Sự xóa mờ tôn giáo và chiến thắng của thuyết tương đối

Hình minh họa
lanuovabq.it, Luca Volontè, 2023-05-03
Nhà văn Dostọevski đã nói: “Nếu Chúa không tồn tại, mọi thứ đều được phép”.
Nhưng ngày nay, xu hướng thống trị nói ngược lại bằng cách khẳng định, có một cách rất tốt để sống một cuộc sống đạo đức mà không cần tin vào sự tồn tại của Chúa. Chúng ta có thể thấy những thái cực đã dẫn dắt xã hội: nạn giết trẻ em chưa sinh ngày càng gia tăng, cái chết êm dịu và tự sát được hỗ trợ, sự tầm thường hóa của tất cả các hình thức tình dục, kể cả những hình thức không tự nhiên nhất, v.v.
Theo một nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Pew, những người trưởng thành ở trên hơn mười nước phương Tây nói rằng bạn không cần phải tin vào Chúa để có một cuộc sống đạo đức. Đức Bênêđictô XVI đã đưa ra lời cảnh báo: “Sự biến mất ý niệm về Thiên Chúa kéo theo sự biến mất ý niệm về một thế giới chân thực”.
Một nghiên cứu gần đây do Janell Fetterolf và Sarah Austin, hai nhà nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Pew, thực hiện, những người trưởng thành ở hơn mười nước phương Tây cho rằng, không cần thiết phải tin vào Chúa để sống một cuộc sống đạo đức hoặc có những giá trị tốt. Nghiên cứu, dựa trên các câu trả lời cho Khảo sát thái độ toàn cầu (Global Attitudes Survey) của Trung tâm nghiên cứu Pew, được thực hiện vào mùa xuân năm 2022 và được công bố ngày 20 tháng 4. Ở các nước châu Âu và Bắc Mỹ, cứ mười người được hỏi thì có ít nhất sáu người nghĩ rằng không nhất thiết phải tin vào Chúa mới là người đạo đức. Câu trả lời ở Thụy Điển là chín trên mười, tỷ lệ cao nhất trong tất cả các quốc gia được nghiên cứu. Trong khi đó người Israel trả lời: 47% cho rằng tin vào Chúa là cần thiết, 50% nói ngược lại.
Khi được hỏi “có nhất thiết phải tin vào Chúa thì mới có đạo đức và giá trị tốt đẹp” hay không, người dân các nước Tây Âu trả lời không nhất thiết phải tin vào Chúa mới là người đạo đức: Thụy Điển (90%), Pháp (77%), Vương quốc Anh (76%), Hà Lan ( 76%), Tây Ban Nha (74%), Bỉ (69%), Ý (68%), Đức (62%) và Hy Lạp (60%). Các nước khác ngoài Âu châu, một phần với nền văn minh phương Tây, Úc (85%), Canada (73%) và Hoa Kỳ (65%).
Một thực tế cũng được các quốc gia theo truyền thống được xem là pháo đài của tôn giáo và đức tin xác nhận: đa số người dân ở các nước Đông Âu như Ba Lan (67%) và Hungary (63%), họ có các chính phủ ủng hộ các giá trị truyền thống kitô giáo, quan điểm chính của họ: sống như thể Chúa không tồn tại hoặc như thể Chúa tồn tại, không thay đổi bất cứ điều gì.
Ở Ý, trung bình 68% số người được hỏi cho rằng không nhất thiết phải tin vào Chúa để là người tốt và có giá trị đạo đức tốt, trong đó 61% nói họ thuộc về một Giáo hội (Giáo hội công giáo la-mã), số còn lại tuyên bố họ không theo đạo hoặc có đạo nhưng không thuộc về một Giáo hội nào. Một con số đáng lo ngại với một quốc gia vẫn xem mình là “công giáo” và có nhiều tín hữu. Tuy nhiên, theo dữ liệu được hai nhà nghiên cứu thu thập trong những năm gần đây, cần lưu ý rằng ở Ý, từ năm 2019 đến năm 2022, số người tuyên bố tin vào Chúa là điều cần thiết để có những giá trị đạo đức mạnh mẽ, cũng như những người không nhận ra tầm quan trọng của Chúa vẫn ở mức ổn định 30%, sau thời gian (2002-2013) có sự gia tăng trong số những người nghi ngờ về tầm quan trọng của Chúa và những giảm sút tương ứng ở những người tin Chúa. Dù sao, lời kêu gọi khẩn thiết của Đức Bênêđictô XVI đưa ra lần đầu năm 2005 tại Subiaco, năm 2010 tại Rôma, sau đó ngài nhắc lại ở Bồ Đào Nha năm 2012 về sự cần thiết cấp bách phải sống “như Chúa tồn tại”.
Một Thiên Chúa có khuôn mặt của Chúa Giêsu Kitô, Đấng ngăn cản chúng ta đánh mất phẩm giá của mình, bị nuốt chửng bởi một “chủ nghĩa luân lý mới với những từ ngữ chính là công lý, hòa bình, bảo tồn tạo vật, những từ gợi lại những giá trị luân lý thiết yếu mà chúng ta thực sự cần”. Nhưng chủ nghĩa đạo đức này vẫn còn mơ hồ và do đó, gần như không thể tránh khỏi, trượt vào phạm vi của các đảng phái chính trị… một nỗ lực được đẩy đến mức cực đoan, theo cách mà các công việc của con người làm xem như hoàn toàn không cần đến Chúa, điều này càng ngày càng dẫn chúng ta đến bờ vực thẳm, hướng tới sự gạt bỏ con người hoàn toàn. Do đó, khẩn cấp là phải đảo ngược tình thế, hay như Đức Bênêđictô XVI đã nói, cố gắng sống và định hướng cuộc sống của mình như thể có Chúa ở đó “velut si Deus datur”… (vì) đó là cách mọi thứ chúng ta tìm thấy có được sự nương tựa và tiêu chuẩn mà chúng rất cần”.
Rõ ràng, chỉ có công dân Israel và Singapore là có tỷ lệ ngang nhau cho câu hỏi này, với 50% và 54% số người được hỏi, họ cho rằng tin vào Chúa là điều kiện tiên quyết cho đạo đức và các giá trị tốt đẹp. Malaysia là quốc gia duy nhất mà đại đa số người được hỏi (78%) cho rằng tin vào Chúa là cần thiết để sống một cuộc sống đạo đức với những giá trị tốt đẹp.
Sự khác biệt quan điểm giữa những người theo và không theo tôn giáo trải rộng trên tất cả các quốc gia được nghiên cứu, dù đa số ở cả hai nhóm đều nghĩ không nhất thiết phải tin vào Chúa để có một đời sống tốt. Ở hầu hết các quốc gia được khảo sát, một nửa hoặc nhiều hơn những người theo một tôn giáo nói rằng không cần thiết phải tin vào Chúa mới là người có đạo đức gồm 86% người Thụy Điển và 75% người Úc. Các dữ liệu trong cuộc nghiên cứu này xác nhận bằng chứng đáng lo ngại qua các báo cáo chúng tôi đưa ra và đánh giá hàng ngày trên báo này: sự suy giảm ý tưởng về Chúa và củng cố tuyên bố điên rồ của Khai sáng về “cuộc sống tốt đẹp khi không có Chúa” đã được trải nghiệm và đã làm cho hàng triệu người là nạn nhân.
Trong những năm gần đây, thần học gia Ratzinger và triết gia Spaeman đã lên án sự kiện, “một nỗ lực được đẩy đến mức cực đoan, theo cách mà các công việc của con người làm xem như hoàn toàn không cần đến Chúa, điều này càng ngày càng dẫn chúng ta đến bờ vực thẳm, hướng tới sự gạt bỏ hoàn toàn con người và sự biến mất ý niệm về Thiên Chúa, kéo theo sự biến mất ý niệm về một thế giới chân thực”. Trước lời tố cáo và lời mời gọi cấp thiết này để khám phá lại lý trí và làm chứng thực sự cho đức tin, chúng ta tất cả được mời gọi để đưa ra câu trả lời và làm chứng. Một thách thức đối với thuyết tương đối mà các Giáo hội kitô giáo đã từ bỏ, như dữ liệu cho thấy.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch





























