Peru bản địa này là hiện thân hoàn hảo của thế hệ giáo sĩ trẻ Nam Mỹ đang làm đảo lộn các chuẩn mực. Năm 2006, một tình bạn sâu sắc đã gắn kết hai người khi Edgard lần đầu tiên bước qua cánh cửa Đại chủng viện Santo Toribio de Mogrovejo ở Chiclayo. Và lập tức cha Prevost là cha linh hướng của Alejandro. Mối liên hệ thân tình tiếp tục phát triển khi cha Prevost được phong giám mục và sau đó là hồng y. Bây giờ hai người cùng sống trong một căn hộ ở Cung điện Thánh. Chỉ có một điểm khác biệt là bây giờ có một cận vệ Thụy Sĩ đứng gác bên ngoài mỗi đêm. Có bà Veronica Sanchez Molina đầu bếp người Peru giúp. Bà nấu các món ăn vùng Andes yêu thích của cha: “arroz con pato, món cơm vịt phổ thông” ở Lima; “cabrito a la nortena, món dê hầm với đậu và rau mùi”, niềm tự hào của miền bắc Peru; món chifa, món ăn kết hợp Trung Quốc-Peru được chế biến từ cơm xào, ớt và măng.

Đức Lêô đã nhập quốc tịch Peru năm 2015, ngài gặp giáo dân ở Quảng trường Thánh Phêrô – AFP / © Vatican Media / CPP / Hans Lucas

Nhưng giai đoạn chuyển tiếp này sắp kết thúc. Ngài đã chuẩn bị sẵn sàng cho những gì sắp tới. Với lối sống giản dị và những tuyên bố trung thành với di sản của người tiền nhiệm, nhưng theo cách riêng của ngài, ngài sẽ có những thay đổi. Hiện tại, ngài chủ yếu làm việc theo nghi thức, tái hiện những phẩm chất giáo hoàng mà người tiền nhiệm đã từ bỏ. Ngài đáp ứng yêu cầu của các hồng y trong thời gian tiền mật nghị: một giáo hoàng tối cao phải thể hiện trọn vẹn các biểu tượng thẩm quyền để thúc đẩy sự hiệp nhất chung quanh mình. Sự hiệp nhất, chính xác là khẩu hiệu của Đức Lêô ngay từ đầu triều của ngài. Vì vậy, một ngày sau khi được bầu, ngài cùng với các cố vấn thân cận, đã bước qua ngưỡng cửa căn hộ giáo hoàng mà Đức Phanxicô đã bỏ trống suốt 13 năm. Một giây phút cảm động khi bước chân của Đức Gioan-Phaolô II và Đức Bênêđíctô XVI vẫn còn vang vọng ở những nơi này. Các nguồn tin Vatican xác nhận: mùa thu này ngài sẽ tiếp nhận nơi mang tính biểu tượng này. Khi đó, buổi tối từ Quảng trường Thánh Phêrô, giáo dân có thể nhìn thấy ánh đèn ngủ phòng của ngài. Vấn đề duy nhất: cần vài tháng để sửa chữa hệ thống ống nước.

Với các tay đua xe đạp Giro d’Italia ở chặng cuối cùng ngày 1 tháng 6 tại Vatican. Bên phải Đức Lêô, trong chiếc áo hồng, là Simon Yates, tiếp theo là Isaac del Toro và Mads Pedersen. Getty Images / © Mondadori Portfolio/Pool/Origlia/GG

Nhưng mùa hè này ngài đã về Dinh Castel Gandolfo để nghỉ hai tuần, sau đó ngài về đây dự “ferragosto”, tên gọi của ngày cuối tuần 15 tháng 8, để cử hành Thánh lễ với người nghèo. Dinh thự này cách Rôma 25 cây số, đã được Đức Phanxicô biến thành bảo tàng, Đức Phanxicô chưa bao giờ ở đây, ngài ở lại Vatican. Tất cả gần như còn y nguyên kể từ khi Đức Bênêđíctô XVI rời đi, sau khi từ nhiệm, ngài đã về đây, quyển danh bạ giáo hoàng năm 2012 vẫn nằm gần điện thoại, một chi tiết đáng lo Đức Lêô đã quan sát thấy khi đi bộ qua tòa nhà thế kỷ 13 này nhìn ra Hồ Albano.

Năm Thánh Giới Trẻ tổ chức từ ngày 28 tháng 7 đến ngày 3 tháng 8, với hơn một triệu người tham dự thánh lễ bế mạc. Starface / © IPA Agency

Vài ván quần vợt trên sân tu viện, như ngài đã chơi với thầy Alejandro khi còn trẻ. Giữa những bức tường quen thuộc này, ngài tìm lại sự thoải mái và vui vẻ, ngài nhớ lại cuộc gặp gỡ với thầy Alejandro, khi Đức Gioan Phaolô II ngồi vào chiếc ghế mà ngài đang ngồi hôm nay. Giáo hội và vị trí mới của Robert Prevost, tất nhiên, là trọng tâm của các cuộc trò chuyện, cũng như… thể thao. Thầy Alejandro cho biết: “Ngài hỏi tôi đã xem chiến thắng vang dội của đội PSG trong trận chung kết với Inter Milan chưa, ngài cho biết ngài buồn vì không có cơ hội xem trận này.”

Trận quần vợt cuối cùng của ngài diễn ra hai ngày trước mật nghị, khoảnh khắc thư giãn cuối cùng trước khi sô phận của ngài đã… an bài mãi mãi! Bên kia lưới là Cha Edgard Ivan Rimaycuna Inga, linh mục triết gia, thần học gia người Peru 35 tuổi, đã trở thành thư ký riêng của ngài.

Đức Lêô cần im lặng để làm việc

Tại Dinh Barberini, nơi thường dành riêng cho Phủ Quốc vụ khanh, ngài cần im lặng để làm việc. Sự im lặng này đã bị hơn một triệu giáo dân phá vỡ: hơn một triệu người hành hương đã tập trung tại đồng bằng Tor Vergata để tham dự buổi cầu nguyện tối thứ bảy 2 tháng 8, ngài đến đây bằng trực thăng. Nhiều người nghĩ nhân dịp này ngài sẽ tuyên bố mạnh mẽ, đưa ra khẩu hiệu mở đầu triều của ngài. Nhưng ngài thích ôn hòa hơn ầm ỉ. Một dè dặt đặc trưng cho những bước đi đầu tiên của ngài. Hiện tại, chỉ có một vài bổ nhiệm mang tính chiến lược hé lộ phong cách điều hành của ngài: Hồng y Robert Sarah, người đại diện cho ngài tại Pháp trong lễ kính Thánh Anna vào cuối tháng 7, Hồng y người Guinea được cho là bảo thủ này chưa bao giờ đảm nhiệm vai trò này dưới thời Đức Phanxicô trong suốt 13 năm trị vì của ngài. Lựa chọn này, mặc dù thứ yếu nhưng được xem là biểu hiệu của sự đoàn kết và hòa giải của Đức Lêô.

Cảm động khi ngài đi giữa đám đông hành hương tụ tập tại Tor Vergata để cầu nguyện ngày 2 tháng 8. Bestimage / © Zuma Press

Daniele, một nhân viên Vatican bức xúc nói: “Với Đức Phanxicô, chúng tôi không được quan tâm. Chúng tôi nóng lòng muốn tháo bức chân dung của ngài xuống.”

Các vị trí chủ chốt ở Phủ Quốc vụ khanh hoặc ở Bộ Giám mục, Bộ Đức Lêô từng nắm giữ, sẽ tạo tiền đề cho một khởi đầu đầy hứa hẹn. Chương trình nghị sự gồm: củng cố tài chính, ngoại giao, chống lạm dụng. Ngài đã lập tức định vị mình là sứ giả của hòa bình thế giới. Những dấu hiệu đầu tiên rất khích lệ: ngài đề xuất tổ chức các cuộc đàm phán trực tiếp giữa người Nga và người Ukraine tại Vatican trong tương lai gần. Khôi phục quan hệ với Pháp cũng là một trong những mục tiêu của ngài, vì ngài thường nhắc đến nguồn gốc Pháp của cha mẹ ngài với các thành viên người Pháp trong giáo triều. Điều này được thấy qua một số thông điệp ngài gởi Giáo hội Pháp, ngày 31 tháng 5, ngài mời gọi họ khôi phục lại di sản truyền giáo của mình. Gần đây hơn, trong Năm Thánh Giới Trẻ, ngài đã để lại ấn tượng sâu sắc khi nói chuyện trực tiếp với 600 người trẻ Pháp bằng ngôn ngữ của họ, cho thấy sự tiến bộ rõ rệt của ngài về ngôn ngữ. Ngài kêu gọi họ chống lại “văn hóa sự chết” mà theo ngài thể hiện qua “sự khinh miệt người khác và tình dục trở thành thú vui và sự vật hóa con người”. Sự quan tâm của ngài với nước Pháp ngay từ những tháng đầu tiên đã tạo hy vọng cho một chuyến tông du đúng nghĩa, điều mà Đức Phanxicô chưa làm.

Ngoài ra ngài dự kiến sẽ đi Thổ Nhĩ Kỳ tháng 11 để kỷ niệm 1.700 năm Công đồng Nicaea, Công đồng đã định hình nền tảng kitô giáo. Sau chuyến hành hương về cội nguồn kitô giáo, có thể ngài sẽ đi Algeria, theo bước chân của Thánh Augustinô, Thánh  bổn mạng của Dòng của ngài. Thánh Augustinô, nhà tư tưởng, một trong những Thánh vĩ đại nhất của Kitô giáo, sinh ra ở vùng Souk Ahras ngày nay và là giám mục của Hippo, nay là Annaba, ở Algeria. Theo một cách có thể được cho là thực tế, một lần nữa, Đức Lêô đã tìm cách tách mình ra khỏi Đức Phanxicô. Ngạn ngữ có câu “ma quỷ nằm ở chi tiết”… và những cử chỉ nhỏ bé có thể tạo ra tác động lớn. Ngài đã khôi phục lại bằng khoản tiền thưởng 500 âu kim cho mỗi nhân viên Tòa thánh, một truyền thống đã bị Đức Phanxicô bỏ. Hiệu ứng có ngay lập tức: nhân viên phấn khích! Từ sau bàn tiếp tân ở một thánh bộ, ông Daniele nói: “Với giáo hoàng tiền nhiệm, chúng tôi đã không được xem xét. Chúng tôi nóng lòng muốn gỡ bức chân dung của ngài xuống,” anh thở dài, chỉ ngón tay cái, thậm chí không quay lại, vào bức chân dung tươi cười của Đức Phanxicô vẫn còn treo trên tường. Với sự đồng lòng của các đồng nghiệp, ông treo bức ảnh Đức Lêô được cắt ra từ trang nhất của tờ L’Osservatore Romano, nhật báo của Tòa Thánh. “Với ngài, chúng tôi sống lại!” Câu này là câu thường nghe trong các hành lang của Vatican, cũng như trong một số giới của Giáo hội, vang vọng trong tâm hồn nhiều người như một giải thoát.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

“Tin là gì?”: Bài suy niệm của Thánh Augustinô qua ngòi bút của nhà văn Frédéric Boyer

“Tin là gì?”: Bài suy niệm của Thánh Augustinô qua ngòi bút của nhà văn Frédéric Boyer  

“Tin là gì?”: Bài suy niệm của Thánh Augustinô qua ngòi bút của nhà văn Frédéric Boyer

la-croix.com, Nhà văn Frédéric Boyer, 2025-08-08

Vào thời điểm mà việc đi tìm ý nghĩa lại trở thành trọng tâm của cuộc tranh luận, nhà văn Frédéric Boyer khơi lại tư tưởng cháy bỏng của Thánh Augustinô để đặt câu hỏi về ý nghĩa của niềm tin muốn nói gì với chúng ta ngày nay.

Tin là gì? Nhà văn Frédéric Boyer tìm được câu trả lời nơi Thánh Augustinô, ngài là bậc thầy tâm linh được ánh mặt trời của Thiên Chúa sưởi ấm, vậy, ngài là một trong những chuyên gia vĩ đại nhất về vấn đề này.

 “Tin là gì?” Tôi chưa bao giờ có thể trả lời câu hỏi này ngoài việc đọc đi đọc lại những trang đầu của quyển Tự Thú của ngài khi ngài ngỏ lời với Chúa như thể lần đầu tiên ngài biết nói: “Một con người, một phần nhỏ bé trong tạo vật của Ngài, muốn ngợi khen Ngài.” Thánh Augustinô hỏi: “Nhưng làm sao làm? Trước hết chúng ta phải gọi Chúa để ngợi khen Chúa? Nhưng làm sao gọi Chúa nếu chúng ta chưa biết Chúa?” Ngài mạo muội nói: “Hay chúng ta phải gọi Chúa để biết Ngài?” Phải tin tưởng tuyệt đối vào lời của Ngài, Đấng chúng ta không biết, Đấng chúng ta đi tìm. Chúng ta có bao giờ tự hỏi làm thế nào để biết Chúa mà người ta thường nói cho chúng ta nghe không? Cứ gọi, cứ trải nghiệm các lời cầu nguyện, không cần kiến thức, không cần hiểu biết trước. Hãy nói chuyện với người mình chưa biết. Ngài luôn lắng nghe bạn. Gọi Ngài là tin. Và niềm tin này mở ra mọi tri thức.

Mọi thứ được viết ở các trang đầu tiên của quyển Tự Thú: tin là chấp nhận rủi ro gọi mà không biết, và có lẽ ngay cả vì sự thiếu hiểu biết này mà chúng ta dự vào một cuộc đối thoại duy nhất được tạo nên, vì niềm tin cần thiết cho hành động tin. Tôi chỉ có thể biết Chúa nếu tôi dám nói chuyện với Ngài, dù tôi chưa biết Ngài. Tin không chỉ đơn giản là tin về sự hiện hữu của chính Chúa, nhưng còn là tin tôi đặt vào việc kêu cầu Ngài, cầu xin Ngài. Khi chấp nhận rủi ro tin, thì sự tồn tại của chúng ta có thể vượt qua sự lãng quên hoặc sự thiếu hiểu biết, lo lắng, và tái tạo chính nó.

Một khác biệt mới

Sự bối rối của chúng ta trước những lựa chọn phải thực hiện trong cuộc sống, nỗi lo lắng này cũng chính là tin. Không biết, nhưng hỏi. Không biết, nhưng đặt câu hỏi, không biết nhưng kêu cầu để thành quen thuộc. Những điều xảy ra với chúng ta, những cảm xúc chúng ta trải qua, không phải tất cả đều nằm trong phạm vi kiến thức mà chúng ta có thể làm chủ chúng, hoặc không phải tất cả đều có thể diễn tả chỉ qua khả năng làm chủ ngôn ngữ của chúng ta. Tin trước hết là chấp nhận không biết và dám đối diện với nơi sâu thẳm, nơi chúng ta không còn là chủ nhân, không giàu có, không chiến thắng, nhưng đó là nơi chúng ta tìm con người mình muốn trở thành, và điều mình muốn tìm kiếm. Nơi chúng ta buông bỏ bản thân để hướng đến một khác biệt mới. Từ sự buông bỏ này, sự chân thành của nó, nảy sinh một lời mở ra cho chúng ta một chú tâm vô hạn đến thế giới và đến người khác.

Thông qua hành động tin, tôi không chỉ mở lòng ra với những khả năng khác, nhưng trên hết là với những người khác ngoài chính tôi. Tin là mở rộng sự tồn tại của tôi. Tin không bao giờ chỉ đơn thuần là bám chặt vào một chân lý, dù chân lý đó là gì, nhưng là cuộc phiêu lưu mà qua đó tôi đồng ý khám phá tôi như một người khác, gặp gỡ lắng nghe những người khác ngoài chính tôi. Vì thế, tin là một hành động, cho phép tôi mở lòng với những gì tôi không phải, với những gì không chỉ thuộc về tôi, ngay cả không nằm trong tôi, vì khi tin, tôi khám phá “một sự gần gũi mật thiết nội tâm hơn so với sự mật thiết của chính tôi”. Vì thế, tin là hành động mà con người nhận ra mình được dệt nên từ một khác biệt, một khác biệt làm nền tảng và mở ra để mình vượt ngoài chính mình và gần gũi với chính mình. Hoán cải nên được hiểu là một thay đổi nội tâm, một định nghĩa lại vị trí của bản thân trong mối quan hệ với Thiên Chúa.

Đối diện với các thảm họa

Aurelius Augustinus sống từ năm 354 đến năm 430. Chúng ta hình dung một thế giới và một thời kỳ mà mọi thứ đều rạn nứt, mọi thứ đều tối tăm, và mọi thứ đều được tái tạo. Điều đó không có gì lạ; hơn một ngàn năm trăm năm sau, chúng ta đang sống một trải nghiệm tương tự. 

Từ Thagaste đến Milan, hành trình của Thánh Augustinô, một trí thức Berber đã thành Giáo phụ, thể hiện sự phức tạp của những bản sắc và cuộc tìm kiếm tâm linh của một người bị giằng xé giữa tham vọng, di sản và đức tin. Frédéric Bony

Thánh Augustinô là con người của những căng thẳng và mâu thuẫn: giữa nhục dục và đức tin, trí tuệ và khiêm nhường, quyền lực giáo hội và hoài nghi nội tâm, gắn bó với thế gian nhưng lại khao khát một nơi chốn khác. Ngài không tìm cách thể hiện một hình ảnh cố định về bản thân. Trong bóng tối hỗn loạn thời đại của ngài, ngài đã có một kinh nghiệm nền tảng và thiêng liêng, đánh dấu qua sự xuất thần được chia sẻ với mẹ Mônica của ngài: “Quên đi quá khứ và hướng tới tương lai.” (Tự Thú IX, 10)

Hơn nữa, ngài không bao giờ khuất phục trước nỗi hoảng loạn của người đương thời khi họ đứng trước các thảm họa, đặc biệt khi Rôma sụp đổ năm 410. Khi đó Thánh Jérôme đã phải kêu lên: “Còn gì có thể còn chắc chắn nếu Rôma sụp đổ? Quid salvum est, si Roma perit?” Thánh Augustinô trả lời: Chúa không hứa ban vĩnh cửu cho các hòn đá mà cho nhân loại.

 Thánh Augustinô, một tiến trình trở lại chậm chạp

Một tiểu sử ngắn gọn về con người và tâm linh của một chàng trai trẻ đầy tham vọng và đau khổ, người đã tìm thấy con đường đến với kitô giáo sau nhiều tìm kiếm và thử thách.

Ngài là người Berber từ thời cổ đại, sinh năm 354 tại Thagaste, Numidia, thành phố La mã-Berber ở Algeria ngày nay (Souk Ahras). Gia đình ngài có nhiều bản sắc. Thân phụ ngài là Patricius, ngoại giáo nhưng được La-mã hóa, mẹ là Mônica, tín hữu kitô, cũng là người Berber, như thế Thánh Augustinô vừa là người Berber, người La-mã, người ngoại giáo, người tín hữu kitô.

Ngay từ khi còn rất nhỏ, ngài được gởi đi học ở Madauros (Madaure), cách Thagaste 50 cây số, khi đó là Carthage, trung tâm trí tuệ và văn hóa của Đế chế, nơi Thánh Augustinô được đào tạo về khoa hùng biện, một lãnh vực của thời cổ đại gồm phân tích ngôn ngữ, đọc và nghiên cứu các văn bản văn học, ngôn ngữ và học cách diễn tả. Xuất sắc, ngài là giáo sư quan tâm đến các tác giả vĩ đại như Virgil và Cicero. Là chàng trai trẻ đầy tham vọng, ngài định đi học và theo đuổi sự nghiệp ở Rôma. Vào thời điểm đó, khoa hùng biện có thể mang đến các địa vị quyền lực và ảnh hưởng. Không biết khi đó ngài có cân nhắc đến sự nghiệp chính trị không? Có thể nói ngài bị một vị trí danh giá trong chính quyền đế quốc cám dỗ.

Vì thế năm 383, ngài cùng với mẹ vượt biển Địa Trung Hải đầy nguy hiểm để rời quê hương Châu Phi đi Rôma. Ngài cùng đi với một bà (một nhân vật vô hình, chúng ta không biết gì về bà, ngoại trừ mối tình của bà với Âugustinô ) và con trai của họ, Adeodatus (sinh khoảng năm 372). Dưới áp lực của mẹ và tham vọng cá nhân, Âugustinô chia tay bà này và nhẫn tâm đuổi bà về Châu Phi khi ngài định cư ở Milan, ngài giữ lại đứa con trai. Ngài viết: “Người phụ nữ mà tôi thường ngủ cùng đã bị bứt ra khỏi cạnh sườn tôi, như một trở ngại cho hôn nhân. Trái tim tôi, bà từng ôm ấp, đã bị xé nát, tổn thương và bắt đầu rỉ máu (…). Bà để lại cho tôi đứa con” (Tự Thú VI, 25). Trong gần mười năm, ngài theo thuyết manikêô nhị nguyên, một giáo phái tâm linh và chính trị rất mạnh, sau đó ngài kiên quyết phản đối, ngài tiếp tục hành trình tâm linh và triết học, ngài chuyển sang chủ nghĩa hoài nghi và Tân Plato. Nhưng dần dần, dưới ảnh hưởng của mẹ, ngài bắt đầu đặt câu hỏi về đức tin kitô giáo. Cuộc gặp của ngài với Giám mục Ambroise, giáo phận Milan nổi tiếng, là một bước ngoặt quyết định. Năm 386 ngài theo kitô giáo, một năm sau ngài rửa tội cùng với con trai Adeodatus. Thánh Augustinô mô tả sự trở lại của ngài như một cuộc khủng hoảng đạo đức dữ dội khiến ngài phải trải qua một thời gian tĩnh tâm, suy ngẫm (ostium) tại Cassiciacum, gần Milan. Nhưng ngài không trở lại đột ngột, đó là một quá trình chậm rãi, sâu sắc, bắt nguồn từ kinh nghiệm cá nhân và được trải nghiệm theo cách đối thoại, thông qua nhiều cuộc thảo luận sôi nổi và những câu hỏi đau đớn. Mẹ của ngài qua đời tại Ostia, gần Rôma sau khi trải qua trạng thái xuất thần với Âugustinô, điều sẽ quyết định một rạn nứt nền tảng: Âugustinô về Châu Phi, ngài được thụ phong linh mục ở đây (391), năm 396 ngài được phong Giám mục Hippo (ngày nay là Annaba ở Algeria). Ngài giảng dạy, viết lách, đối thoại và chống lại các tà thuyết. Âugustinô là một trong những tác giả sung mãn nhất của Thời Cổ đại Kitô giáo: hơn 100 tác phẩm (luận văn, thư từ, bài giảng), Tự Thú (397-400), Thành phố của Chúa (413-426). Ba mươi lăm năm làm giám mục của ngài tương ứng với điều mà một số sử gia gọi là “Đồi Can-vê La-mã” – sự thống khổ và biến đổi của một thế giới. Cuối đời, Thánh Augustinô rút lui khỏi thế gian: ngài quay về với ý tưởng một Giáo hội tâm linh đối lập với sự hỗn loạn của thế giới trần tục. Ngài qua đời năm 430 tại Hippo, bị quân Vandal bao vây.

Chẳng ích gì để than van về thời kỳ đen tối, mala tempora. Âugustinô  đã trải qua nhiều thử thách và tự vấn; ngài thuộc về một thế giới bị chi phối bởi nhiều ảnh hưởng và bản sắc khác nhau. Ngài không quay lưng lại với thế gian; ngài khám phá trong chính cuộc đời ngài một cách khác để tồn tại, ngài dự vào thế giới này. Vì thế chúng ta phải hiểu điều mà chúng ta gọi là trở lại đạo của ngài là một hành trình, một cuộc di cư, qua những bản sắc đa dạng này, ở những nơi khác nhau, với những niềm tin đa dạng, và bằng cách đặt câu hỏi về toàn bộ nền văn học thơ ca, triết học và tâm linh phong phú. Đức tin Kitô giáo của ngài được truyền lại và hun đúc trong nền văn hóa cởi mở của thế giới, trong khi ngài sống như thể đang lưu vong giữa thế gian này. Ngài viết: “Cuộc đời chúng ta là một cuộc hành trình,” (Bài giảng 169, 15), vì tin là tự đặt mình vào tình thế căng thẳng. Vì vậy, ngài sẽ cần thời gian để tìm lại đức tin của mẹ. Cuộc đời ngài sẽ kể lại như một cuộc tìm kiếm thất bại trong chín quyển đầu tiên của quyển Tự Thú.”

Một thiếu sót thầm kín

Ít nhất chúng ta không nên nhớ nhiều về các lỗi lầm nhưng nên hiểu ngài, từ thời niên thiếu ở Carthage, ngài cảm nhận các thiếu thốn mà các đam mê và tổn thương của chúng phơi bày đến mức ngài tự ghét bản thân “vì không chịu đựng được một thiếu thốn thầm kín hơn” (Tự Thú III, 1). Những vết thương thầm kín, những khiếm khuyết, những thất bại của tôi chính là sự thừa nhận một “thiếu thốn thầm kín hơn”. Thiếu thốn này, theo một cách nào đó, là động lực thúc đẩy ngài thực hiện những chuyện ngài cần thực hiện. Đây không phải là tự truyện nhưng là cuộc điều tra tâm linh và tường thuật về sự tự trở thành, đóng khung qua lời tự thú (confessio trong tiếng la-tinh), hình thành như một hành vi ngôn từ qua đó mình tự hiến bản thân, phó thác mình cho cuộc tìm kiếm: “Con ở đâu khi con tìm kiếm Ngài? Ngài ở trước mặt con, nhưng con đã ra khỏi chính con. Con không tìm thấy con, càng không tìm thấy Ngài.” (Tự Thú V, 2)

“Vậy thì, tin là hướng về Đấng Khác, vừa là hiển linh vừa là  hiện diện giải thoát.” Frédéric Boyer

Sự hiệp nhất không thuộc về cuộc sống này, nhưng đó là điều làm con người bồn chồn, phân tán luôn phấn đấu để hướng đến. Tin là nhận ra rằng chúng ta thiếu một điều gì đó còn thiết yếu hơn cả những đối tượng của ham muốn hay thất vọng. Đó là phấn đấu hướng đến yên nghỉ, hiệp nhất. Biến bồn chồn của chúng ta thành nơi phiền muộn của một ham muốn lớn lao hơn, bí ẩn hơn tất cả những ham muốn của chúng ta. Tin là một trải nghiệm của con người, cả về thể chất lẫn tinh thần. Theo một cách nào đó, tin không phải là vấn đề của một quyết định lý trí duy nhất, mà sâu xa hơn, thuộc về chính bản chất bồn chồn của nhân loại.

Với câu hỏi “tôi là ai?”, người tín hữu kitô chuyển câu hỏi này qua một Đấng Khác, bao la và vô cùng yêu thương: “Con là ai?” Và việc phải tự trả lời cho chính mình trước khi trả lời cho người khác không còn như trước nữa. Con người không còn đơn độc trước câu hỏi họ là ai và họ đang trở thành gì. Một giọng nói đang nói với chúng ta, chất vấn chúng ta. Chúng ta không quên giọng nói này. Tiếng nói đó có thể giúp chúng ta trở thành chính mình. Trở thành chính mình nghĩa là tự trả lời cho chính mình trước Đấng Khác này, trước những người khác, vì tôi tin Ngài gọi tôi, tôi tin Ngài chất vấn tôi khi chính tôi đã tự chất vấn và tìm kiếm. Khi tôi tự vấn, tôi phải hiểu một Đấng Khác đang tìm kiếm và chất vấn tôi. Với câu hỏi “Con là Ai?” Thánh Augustinô sẽ trả lời như sau: “Con không tìm thấy nơi nào an toàn ngoài Ngài. Tập hợp tất cả những gì con phân tán: không có gì của con tách biệt khỏi Ngài?” (Tự Thú X, 65).

Tại sao chúng tôi làm điều này

Tác giả Frédéric Boyer là tác giả quen thuộc của báo La Croix, các bài của tác giả được đánh giá cao trên các trang chuyên mục hàng tuần của báo La Croix. Là nhà văn, tác giả rất am hiểu tác phẩm của Thánh Augustinô, tác giả đã dịch xuất sắc quyển Tự Thú năm 2008, tác giả đã công phu phủi bụi văn bản cổ này, khôi phục lại sự táo bạo của Thánh Augustinô, đưa ngài trở thành người đương thời của chúng ta.

Khi Đức Lêô được bầu ngày 8 tháng 5, thế giới biết linh đạo Augustinô là trọng tâm trong đời sống của ngài. Báo La Croix đã nhanh chóng có loạt bài đặc biệt về Thánh Augustinô. Frédéric Boyer nhanh chóng được giao nhiệm vụ này. Xuyên suốt nhiều thế kỷ, Thánh Augustinô đã viết chung quanh động từ “tin” và chủ đề đức tin. Trở lại với những điều cốt lõi của một bậc thầy về kitô giáo, được một nhà trung gian xuất chúng… đưa đường!

“Lạy Chúa, Chúa thật bao la…” (Tự Thú I, 1) Tất cả bắt đầu bằng một lời khẩn cầu, một lời thách thức trực tiếp. Giống như lới kêu gọi vang vọng bên trong chính mình “vocare in se”, vì ở đây, khẩn cầu là gọi “sự bao la” này đến bên trong chính mình. Thiên Chúa phải thực sự hiện diện trong tôi. Nhưng làm thế nào Ngài có thể hiện diện trong tôi? Thánh Augustinô lập tức đặt câu hỏi (Tự Thú I, 2). Vậy thì Thiên Chúa nên đến ở đâu trong tôi? Đó là một phần của Ngài hay toàn thể của Ngài đến trong tôi?

Tìm chính mình là gặp gỡ Đấng Khác. Toàn bộ linh đạo của Thánh Augustinô, một trái tim không ngừng nghỉ, nằm trong sự tập trung cháy bỏng này, liên kết việc tìm kiếm bản thân với việc tìm kiếm một sự siêu việt được khẩn cầu, được hướng đến. Và chúng ta chỉ tìm được khi đắm mình vào những con sóng của cuộc sống con người, vào những đa dạng, những lang thang, những cảm xúc thường mâu thuẫn, những ham muốn không thể kiềm chế, pha trộn rất nhiều niềm vui, rất nhiều lạc thú, đến mức trải nghiệm hư vô là một cái gì phân tán và khô cằn. Nỗi đau buồn bao trùm tác phẩm: nỗi đau buồn cho tuổi thơ ấu, nỗi đau buồn cho bạn bè, nỗi đau buồn cho người mẹ, cho đứa con trai duy nhất của bà, và nỗi đau buồn cho vô vàn đam mê của con người. Điều mà Thánh Augustinô tìm kiếm là một khuôn mặt (Tự Thú I, 28, Thánh vịnh 27, 8).

Tin là hướng về dung nhan của một Đấng Khác, vừa là hiển linh vừa là hiện diện không tự vệ. Hiểu được điều này, dung mạo siêu việt làm cho chúng ta thiết lập ngay tại cốt lõi của sự thân mật, một mối quan hệ sống động, một ngôn ngữ khả dĩ. Sự siêu việt này đặt ưu tiên cho việc lắng nghe trong quá trình dẫn tôi nghĩ về bản thân như người đối thoại của một tình yêu vô hạn. Nói siêu việt là một dung mạo là nhận ra dung mạo này trong mỗi dung mạo tôi gặp, trong cuộc đối thoại của nhân loại với thế giới, và với chính mình. Là tín hữu, tôi được dẫn dắt để tin vì người khác, trong một hành động có trách nhiệm với người khác, và trong sự khiêm nhường với người khác.

“Tôi không tin mà không có các người khác”

Tin là hành động của lời: “Tôi tin, và đó cũng là lý do vì sao tôi  nói.” Tôi tin, là tôi nói và tôi lắng nghe. Là tín hữu kitô là đòi hỏi hành động đáp lại Đấng Khác, với lòng can đảm để “đón nhận lời mời gọi.” Chúng ta chỉ trở thành chính mình, chúng ta chỉ trải nghiệm cuộc phiêu lưu “là chính mình” khi chúng ta đáp lại Đấng Khác đang đến, khi nhận ra một lời đang được ngỏ với chúng ta. Nhưng làm sao chúng ta có thể kêu cầu Đấng mà chúng ta chưa tin? Sức mạnh của mọi lời cầu nguyện, giống như sức mạnh của các thánh vịnh, là tin bằng cách kêu gọi, bằng cách chất vấn, bằng cách khẩn cầu sự hiện diện thiêng liêng mà chúng ta còn thiếu. Làm sao tôi có thể hiểu được điều tôi không biết, ví dụ sự hiện hữu của Chúa? Thánh Augustinô: “Tin những điều tôi không biết thì hữu ích” (De Magistro).

 Theo Thánh Augustinô, tin là bước vào cuộc đối thoại với chính mình, với người khác, với Chúa. Frédéric Bony

Câu hỏi không bao giờ chỉ đơn giản là tôi có tin hay không, nhưng đón nhận trong chính mình khả năng tin. Đức tin (credere) không phải là tiền đề logic khép lại hay giải quyết một dòng suy luận, nhưng là hành động tin tưởng vào lời Chúa, mở ra cho chúng ta một khả năng hiểu biết thậm chí còn lớn hơn. Một mở ra của bản thể tôi, của sự hiện hữu của tôi, để chất vấn, để truy tìm. Và tôi chỉ mở lòng ra với khả năng kêu cầu hoặc khẩn cầu sự hiện diện của Thiên Chúa qua lời nói của người khác, trong đối thoại, lắng nghe và giảng dạy. “Làm sao tôi có thể tin nếu không ai nói?”, Thánh Augustinô hỏi, ngài trích dẫn thư Thánh Phaolô gởi tín hữu Rôma (10:14). Đức tin biến chúng ta thành người đối thoại, nâng chúng ta lên phẩm giá của đối thoại.

Đối với Thánh Augustinô, ngài khẳng định điều này trong suốt tác phẩm của ngài – tin là hành vi vừa mang tính cá nhân vừa mang tính liên cá nhân. Tôi không tin một mình. Tôi không tin mà không có người khác, không nói chuyện với họ. Các thần học gia nói rằng giáo huấn của Chúa Kitô chỉ được hiểu qua hành vi truyền đạt, một hành vi tất yếu đòi hỏi sự hợp tác của con người. Thánh Augustinô chứng minh tin là một hành vi ngôn ngữ. Bắt nguồn từ khát vọng được nói (“Tôi muốn nói,” ngài nói trong Tự Thú), để bước vào cuộc đối thoại với chính mình và với một điều gì đó lớn lao hơn chính mình. Thiên Chúa đã mặc định nhân loại cần có nhau không chỉ để khám phá giáo huấn của Thiên Chúa, mà còn để lắng nghe khát vọng được dạy dỗ.

 Ngôn ngữ con người như lời cầu nguyện

 Tin là đáp lại một niềm tin được ban (như trong hành động yêu thương) cho phép tôi kêu gọi những người tôi chưa biết, chất vấn những người tôi chưa biết. Nhận ra rằng tôi không biết tất cả mọi thứ về sự tồn tại, rằng tôi “đang được yêu cầu” một câu trả lời, nhưng đối tượng chưa biết của cuộc tìm kiếm, chủ đề bí mật của những câu hỏi của tôi, đang nói bên trong tôi, bằng ngôn ngữ của riêng tôi. Ngôn ngữ con người chính là nơi của đức tin, nơi của hoán cải. Theo Thánh Augustinô, đức tin không bao giờ tách khỏi chúng ta. Ngôn ngữ là chất liệu cho những câu hỏi của chúng ta, cho cộng đồng của chúng ta, và cho cuộc tìm kiếm chân lý của chúng ta. Bậc thầy hùng biện mà Thánh Augustinô tôn vinh là ngôn ngữ con người, bắt đầu với chuyên luận De Magistro (Bậc Thầy, năm 388). Ngôn ngữ đánh thức chúng ta chú ý đến sự vật, và thông qua sự vật, chúng ta cố gắng nói lên cảm xúc của chúng ta.

Thánh Augustinô, “bậc thầy của ngôn ngữ”, sau đó nhận ra việc chúng ta dùng ngôn ngữ không chỉ giới hạn ở việc hiểu biết sự vật hay ý tưởng thông qua từ ngữ; ngài đưa ra giả thuyết nó cho phép chúng ta tiếp cận một loại ngôn ngữ nội tâm, gần gũi, mà chúng ta không phải là người làm chủ. Như văn bản của Contra Faustum (sáng tác khoảng năm 400-402) đã khẳng định, ngôn ngữ trên hết là nơi tự do của tinh thần, một ơn của Chúa, nơi “mọi sự vật tự biểu lộ trong khi Thiên Chúa khám phá chúng bên trong”. Thánh Augustinô viết: “Điều này có nghĩa con người chỉ có thể làm chủ được lời nói nhờ một nội tâm rộng lớn hơn chính mình. Việc làm chủ ngôn ngữ cho phép chúng ta khám phá một loại ngôn ngữ của ngôn ngữ, ngôn ngữ này cho chúng ta thấy Thiên Chúa và Thầy Chí Thánh bên trong, Chúa Kitô. Khám phá ra một cuộc đối thoại nội tâm diễn ra khi chúng ta nói. Ngôn ngữ lúc đó trở thành lời cầu nguyện. Gọi tên sự vật, thú nhận cảm xúc của mình, đặt câu hỏi cho người khác và sự tồn tại qua ngôn ngữ, chính là trải nghiệm ngôn ngữ như một phương tiện và nơi chốn cứu rỗi, đến mức ‘lấy lại sức sống trong sự khô cằn mà chúng ta đang phải chịu đựng.’”

Tôi dám nói: với người tín hữu, như trong kinh nghiệm triệt để của các thánh vịnh, liệu có phải là cứu rỗi? Trong bài bình luận sách Sáng Thế Ký (De Genesi contra Manichaeos), Thánh Augustinô so sánh giáo huấn thần linh được ban qua lời nói của con người với mưa trên mặt đất. Ngài khẳng định giáo huấn thần linh nhất thiết phải được ban từ lời nói của con người, thông qua chính việc dùng ngôn ngữ. Ngôn ngữ biểu lộ sự phức tạp, sự mơ hồ, sự vướng mắc, vốn là đặc trưng của sự tồn tại con người.

Với Thánh Augustinô, ngôn ngữ không chỉ là một công cụ: nó là nơi cứu rỗi, là lời cầu nguyện nội tâm, nơi Thiên Chúa mặc khải chính Ngài. Frédéric Bony

Là độc giả yêu chuộng Thánh Vịnh, Thánh Augustinô nhận ra trong những lời cầu xin, những câu hỏi, công việc của ngôn ngữ là lời cầu nguyện và ngợi khen. Và điều này dẫn ngài đến việc nhận ra Chúa Kitô là một nội tâm sâu thẳm hơn nội tâm của chính mình, theo câu nói nổi tiếng trong Tự Thú III, 6: “Nhưng Ngài còn sâu thẳm hơn cả nội tâm của con.” Ngôn ngữ của chúng ta là chiều kích thiết yếu của nội tâm. Nói, tự vấn (chính mình), là lắng nghe Lời thân mật đang nói với chúng ta, thông qua chính lời nói của chúng ta, ngay cả những lời tầm thường nhất, tuyệt vọng nhất, mở ra trong chúng ta một nội tâm yêu thương, sâu thẳm hơn cả chính chúng ta.

“Lời này được thụ thai bởi tình yêu” (De Trinitate IX). Lời này không phải là một ngôn ngữ nội tâm đơn giản, nhưng là Lời thân mật và yêu thương, đang chờ được lắng nghe, được thốt ra từ sâu thẳm bên trong chúng ta. Ngôn ngữ đích thực là lắng nghe vô tận này đối với điều mà tôi gọi là “lời yêu thương” đang nói trong chúng ta. Theo Thánh Augustinô, ngôn ngữ con người có được chiều kích tâm linh: trong cách sử dụng quen thuộc của nó, để gọi tên mọi vật trên thế gian, để làm cho người khác hiểu mình, tôi phải nghe thấy “Tôi được nói với” theo một cách nào đó.

Một Đấng Khác nói với tôi khi tôi nói. Và là một hữu thể của ngôn ngữ, tôi được Đấng Khác này nói. Chỉ khi đó, lời thú tội, mỗi lời tuyên xưng được hiểu là sự tự hiến và từ bỏ chính mình, thì ngôn ngữ mơ hồ của nhân loại (sermo humilis, theo cách nói của Thánh Augustinô) mới thực sự lên tiếng đến mức trở thành lời ngợi khen – mà sau đó chúng ta phải hiểu như một giải phóng bản ngã trong ngôn ngữ. Đây thực sự là ý nghĩa của lời thú tội, trước khi là một từ ngữ đức tin có thể phân biệt với những từ ngữ khác, nó tạo nên chính sự mở ra của chiều kích nơi những từ ngữ đức tin trở nên khả thi.

“Vẻ đẹp vừa cổ xưa vừa mới mẻ”: nỗi u sầu của người tín hữu

Một câu hỏi và vết thương lớn khác trong cuộc tìm kiếm của con người là thời gian, sự xé rách hay giãn nở của thời gian. Lời cầu nguyện nổi tiếng của Thánh Augustinô trong Chương X của quyển Tự Thú diễn tả nỗi u sầu của người tín hữu đang tìm kiếm, người được dẫn dắt đến việc nhận ra mình luôn được yêu trước khi yêu. “Quá muộn rồi, con đã yêu Chúa, Vẻ đẹp vừa cổ xưa vừa mới mẻ, Quá muộn rồi, con đã yêu Chúa. Nhìn kìa. Chúa ở bên trong, còn con ở bên ngoài tìm Chúa.”

“Tin là đầu hàng, nhờ đó tôi lắng nghe, tôi chú ý đến những gì tôi chưa hiểu”. Frédéric Boyer

Con đường khó khăn của tin là chào đón như mới những điều cũ

mà chúng ta đã chậm trễ nhận ra. Điều tôi đi tìm đã ở bên trong tôi, và tôi đã không nhận ra nó. Trong khoảnh khắc “quá muộn” này, tôi nghe thấy tất cả sự khiêm nhường của người có đức tin. Tôi đã chờ đợi, tôi đã đi tìm và chính tôi là người được tìm và được gọi. Tin không phải là một hành động vinh quang, một chiến thắng đáng ăn mừng, nhưng là thừa nhận một món nợ trong thời gian của con người: Tôi luôn được yêu thương, và tôi nhận ra điều này khi đã quá muộn. Tôi được dẫn dắt đúng lúc để tin vì ngay trước khi tin, chính tôi đã được tin tưởng và lắng nghe.

Nếu đức tin là tin tưởng, thì đức tin được sinh ra từ một niềm tin vô hạn được ban cho tôi ngay cả trước khi tôi tuyên xưng đức tin của tôi, ngay cả trước khi tôi bày tỏ chính mình. Sự nhận thức đau lòng về khoảnh khắc “quá muộn” này về tình yêu của chính chúng ta, về đức tin của chính chúng ta, cuối cùng chính là một hành động của đức tin: Vì thế tôi đã được yêu thương ngay cả trước khi tôi biết điều đó hoặc đã dám thừa nhận điều đó. Toàn bộ sự tồn tại của con người được ghi lại trong hành trình tạm thời này, dẫn chúng ta đến nhận thức muộn màng này, điều đã đổi mới tôi, điều đã kết nối tôi, theo một cách nào đó, với “cái mới mà cũ” – sức mạnh yêu thương vô hạn đã đi trước tôi. Và chính bằng cách khám phá ký ức sáng tạo của mình, chúng ta khám phá ra ký ức nguyên thủy về việc được yêu thương mãi mãi.

“Ai cũng muốn được hiểu, không ai không có mong muốn này; nhưng không phải ai cũng muốn tin. Người ta thường nói với tôi: Tôi phải hiểu để tin; tôi trả lời: Tin để hiểu. Đó là kiểu tranh luận giữa chúng ta” (Bài giảng XLIII, được biết đến với tên gọi “Về Đức Tin”). Đến lượt tôi bước vào cuộc tranh luận, tôi tự hỏi dấu khép đơn nổi tiếng này của Thánh Augustinô có nghĩa là gì. Tôi được khích lệ bởi chính Thánh Augustinô, người thừa nhận “chính con người mà tôi đang đối diện, người mà tôi đang tranh luận, không hoàn toàn xa lạ với chân lý khi họ nói: Tôi muốn hiểu để tin”. 

Nhưng nếu tin là điều kiện tiên quyết, vì tin là đầu hàng mà qua đó tôi lắng nghe, tôi chú ý đến những gì tôi chưa hiểu. Tin là lắng nghe, chú ý. Thậm chí tôi có thể nói tin là chăm sóc hay yêu thương. Vì thế tin không phải là hiểu, theo nghĩa với tư cách là người tín hữu, tôi sẽ có sự hiểu biết về một điều gì đó, nhưng đúng hơn là tôi khiêm nhường chấp nhận tôi không sở hữu gì cả và sẵn sàng lắng nghe. Tin rốt cuộc không phải là đánh cược nhưng là hành động của tình yêu, của từ bỏ và tin tưởng. Lắng nghe trước khi phán xét, lắng nghe trước khi tuyên bố hiểu. Có người sẽ hỏi tôi: tôi có phải hiểu để yêu không? Vậy thì tôi sẽ trả lời, trung thành với Thánh Augustinô và Phúc Âm: yêu để hiểu. “Chúa ở với con và con chưa ở với Chúa“ (Tự thú X, 38). Sự hiện diện phải trở nên hỗ tương để chấm dứt sự xé nát nội tâm, sự căng thẳng của tâm hồn.

Ý nghĩa của Kinh Thánh và Khiêm nhường của Tin

Theo Thánh Augustinô “Tin để hiểu” cũng áp dụng để đọc Kinh Thánh. Đọc Kinh Thánh là cuộc phiêu lưu vĩ đại của ngài, ngài kể lại những khó khăn, những khó hiểu trong các lần đầu tiên đọc Kinh Thánh. Chính sự mơ hồ của Kinh Thánh đã kích thích ngài suy nghĩ. Vấn đề không phải bằng mọi giá phải tìm ra một ý nghĩa rõ ràng, chung cho tất cả mọi người, nhưng tìm ra điều, như thể Lời Chúa được gởi đến cho cá nhân tôi, với những thiếu sót, điểm yếu và nhạy cảm của riêng tôi. Ở đây có thể nói, theo phong cách riêng của tôi, điều gì đặc trưng cho cách sống và tồn tại của tôi trên thế gian này cũng như cách tôi tin, phó thác bản thân cho niềm tin được đặt nơi tôi.

“Sự mơ hồ của lời Chúa có lợi thế là cho phép nhiều lời giải thích đúng đắn được hình thành và đưa ra ánh sáng, hiểu theo cách này hay cách kia để giúp chúng ta suy nghĩ”. (Thành phố của Chúa 11:19). Chân lý thì duy nhất, nhưng những biểu hiện của chân lý thì đa dạng, phù hợp với từng cảm nhận. Trong Chương XII, Thánh Augustinô lập luận về tính nguyên bản của Kinh Thánh và đưa ra những gì qua cái nhìn sâu sắc tuyệt vời về sự tiếp nhận và hiệu quả của Kinh Thánh, ngài viết: “Thiên Chúa duy nhất đã điều chỉnh văn chương thánh cho phù hợp với nhiều cảm quan khác nhau của chúng ta (multorum sensibus).” Sensus, trong tiếng La-tinh có nghĩa là cả tâm trí và cảm quan, suy nghĩ và tất cả những gì có thể cảm nhận được bằng giác quan. Kinh Thánh hướng đến những cảm quan đa dạng của chúng ta.

Mầu nhiệm của Kinh Thánh thích ứng với từng loại cảm quan. Những giọng nói và lời lẽ bí ẩn của Kinh Thánh không dành cho người kiêu ngạo, mà dành cho người khiêm nhường nhất – những người có đủ khiêm nhường để tin, lắng nghe những gì họ chưa biết. Mầu nhiệm càng sâu sắc hơn khi chúng ta đã thấu hiểu, đã sở hữu nhưng Kinh Thánh trở nên rõ ràng hơn khi tôi chiêm nghiệm bản thân, với lòng khiêm nhường. Theo Thánh Augustinô, Kinh Thánh là tấm gương để khám phá chính mình, ngài viết: “Kinh Thánh đã được ban cho chúng ta như một tấm gương.” Kinh Thánh là tấm gương của người tín hữu. Đức tin được trải nghiệm qua việc đọc Kinh Thánh. Một quyển sách trên trời (Tự Thú XIII, 18). Chính Thiên Chúa trở thành quyển sách, được trao ban cho “những trái tim chia rẽ đang hướng nhìn về vô tận”.

Marta An Nguyễn dịch

Quần vợt, gặp đông đảo giáo dân, hòa giải trong Giáo hội… Các công việc âm thầm của Đức Lêô trong những tháng đầu tiên

Tôn giáo ở Trung Quốc: Một tách rời lớn

Tôn giáo ở Trung Quốc: Một tách rời lớn

Hình minh họa

fr.zenit.org, Ban Biên tập, 2025-07-23

Trung Quốc, quốc gia ít tôn giáo nhất thế giới

Một thập kỷ thay đổi về tín ngưỡng và nhân khẩu học đã làm thay đổi sâu sắc bối cảnh tôn giáo toàn cầu. Đó là nội dung báo cáo toàn diện của Trung tâm nghiên cứu Pew được công bố ngày 9 tháng 6, đánh giá lại xu hướng toàn cầu về tôn giáo từ năm 2010 đến năm 2020.

Trong khi hầu hết các nhóm tôn giáo lớn đều phát triển, nhưng Trung Quốc vẫn là đất nước không phát triển về mặt tôn giáo.

Trung Quốc, quốc gia ít tính tôn giáo nhất thế giới

Trung Quốc, quốc gia đông dân nhất thế giới nhưng lại có tỷ lệ giáo dân thấp nhất thế giới. Theo phương pháp luận cập nhật của Trung tâm nghiên cứu Pew, năm 2020, 90% dân số Trung Quốc – khoảng 1,3 tỷ người – không theo tôn giáo nào.

Việc hiệu chỉnh này thách thức các giả định trước đây về bối cảnh tâm linh Trung Quốc và làm thay đổi đáng kể số liệu thống kê toàn cầu về đức tin và bản sắc tôn giáo.

Một định nghĩa mới: “zongjiao”

Biến động này không phải là kết quả của thay đổi trong chính tín ngưỡng nhưng do thay đổi trong phương pháp. Cho đến nay, việc đo lường mức độ mộ đạo ở Trung Quốc vẫn là một thách thức với các nhà nghiên cứu. Các cuộc khảo sát trước đây của Trung tâm nghiên cứu Pew đã kết hợp các hoạt động văn hóa, niềm tin cá nhân và các báo cáo về tâm linh, tạo ra một bức tranh sắc thái hơn nhưng không đồng nhất.

Trong báo cáo mới, Trung tâm Pew đưa ra một định nghĩa chặt chẽ: chỉ những người chính thức xác định mình theo một tôn giáo qua thuật ngữ tiếng Trung “zongjiao, tôn giáo”, một phân loại về mặt thể chế và pháp lý, mới được tính.

Một từ, với những hệ quả toàn cầu

Sự thay đổi về mặt ngữ nghĩa này có tác động lớn. Trong khi trước đây khoảng 50% người Trung Quốc tuyên bố mình không theo tôn giáo nào thì hiện nay con số này đã tăng lên gần 90%. Điều này giải thích vì sao, dù được cho là có sự phát triển Kitô giáo ở Trung Quốc, nhưng quốc gia này vẫn ở ngoài 10 quốc gia có nhiều người theo kitô giáo nhất thế giới, ngược với một số dự đoán của giới truyền thông.

Tuy nhiên, Nghiên cứu Pew thừa nhận có những hạn chế của cách tiếp cận mới này. Nhiều người Trung Quốc tham gia vào các hoạt động tâm linh hoặc theo các truyền thống tôn giáo nhưng họ không dùng danh xưng chính thức là “tôn giáo”. Trong bối cảnh các hoạt động tôn giáo chưa đăng ký bị hạn chế, việc miễn cưỡng tuyên bố tư cách thành viên – đặc biệt với những người theo kitô giáo hầm trú – có thể làm sai lệch kết quả.

Sự trỗi dậy của các tổ chức phi liên kết trên toàn thế giới

Sự định nghĩa lại này cũng có tác động toàn cầu. Với Trung Quốc dẫn đầu, hiện nay số lượng người không theo tôn giáo nào trên thế giới đã lên tới 1,9 tỷ người, làm cho nhóm này thành nhóm lớn thứ ba sau nhóm theo Thiên chúa giáo (2,3 tỷ người) và nhóm Hồi giáo.

Một thế giới tôn giáo đang tái cấu trúc

Người Hồi giáo có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong thập kỷ vừa qua (+347 triệu), họ chiếm 25,6% dân số thế giới. Những người theo Thiên chúa giáo vẫn là nhóm chiếm đa số (28,8%), nhưng tỷ lệ tương đối của họ đang giảm, một phần là do họ không theo tôn giáo, đặc biệt là ở phương Tây.

Nghiên cứu Pew cho biết, cứ một người trưởng thành sang kitô giáo thì có hơn ba người bỏ đức tin. Hiện tượng này chủ yếu ảnh hưởng đến thế hệ trẻ ở Bắc Mỹ, Châu Âu và một số khu vực ở Châu Á.

Sự thay đổi của trung tâm kitô giáo

Trọng tâm của kitô giáo đã thay đổi đáng kể. Năm 2020, chỉ có 22% người theo kitô giáo sống ở Châu Âu, so với 66% của thế kỷ trước. Ngược lại, 31% tín hữu hiện nay ở Châu Phi cận Sahara và 24% ở Châu Mỹ Latinh và vùng Caribê.

Sự chuyển đổi này đánh dấu sự phân cấp kitô giáo ra khỏi phương Tây, một xu hướng dự kiến sẽ tăng mạnh trong những thập kỷ tới.

Tương lai bất định của tôn giáo ở Trung Quốc

Ở Trung Quốc, tương lai tâm linh vẫn khó có thể dự đoán. Dù đời sống tôn giáo ngầm có thể năng động hơn những con số cho thấy, nhưng tính mờ ám của hệ thống và sự kiểm soát của nhà nước làm cho bất kỳ đánh giá đầy đủ nào cũng không chắc chắn.

Hiện tại, trên lý thuyết, Trung Quốc vẫn là quốc gia có tỷ lệ tín hữu thấp nhất thế giới – một tình trạng tiếp tục phân phối lại sự cân bằng tâm linh toàn cầu.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Đứng trước chiến tranh, “kitô giáo có những phương tiện để mang lại ý nghĩa”

Hồng y Philippe Barbarin: “Giáo hoàng tiếp theo phải là một mục tử, một thần học gia vững vàng”

Đứng trước chiến tranh, “kitô giáo có những phương tiện để mang lại ý nghĩa”

Đứng trước chiến tranh, “kitô giáo có những phương tiện để mang lại ý nghĩa”

lepelerin.com, Christophe Chaland, 2025-07-23

Hình ảnh @ Văn phòng Tổng thống Ukraine/DPA/Sipa

Tu sĩ Bernard Bourdin, Dòng Đa Minh, nhà sử học tư tưởng, triết gia, giáo sư triết học chính trị tại Học viện Công giáo Paris tìm hiểu về những giới hạn của chủ nghĩa hòa bình và các vấn đề đạo đức của xung đột vũ trang.

Đức Lêô XIV đã tiếp Tổng thống Ukraine Zelensky hai lần: tháng 5 cùng với vợ và tháng 7, ngài cho biết ngài sẵn sàng “chào đón đại diện Nga và Ukraine đến Vatican để đàm phán” Ngày nay, người tín hữu kitô có thể nghĩ gì về chiến tranh?

Phỏng vấn Linh mục Bernard Bourdin

Ngày nay người tín hữu kitô có thể đóng góp như thế nào vào việc suy ngẫm về đạo đức trong chiến tranh?

Linh mục Bernard Bourdin: Người có đạo phải tìm lại lương tâm lịch sử, hay nói cách khác là la bàn. Ở Hoa Kỳ, cũng như ở Châu Âu, một chủ nghĩa Công giáo cực kỳ bảo thủ, phản văn hóa đang nổi lên, trái ngược với chủ nghĩa Công giáo “mỉm cười”, nhân văn mà phong trào hòa bình bắt nguồn từ đó.

Nhưng chúng ta hoài niệm bản sắc lý tưởng hóa lịch sử, trong khi những người theo chủ nghĩa hòa bình phủ nhận sự phức tạp của thực tế. Sự cứng nhắc này cho thấy một khủng hoảng bản sắc, trong một thế giới mà chúng ta không còn la bàn nữa. Bây giờ, kitô giáo đã đi vào lịch sử, đã hướng tới thành tựu của mình nên kitô giáo đã có phương tiện mang lại ý nghĩa.

Đức Phanxicô đã có nhiều nhận xét mang tính hòa bình. Đây có phải là sự thay đổi so với phương pháp giảng dạy của những người tiền nhiệm của ngài không?

Đúng, Đức Phanxicô đã thể hiện chủ nghĩa hòa bình cấp tiến, vượt xa giáo huấn của các giáo hoàng tiền nhiệm, ngay cả khi nó nằm trong khẩu hiệu nổi tiếng “không bao giờ tái diễn chiến tranh” của Đức Phaolô VI tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc năm 1965.

Trong thông điệp Tất cả là anh em (Fratelli tutti, ngày 3 tháng 10 năm 2020), ngài xem học thuyết về chiến tranh chính nghĩa mà Giáo hội áp dụng để đánh giá tính đạo đức của chiến tranh là lỗi thời: “Rất khó để bảo vệ các tiêu chí hợp lý, đã trưởng thành trong những thời đại khác, để nói về một ‘cuộc chiến tranh chính nghĩa’ có thể có” (§258).

Tuy nhiên, ngài không thay đổi cách diễn đạt của Sách Giáo lý Giáo hội Công giáo về vấn đề này (§2309), nhưng với ngài, mọi cuộc chiến tranh đều bất công.

Điều kiện để có một “chiến tranh chính nghĩa” theo Giáo hội công giáo là gì?

Trước hết, chỉ có người nắm giữ quyền lực tối cao, theo đúng thủ tục hiến pháp, mới có thể tuyên bố chiến tranh. Sau đó, hành động này phải xuất phát từ một “lý do chính đáng”, mà lý do cuối cùng dựa trên nguyên tắc tự vệ. Cuối cùng, mục tiêu là phải hướng đến hòa bình. Vào thế kỷ 16, thời điểm người theo đạo Thiên chúa chinh phục Tân Thế giới, sự suy ngẫm về chiến tranh chính nghĩa đã được mở rộng sang cách thức tiến hành chiến tranh, từ đó hình thành nên luật lệ trong chiến tranh.

Đức Phanxicô đã dùng sức mạnh của vũ khí hiện đại như một lập luận để lên án mọi cuộc chiến tranh…

Trong thông điệp Thông điệp Tất cả là anh em Fratelli Tutti được công bố khi Azerbaijan xâm lược Nagorno-Karabakh, vì lý do này, Đức Phanxicô đánh giá “rủi ro của chiến tranh lớn hơn lợi ích giả định chiến tranh mang lại”. Mục đích của chủ nghĩa hòa bình – từ chối chiến tranh – là tốt, nhưng quan điểm này lại trái ngược với thực tế. Một dân tộc hoặc một quốc gia bị tấn công có quyền tự vệ.

Hơn nữa, việc bác bỏ bất kỳ tiêu chuẩn đạo đức nào cho chiến tranh cũng có nghĩa là đưa chiến tranh vào sự vô đạo đức hoàn toàn, và để lại cơ hội cho những kẻ biện minh bằng cách cầu khẩn Chúa. Ngược lại, chúng ta phải tìm kiếm tiêu chuẩn khách quan cho hành động đạo đức.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Tôn giáo ở Trung Quốc: Một tách rời lớn

Hồng y Philippe Barbarin: “Giáo hoàng tiếp theo phải là một mục tử, một thần học gia vững vàng”

Hồng y Philippe Barbarin: “Giáo hoàng tiếp theo phải là một mục tử, một thần học gia vững vàng”

Hồng y Philippe Barbarin: “Giáo hoàng tiếp theo phải là một mục tử, một thần học gia vững vàng”

parismatch.com, Arthur Herlin, 2025-04-30

Hồng y Philippe Barbarin

Hồng y Barbarin giải thích các điểm mấu chốt của mật nghị bầu người kế vị Đức Phanxicô ngày 7 tháng 5-2025.

Đã có lúc tên tuổi của ngài được lan truyền khắp các hành lang Vatican. Hôm nay, Hồng y Philippe Barbarin, 74 tuổi, đã trả mũ miện Tổng giám mục Lyon – ngài được tuyên trắng án trong phiên phúc thẩm, trong đó ngài bị cáo buộc không báo cáo các tội ác tình dục trẻ em của linh mục Bernard Preynat. Bây giờ ngài sống yên bình tại Dòng Nữ Tu Người Nghèo, trong tĩnh lặng rì rào của vùng nông thôn Rennes. Không còn mặc áo tím hồng y, nhưng với đôi mắt tinh tường hơn bao giờ trên ván bài bầu người kế nhiệm Đức Phanxicô, người đã qua đời ngày 21 tháng 4, thọ 88 tuổi.

Là người đã dự hai mật nghị, bạn tâm giao của nhiều nhà lãnh đạo Giáo hội, người am hiểu các bí ẩn của Vatican, ngài kể tâm sự của ngài với sự thẳng thắn đã tạo nên dấu ấn của ngài. Ngài tự cho mình là người “thanh thản, không quan tâm đến sự sống còn của Giáo hội. Giáo hội là một cơ thể sống động và hoạt động. Sứ mệnh của hồng y chúng tôi là đơn giản tìm ra người phù hợp cho giai đoạn mới này”. Ngài giải thích: “Tôi ý thức trách nhiệm cử tri của tôi: phải luôn chú ý và cân nhắc kỹ lưỡng.”

Trong Hồng y đoàn, cha cảm thấy gần gũi với các hồng y nào?

Hồng y Philippe Barbarin: Ở Pháp, chúng tôi may mắn có các hồng y có tầm vóc cao như Hồng y François Bustillo và Jean-Marc Aveline – họ rất vững vàng. Chúng tôi có cùng nhạy cảm mục vụ khi tôi nghe các ngài nói về đời sống mục vụ của họ, họ nói một ngôn ngữ gần ngôn ngữ của tôi: đó là tiếng mẹ đẻ của tôi trong Giáo hội.

Hồng y Aveline có là ứng viên tiềm năng cho mật nghị tiếp theo không?

Chắc chắn Hồng y Aveline là người có tiềm năng cao. Nhưng tôi phải nói, trong các thảo luận tôi tham dự, tên của ngài chưa được nhắc đến nhiều. Tôi không thấy có hồng y nào công khai vận động cho ngài.

Tuy nhiên, cha có nghĩ ngài có thể thu hút sự chú ý của các hồng y Nam Mỹ hoặc châu Á không?

Phải công nhận quốc tịch Pháp của ngài có thể là một trở ngại. Trong lịch sử, nước Pháp thường bị cho là có khuynh hướng bá quyền, không phải lúc nào cũng được đánh giá cao trong các giáo hội quốc tế.

Ngay cả khi chúng ta có một nhân vật đặc biệt như Hồng y Lustiger, người có ảnh hưởng đáng kể, cũng không chuyển qua ủng hộ đáng kể trong các mật nghị trước đây. Hồng y Aveline chắc chắn có những phẩm chất được đánh giá cao, nhưng ngài không có cùng tầm vóc quốc tế. Nếu so sánh, tôi nghĩ Hồng y Bustillo được các hồng y cử tri chú ý nhiều hơn.

Trên bình diện quốc tế, cha đặc biệt chú ý đến mục tử nào?

Gần đây các mối quan hệ của tôi tập trung vào một phạm vi khá rõ ràng. Dĩ nhiên tôi có mối quan hệ thân thiết với các Hồng y người Pháp vì chúng tôi cùng sống trong chủng viện Pháp ở Rôma. Đặc biệt tôi có mối quan hệ đặc biệt với Hồng y Madagascar, Désiré Tsarahazana, người tôi biết rõ. Một số hồng y người Đức như Hồng y Reinhard Marx, Tổng Giám mục Munich, bạn học cũ của tôi. Tôi thân thiết với Hồng y Louis Rafael Sako, Thượng phụ Baghdad người Chalđê, ngài có trí tuệ tuyệt vời và tôi có cơ hội gặp gỡ thường xuyên. Tôi hiểu rõ đất nước của ngài và những thách thức ngài phải đối diện, ngài luôn biết ơn chúng tôi luôn giúp đỡ ngài trong những tình huống khó khăn.

Mặt khác, tôi biết tương đối ít về thế giới ngoại giao của Tòa thánh. Trong số các sứ thần, tôi đặc biệt liên lạc với Tổng giám mục Jean-Christophe Pierre, vì ngài là người Pháp, nhưng nhất là ngài sống ở Saint-Malo, rất gần nhà tôi. Chúng tôi mời nhau ăn tối, nhưng môi trường ngoại giao này không thực sự là thế giới tôi ưa thích. Mục vụ của tôi là Giám mục tại Moulins, sau đó là Tổng giám mục Lyon, trước đó là cha xứ. Khi các nhà ngoại giao nói chuyện với nhau, họ nói đến các tòa sứ thần, các văn phòng tại Rôma, ngoại giao Vatican… Sứ vụ của tôi luôn hướng về giáo dân, giới trẻ, tôi tổ chức các cuộc hành hương, tham gia các Ngày Quốc tế, Ngày Thế Giới Trẻ. Chính chiều kích mục vụ trực tiếp này đã định hình tầm nhìn của tôi về Giáo hội.

Cha có cảm nhận được những căng thẳng trong Hồng y đoàn không, liệu có sự hiệp thông thực sự giữa các hồng y không?

Tôi nghĩ chúng ta đang ở thời điểm quyết định, khi chúng ta cùng nhau nhận thức được trách nhiệm của mình. Dĩ nhiên có những nhạy cảm khác nhau giữa chúng tôi, nhưng tôi không xem đây là căng thẳng. Chẳng hạn, Hồng y Phi Luật Tân Antonio Tagle, người được nhắc đến nhiều, và các ứng viên tiềm năng khác, xuất thân khác nhau, có cách tiếp cận khác nhau. Nếu Hồng y Tagle kế nhiệm Đức Phanxicô, như thế có một tiếp nối, nhưng ngài sẽ có quan điểm riêng của ngài.

Theo cha, một giáo hoàng Châu Phi có khả thi không?

Hoàn toàn có thể. Tôi không khẳng nhất thiết điều này sẽ xảy ra hoặc nên mong muốn hơn bất kỳ lựa chọn nào khác, nhưng chắc chắn điều này có thể xảy ra ngày nay, và một lựa chọn như vậy sẽ được Giáo hội hoàn vũ nồng nhiệt đón nhận. Giáo hoàng tiếp theo có thể là người Châu Âu, Châu Phi, Châu Á… Một người Mỹ có lẽ sẽ phức tạp hơn vì lý do địa chính trị.

Cha có nghĩ nên bầu một hồng y lớn tuổi để đảm bảo một triều “chuyển tiếp” không?

Cá nhân tôi, dù tôi có thể sai, nhưng tôi có khuynh hướng bầu một hồng y dưới 70 tuổi. Đơn giản chỉ là trực giác của tôi, không có bất kỳ thông tin cụ thể nào. Giáo hội đang đối diện với những thách thức đáng kể, có thể đòi hỏi một triều kéo dài để có một tầm nhìn nhất quán.

So với các mật nghị trước đây, cha có nghĩ các hồng y ngày nay ít biết nhau hơn không?

Thực sự tôi không thể bình luận về mức độ quen biết giữa các hồng y. Cá nhân tôi, tôi không biết rõ tất cả. Bây giờ tôi đã xa các sinh hoạt thường lệ như các thượng hội đồng, các cuộc họp quốc tế khác, tôi ít có dịp tương tác thường xuyên với các đồng nghiệp của tôi.

Các cuộc nói chuyện tiền mật nghị đã bắt đầu chưa?

Cho đến nay, tôi chưa thấy có động thái nào, chưa ai liên lạc với tôi để bàn nên bỏ phiếu cho ai. Các cuộc thảo luận vẫn còn tự nhiên ở giai đoạn này. Tình hình có thể sẽ thay đổi khi tất cả chúng tôi ổn định ở Nhà Thánh Marta. Đây thường là lúc các hồng y bắt đầu thoải mái trao đổi sở thích. Dĩ nhiên, chúng tôi gặp nhau qua những điểm tương đồng, cùng ăn với nhau, cùng đi dạo ngoài vườn với nhau, những giây phút thân mật này làm các cuộc trò chuyện được riêng tư và cởi mở hơn.

Tôi nhớ năm 2005, Hồng y Christoph Schönborn đã đến nói chuyện với tôi để xin tôi ủng hộ Hồng y Ratzinger. Tôi trả lời: “Nhưng Christoph, tôi nghĩ anh sẽ bỏ phiếu cho Ratzinger!”

Sự gần gũi về mặt trí tuệ và cá nhân giữa hai người là điều ai cũng biết. Tuy nhiên, tôi đánh giá cao cách tiếp cận của ngài, điều này không làm tôi ngạc nhiên nhưng thể hiện sự thẳng thắn đáng chú ý. Những trao đổi này là một phần của quá trình phân định tập thể thông thường. Chúng tôi hiểu nhau ở các mức độ khác nhau, điều này tự nhiên ảnh hưởng đến các tương tác của chúng tôi. Chẳng hạn với Hồng y Marx, chúng tôi có tình bạn lâu năm từ ngày chúng tôi cùng đi học. Khi tôi 20 tuổi, ngài thường đến nhà cha mẹ tôi. Rõ ràng mối quan hệ lâu dài này có một gần gũi đặc biệt, điều này rất quan trọng trong những lúc như thế này.

Hồng y nào sẽ được cha ủng hộ?

Tân Giáo hoàng phải có hai phẩm chất cơ bản: một mục tử đích thực, một thần học gia vững vàng. Chúng ta cần người gần gũi với dân Chúa và người có một hiểu biết thần học sâu sắc, vì họ sẽ tiếp tục là tiến sĩ đức tin, người có những lời giảng dạy có giá trị. Với tôi, Đức Gioan-Phaolô II là hiện thân của hình ảnh này: mục tử không biết mệt mỏi, đi thăm các giáo hội địa phương mang đến những lời giảng dạy sâu sắc. Dĩ nhiên quan điểm của ngài mang đậm dấu ấn văn hóa Ba Lan, vốn có phần khác biệt với văn hóa chúng ta, nhưng lời giảng dạy của ngài sâu sắc và lâu dài. Các tác phẩm của ngài vẫn còn được đọc và suy ngẫm cho đến ngày nay, một minh chứng cho giá trị thần học trường tồn của ngài. 

Trong mật nghị trước, cha đã nói: “Vì sao không bầu một giáo hoàng Chính Thống giáo?” cha vẫn còn tin vào điều này?

Tôi nghĩ ngày nay, một cởi mở đại kết thực sự đang phát triển trong Giáo hội. Chúng ta đã ý thức chúng ta không thể tiếp tục khép kín trong những ngăn cách truyền thống nữa.

Được vinh dự chào đón Đức Thượng phụ Constantinople đến Lyon, tôi đã có thể phát triển một mối quan hệ gần gũi và một đối thoại hiệu quả với các anh em Chính Thống giáo. Đó là lý do vì sao tôi tin một Giáo hoàng xuất thân từ Chính Thống giáo sẽ là dấu hiệu cho một tấm gương hiệp nhất phi thường cho kitô giáo. Một nhân cách như vậy chắc chắn sẽ có khôn ngoan và nhạy bén thần học cần thiết để đảm nhận chức vụ này một cách sáng suốt.

Tuy nhiên, tôi phải công nhận viễn cảnh này vẫn khó có thể xảy ra trong tương lai gần. Chúng ta vẫn thường bị trói buộc bởi những thói quen thể chế và sự miễn cưỡng mang tính lịch sử. Nhưng Chúa Thánh Thần liên tục kêu gọi chúng ta vượt qua các  rào cản này để tiến bước trên con đường hiệp nhất mà Chúa Kitô mong đợi.

Cha nghĩ gì về Hồng y Pietro Parolin, được nhiều nhà quan sát cho là một trong những ứng viên sáng giá cho chức vụ Giáo hoàng?

Tôi không nghĩ Hồng y Parolin là Giáo hoàng tiếp theo, xuất phát từ lý do cơ cấu hơn là lý do cá nhân. Là Quốc vụ khanh, vai trò của ngài là nền tảng cho việc quản trị hàng ngày của Vatican. Chính ngài phải đảm bảo bộ máy hành chính hoạt động hiệu quả, nhưng kết quả của ngài vẫn chưa đáp ứng được mong chờ. Hơn nữa, sứ mệnh Giáo hoàng mang một bản chất khác – phải hướng đến Giáo hội hoàn vũ và toàn thế giới. Chức vụ Giáo hoàng đòi hỏi một tầm nhìn mục vụ toàn diện, trong khi Quốc vụ khanh phải tập trung vào việc tổ chức nội bộ của Giáo triều Rôma.

Mỗi cơ quan đều đòi hỏi có các người có năng lực chuyên môn và kỹ năng lãnh đạo đặc biệt. Trong Giáo lý Đức tin, cũng như trong Phủ Quốc vụ khanh, chúng ta cần những nhân vật có tầm vóc trí tuệ và kỹ năng lãnh đạo xuất chúng. Thành thật mà nói, tôi thấy Hồng y Parolin, dù có năng lực, nhưng thiếu phẩm chất lý tưởng được mong chờ ở một Quốc vụ khanh, chứ đừng nói đến một Giáo hoàng.

Theo cha, mật nghị sắp tới sẽ kéo dài?

Trước tiên, tôi không nghĩ như vậy. Tôi nghĩ sẽ khá nhanh chóng. Tuy nhiên, chúng ta phải thận trọng, vì sự tắc nghẽn luôn có thể xảy ra. Và đừng quên quy tắc hai phần ba: 88 hồng y phải đồng ý về một ứng viên, đây là mốc đáng kể.

Trong các mật nghị gần đây, chúng ta đã thấy sự hội tụ tương đối nhanh chóng. Năm 2005, Hồng y Ratzinger đã có 47 phiếu trong vòng đầu tiên, trong khi các ứng viên đối thủ gần nhất của ngài chỉ có từ 15 đến 18 phiếu, các ứng cử viên khác chia nhau vài phiếu lẻ tẻ. Mô hình này rõ ràng báo hiệu một cuộc bầu cử nhanh chóng. Với Đức Phanxicô cũng vậy, một sự đồng thuận đã xuất hiện khá nhanh chóng.

Ngay từ buổi tối đầu tiên của mật nghị, chúng tôi đã có cái nhìn rõ ràng về phiếu bầu, điều này rất quan trọng. Đó là khoảnh khắc của sự thật: trước mật nghị, giới truyền thông tuyên bố biết tất cả mọi thứ nhưng họ lại chẳng biết gì; ngay từ buổi tối đầu tiên mật nghị, chúng tôi đã biết chính xác số phiếu bầu sẽ đi về đâu, trong khi các nhà báo vẫn còn mù tịt.

Và tôi có thể nói với quý vị, ngay tối hôm đó, tại Nhà Thánh Marta nơi chúng tôi ở, các câu chuyện đặc biệt sôi nổi sau khi bí mật bỏ phiếu được gỡ bỏ. Cá nhân tôi, tôi luôn bỏ phiếu bằng cách tự hỏi: “Nếu ứng viên này trở thành giáo hoàng, tôi có vui mừng cho Giáo hội không?. Nhưng điều chắc chắn là chúng tôi sẽ ngủ ngon hơn sau khi Giáo hoàng được bầu!”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Đứng trước chiến tranh, “kitô giáo có những phương tiện để mang lại ý nghĩa”

Tôn giáo ở Trung Quốc: Một tách rời lớn

Bổ nhiệm một linh mục bị kết tội hiếp dâm: Hội đồng Giám mục Pháp không chấp nhận lập luận của Tổng Giám mục Toulouse

Bổ nhiệm một linh mục bị kết tội hiếp dâm: Hội đồng Giám mục Pháp không chấp nhận lập luận của Tổng Giám mục Toulouse

Trong thông cáo báo chí công bố ngày chúa nhật 10 tháng 8, Hội đồng Giám mục Pháp thông báo đã yêu cầu Tổng Giám mục Guy de Kérimel của Toulouse “xem lại quyết định của ngài” liên quan đến việc bổ nhiệm một linh mục bị kết tội hiếp dâm năm 2006 làm chưởng ấn của giáo phận.

lavie.fr, Laurence Desjoyaux, 2025-08-11

Tổng Giám mục Guy de Kerimel trong thánh lễ thánh hiến bảo vệ thành phố ngày 16 tháng 10 năm 2024. Barange Nathan /ABACA

Sau một tháng im lặng về vụ linh mục Dominique Spina bị kết án hiếp dâm trẻ vị thành niên năm 2006 được bổ nhiệm làm Chưởng ấn Giáo phận Toulouse vào đầu tháng 6 năm 2025, trong một thông điệp được công bố ngày 10 tháng 8, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Pháp (CEF) giải thích Hội đồng “đã có cuộc đối thoại mang tính xây dựng với Tổng giám mục Guy de Kerimel, giáo phận Toulouse xin ngài xem lại quyết định ngài đưa ra liên quan đến việc bổ nhiệm Chưởng ấn trong giáo phận. Trong một thông điệp cực kỳ hiếm hoi vừa hình thức và nội dung, Hồng y Jean-Marc Aveline, tân chủ tịch Hội đồng Giám mục Pháp vừa nhậm chức ngày 1 tháng 7 – và hai phó chủ tịch Vincent Jordy, Tổng Giám mục Tours, Benoỵt Bertrand, Giám mục Pontoise, trước tiên nhắc lại Giáo hội công giáo “trong nhiều năm qua, đã can đảm đi theo con đường sự thật trong vấn đề đau lòng của các vụ lạm dụng xảy ra trong hàng ngũ của mình. Điều rất quan trọng là phải tiếp tục công việc này trong mọi lãnh vực của đời sống giáo hội.”

Theo các ngài, thể chế đã học được cách “nhìn nhận các sự kiện từ cái nhìn của nạn nhân, họ đã gánh chịu hậu quả cho cuộc sống của họ. Sự thay đổi quan điểm: thương cảm lắng nghe nỗi đau, nỗi thống khổ của họ, khiêm nhường chấp nhận đi theo con đường sự thật với họ, đã khởi đầu một quá trình hoán cải lâu dài và đầy thử thách, và chúng tôi quyết tâm tiếp tục”.

Trong bối cảnh này, thông báo không hề nhắc đến tên của linh mục được bổ nhiệm hay nhắc lại những cáo buộc mà linh mục này bị kết án năm 2006: hiếp dâm trẻ vị thành niên. Giáo dân nghĩ rằng việc bổ nhiệm linh mục Dominique Spina vào địa vị quan trọng như vậy, cả về mặt giáo luật lẫn biểu tượng, chỉ làm khơi dậy vết thương, nghi ngờ và gây hoang mang cho giáo dân.

Xáo trộn trong lòng giáo dân…

Việc bổ nhiệm linh mục Dominique Spina bị kết án tội hiếp dâm năm 2006 (linh mục đã thụ án 5 năm tù và một năm án treo) làm Chưởng ấn Giáo phận Toulouse đã tạo làn sóng phản đối dữ dội trong cộng đồng công giáo và nhiều nơi khác. Trong một thông cáo báo chí công bố ngày 7 tháng 7, Tổng giám mục Guy de Kerimel, nhắc lại mức độ nghiêm trọng của tội ác đã biện minh cho quyết định của ngài: “Liệu có thể thương xót một linh mục đã phạm tội trọng cách đây 30 năm, và từ đó đến nay đã có lòng vị tha và chính trực trong công việc phục vụ cũng như trong quan hệ với cấp trên và đồng nghiệp không?” Ngài nghĩ rằng vị trí này là phù hợp: “Chưởng ấn là người ẩn mình trong bóng tối của giáo phận; chưởng ấn không có vai trò lãnh đạo, và không thể được xem là một thăng chức, như một số phương tiện truyền thông đã đưa ra.”

Lập luận và việc dùng thuật ngữ “lòng thương xót” đã không dập tắt tranh cãi, nhưng lại làm khó hiểu và khơi dậy các cuộc biểu tình nội bộ. Hiệp hội Nói và Sống lại (Parler et revivre) đại diện cho các nạn nhân bạo lực tình dục trong Giáo hội lên án: “Đây là thất bại nghiêm trọng về mặt thể chế. Chúng tôi lo ngại trước sự im lặng của Hội đồng Giám mục Pháp, một số giám mục trong riêng tư đã bày tỏ “sự khó hiểu” của họ.

Trong một sự kiện cực kỳ hiếm hoi, nếu không muốn nói là chưa từng có, vì thông lệ giữa các giám mục là tôn trọng quyền tự chủ của mỗi cá nhân trong giáo phận, họ không bao giờ công khai bình luận về quyết định của đồng nghiệp, Giám mục Viviers, Hervé Giraud, đã nhân cơ hội này lên tiếng trên mạng xã hội Bluesky và sau đó trên các chuyên mục của báo La Vie ngày 22 tháng 7 lên án việc bổ nhiệm này: “Phản ứng đầu tiên của tôi là nghĩ đến các nạn nhân. Giống như nhiều người khác, tôi vô cùng kinh ngạc trước việc bổ nhiệm này. Sau bao nhiêu năm chúng ta đã có ý thức, đã có các báo cáo của Ủy ban Độc lập về các vụ Lạm dụng tình dục trong Giáo hội Pháp (Cisase), làm sao một linh mục có tội, dù đã thụ án, lại được bổ nhiệm vào một vị trí đòi hỏi phải có ‘uy tín liêm chính’ được?”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

 “Làm sao có thể chấp nhận một linh mục bạo lực, dù đã thụ án lại được đối xử tốt hơn nạn nhân?”

 

Ba triệu chứng cho biết bạn đang mắc chứng trống rỗng thiêng liêng

Ba triệu chứng cho biết bạn đang mắc chứng trống rỗng thiêng liêng

fr.aleteia.org, Mónica Munoz, Anna Ashkova, 2025-08-02

Sự trống rỗng thiêng liêng thường ít được nhận ra.

Mỗi ngày, đủ loại tin tức tràn ngập mạng xã hội. Trong hành trình đi tìm những chuyện hữu ích, nhiều người bị các tin vô nghĩa này chi phối, lập tức chúng in sâu vào tâm trí và lấn chiếm tâm hồn. Nhu cầu không ngừng nghỉ và vô độ này thường bắt nguồn từ sự trống rỗng thiêng liêng. Dù hiển nhiên, nhưng không phải ai cũng nhận thức được sự trống rỗng này trong đời sống của mình. Nhưng sự trống rỗng này thường không được để ý đến. Cũng như nhiều căn bệnh khác, căn bệnh này cũng có các triệu chứng riêng của nó.

Nhiều chia trí không cần thiết làm chúng ta xa rời chân lý và có thể tạo nguy hiểm thực sự cho những ai vô tình mắc phải chứng trống rỗng thiêng liêng. Đây là ba triệu chứng chính giúp chúng ta biết tình trạng này.

1. Bất mãn kinh niên

Đây là triệu chứng dễ nhận thấy nhất. Nó thường được thấy ở những người có tất cả trong cuộc sống: sự nghiệp thành công, tình yêu, bạn bè, của cải vật chất, sức khỏe… nhưng sâu thẳm bên trong, đương sự vẫn cảm thấy thiếu thốn. Bất mãn kinh niên và không được đáp ứng thỏa đáng, sách Giảng viên đã viết: Mọi nỗi khó nhọc của con người đều nhằm nuôi cái miệng. Nhưng sự thèm muốn của họ có bao giờ được hoàn toàn thoả mãn đâu! (Gv 6:7).

Giải pháp:  Lòng biết ơn

Ý thức được cảm giác bất mãn này là bước đầu tiên. Tạ ơn Chúa về những gì chúng ta đã nhận giúp xoa dịu sự trống rỗng này. Hơn nữa, việc mở lòng đón nhận sự hiện diện của Chúa giúp chúng ta được nghỉ ngơi sâu xa mà của cải vật chất hay thành tựu của con người không thể mang lại.

2. Ước ao phát triển

Trong các trường hợp này, dù chúng ta cố gắng lấp đầy khoảng trống nhưng cảm giác thiếu thốn vẫn tồn tại. Và không có giới hạn tuổi nào cho sự thiếu thốn này, từ các bạn trẻ được có tất cả, từ những người đấu tranh để thành công, từ những người trưởng thành liên tục đối diện với thử thách để được nổi tiếng, tất cả đều cảm thấy không có gì có thể thỏa mãn họ. Tiên tri I-saia đã báo động về chuyện này: “Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống, tốn công lao vất vả vào thứ chẳng làm cho chắc dạ no lòng? Hãy chăm chú nghe Ta, thì các ngươi sẽ được ăn ngon, được thưởng. (Is. 55, 2) Người thích tiền bạc có bao nhiêu cũng không lấy làm đủ; kẻ bo bo giữ của chẳng thu được lợi lộc gì. Điều ấy cũng chỉ là phù vân! (Gv 5:9).

Giải pháp: Tìm nguồn thỏa mãn đích thực nơi Chúa, ý thức những cố gắng của con người không đủ để thỏa mãn khát vọng sâu xa này. Hướng về Chúa, nguồn sống và bình an vô tận giúp chúng ta thỏa mãn cơn khát này. Đầu phục Ngài, thay vì theo đuổi những mục tiêu hão huyền, sẽ mở cho chúng ta cánh cửa để có được sự thỏa mãn lâu dài và đích thực.

3. Chạy đua với những điều phù phiếm

Đối diện với tình trạng trống rỗng tâm hồn, nhiều người tìm cách lấp đầy cuộc sống của mình, nhưng họ lại làm với những chuyện tầm thường thay vì hướng về Chúa. Bị cản trở bởi đủ chướng ngại ngăn cản họ hướng về Chúa, họ thích đắm chìm trong những thứ làm tê liệt giác quan hơn là sáng suốt nhận ra chỉ có Chúa mới cho họ có những gì họ cần. Tiên tri Êdêkiel có những lời gay gắt về vấn đề này: “Tiền bạc chúng sẽ quẳng ra đường phố; vàng sẽ biến thành đồ uế tạp. Trong ngày Chúa nổi cơn thịnh nộ, bạc vàng của chúng sẽ không cứu nổi chúng. Chẳng có gì làm cho chúng no lòng thoả dạ, vì vàng bạc là cớ làm cho chúng phạm tội” (Ed 7:19).

Giải pháp: Hướng về Chúa

Chúa yêu thương chúng ta vô hạn và mong muốn chúng ta hiểu rằng chỉ có Ngài mới có thể đáp ứng những nhu cầu của chúng ta. Những ai khiêm nhường nhìn nhận sự bất lực của mình sẽ tìm thấy sự an ủi nơi Ngài. “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11:28). Nguyện xin đời sống chúng ta được trọn vẹn trong Chúa và vì Chúa, vì ai có Ngài thì không thiếu thốn gì.

Nhận thức được các triệu chứng trống rỗng này sẽ mở ra cánh cửa cho một biến đổi sâu sắc: hướng về Chúa, nguồn mạch vô tận của tình yêu và bình an, tâm hồn sẽ được phong phú mà không điều gì khác có thể mang lại.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Không có gì mạnh mẽ bằng sự dịu dàng

Bổ nhiệm một linh mục bị kết tội hiếp dâm: Hội đồng Giám mục Pháp không chấp nhận lập luận của Tổng Giám mục Toulouse

 

Bài mới nhất