fr.aleteia.org, Jean Duchesne, 2025-09-23
Làm sao một người muốn được cứu rỗi nếu họ không còn ý thức về tội? Nhà văn, nhà tiểu luận Jean Duchesne giải thích nếu chúng ta không mở lòng ra với Chúa, thật khó để hiểu tội là món nợ giam cầm, nhưng Chúa lại sẵn sàng tha thứ.
Điều đã không còn phổ biến trong Giáo hội trong những thập kỷ gần đây không chỉ là áo chùng của tu sĩ, áo dòng của các nữ tu nhưng còn là những gì đã bị bỏ rơi, không còn thu hút sự chú ý như khái niệm về sự cứu rỗi, và đồng thời là khái niệm về tội. Thật vậy, nếu là vấn đề cứu rỗi thì nó chỉ có ý nghĩa nếu chúng ta có nhận thức cơ bản về cả mối nguy hiểm và khả năng thoát khỏi nó.
Những lời nhắc nhở Phụng vụ
Thánh Lễ luôn bắt đầu bằng nghi thức sám hối, mỗi người thú nhận mình đã “tội lỗi trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót”. Trong Kinh Sáng danh, Chúa Kitô được tuyên xưng hai lần là “Đấng xóa tội trần gian”. Kinh Tin Kính Nicea-Constantinopoli khẳng định Chúa Con xuống thế “cứu rỗi chúng ta”. Lời nguyện chung: “Lạy Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ trần gian, xin nhậm lời và thương xót chúng con.” Bốn Kinh nguyện Thánh Thể là lời nhắc nhở: “Chúng con là kẻ có tội, đặt niềm hy vọng vào lòng thương xót vô biên của Chúa” (I); “Xin ban cho chúng con được dự phần vào sự sống vĩnh cửu” (II); “Nhờ hy lễ giao hòa chúng con với Chúa, xin mở rộng ơn cứu độ và bình an cho toàn thế giới” (III); “Chúa đã sai Con Một của Chúa đến với chúng con, làm Đấng Cứu Độ chúng con” (IV).
Sau Kinh Lạy Cha, chủ tế cầu xin: “Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, chúng con sẽ được giải thoát khỏi mọi tội lỗi.” Cuối cùng, khi bẻ bánh ba lần, và trước khi rước lễ, chủ tế đọc: “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian và Xin Mình và Máu Thánh Chúa giải thoát chúng con khỏi tội lỗi và mọi sự dữ”. Hoặc: Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh.”
Tội trọng, tội chung và tội riêng
Có thể hiểu vì sao chúng ta ngần ngại nhắc đến tội ngoài những lời nhắc bắt buộc trong phụng vụ. Đó là một thực tế khó chịu: “phạm tội”, nhận ra mình sai trái là điều gây ra mặc cảm tội lỗi. Một mặt, có tội lỗi nói chung hay “tội nguyên thủy” từ thời ông A-dong và bà E-và bị tách khỏi Đấng Tạo Hóa, là bị bỏ mặc cho tự do, cho hỗn loạn của bản năng trong sự diệt vong. Điều này thường không được thảo luận trong khoa biện giáo, vì nó phản ánh một bi quan vừa đe dọa vừa tuyệt vọng, hoặc một thái độ thù ghét loài người không thể chấp nhận được. Mặt khác, có những tội lỗi “thực sự” do các cá nhân phạm phải. Chúng ta nhận thức sâu sắc về chúng, dưới sự soi sáng của Chúa. Và chúng ta biết việc phơi bày chúng trước công chúng không nhất thiết mang tính xây dựng và việc được tha thứ là không đủ, vì chỉ có Chúa mới có thể tha thứ thông qua những người mà Ngài giao phó sứ mệnh này.
Ngoài lề, sự phân biệt này có thể biện minh cho việc sửa đổi gần đây của sách lễ. Sách lễ nói rằng Chúa Kitô “xóa bỏ tội lỗi” ở số nhiều, tức là tội lỗi cá nhân – chứ không còn là “tội lỗi thế gian”. Thuật ngữ số ít, chung chung, có thể ngụ ý mọi tội lỗi, dù cố ý hay không, cuối cùng sẽ được tha thứ. Tuy nhiên, chính tà thuyết apocatastasis này (cùng với những điều khác) đã ngăn cản việc phong thánh cho Origen, nhà thần học vĩ đại của Alexandria vào đầu thế kỷ thứ ba, mặc dù vào thế kỷ 20, Hans Urs von Balthasar, khi được phong hồng y, đã lập luận rằng việc “hy vọng cho tất cả” (tựa đề một bài được xuất bản năm 1988) là được phép, mà không cần dự đoán về Ngày Phán xét Cuối cùng. Dù sao Phúc âm Thánh Gioan 1:29 dùng tiếng Hy lạp hamartian (số ít) khi Thánh Gioan Tẩy Giả nói về sự dữ mà Chúa Kitô đến để đương đầu và chiến thắng, Sách lễ Rôma tiếng La-tinh trong nhiều thế kỷ đã dùng từ peccata (số nhiều của peccatum) cho những khiếm khuyết của mỗi người, kể cả các tín hữu hiện diện.
Từ việc chăm sóc mục vụ trong sợ hãi đến việc tôn vinh tình yêu
Dù sao, trọng tâm ngày nay là lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, là sự quy tụ và tình đoàn kết giữa con người mà điều này đã được tạo nên. Cách tiếp cận huyền bí có thể đi xa hơn đến mức nhận ra Chúa không chỉ khuyến khích tình huynh đệ này mà chúng ta còn có được qua ân sủng và bí tích, để khơi dậy lòng biết ơn, sự kinh ngạc, lời ngợi khen… Đối xứng, cái ác bị cho là điều gây ra đau khổ và nạn nhân, nói cách khác, là điều có thể trải nghiệm được và chỉ do mù quáng ích kỷ hoặc thờ ơ đôi khi tàn nhẫn của tự nhiên gây ra. Việc Satan nổi loạn chống Thiên Chúa vẫn ngự trị trên thế gian và những kẻ bị hắn quyến rũ (dù không hề hay biết) sẽ cùng hắn xuống địa ngục, là một ý tưởng rất hiện diện trong Phúc âm (chúng ta có thể trích dẫn). Nhưng việc chia sẻ với mọi người đã trở nên khiếm nhã (ngay cả khi nó xuất hiện thoáng qua trong phụng vụ Rửa tội).
Chúng ta chỉ hiểu tội lỗi là gì khi chúng ta mở lòng ra với Chúa.
Tất nhiên, “mục vụ sợ hãi” (giáo lý tập trung vào nỗi sợ bị tra tấn vĩnh viễn ở thế giới bên kia) có thể đã kích thích sự hoài nghi. Vì thế chúng ta đi theo hướng ngược lại, đề cao tình yêu với nguy cơ rơi vào tình cảm ủy mị mà hiệu quả vị tha của nó đủ để chứng minh sự công chính của nó. Vấn đề vẫn là yêu thương như Chúa đã yêu thương và với sự giúp đỡ của Ngài, nhưng sự đóng góp của con người có xu hướng trở nên quyết định trong việc quay trở lại với Thuyết lạc giáo Pêlagiô không cần ơn Chúa. Khi đó, cái ác không phải là kết quả của việc ít nhất là một phần nào đó tách rời khỏi Chúa (tội lỗi nói chung), mà là của một hệ thống hoặc kẻ áp bức nào đó bị lên án một cách đúng đắn. Và điều được xem là cứu rỗi là một danh tiếng tâng bốc ở dưới thế ngay cả khi nó bấp bênh (trường hợp Abbé Pierre).
Tội lỗi như một món nợ
Vậy thì, vẫn còn phải khám phá lại tội lỗi là gì. Nghịch lý là chúng ta chỉ nắm bắt được nó bằng cách mở lòng mình ra với Chúa – đó là điều nó muốn loại bỏ! Do đó, trước hết cần có một niềm tin tối thiểu, cũng giống như chủ nghĩa vô thần cần một ý niệm về những gì nó phủ nhận. Sau đó, cần phải thừa nhận Đấng Tối Cao đã tự mặc khải chính Ngài, vì chỉ Ngài mới có thể, là nguồn gốc của mọi sự sống. Và cuối cùng, có một miễn cưỡng thừa nhận hai điều: một mặt, sự sống vô hạn này tự hiến mà không áp đặt hay mất mát bất cứ điều gì, mặc dù nó tự buông xuôi không có khả năng tự vệ; và mặt khác, nó bị thay đổi, suy yếu, hư hại nếu người nào cố gắng nắm bắt nó. Để hưởng lợi từ nó, đòi hỏi chúng ta phải tham dự vào quá trình truyền tải bằng cách đặt những gì mình nhận được vào sự sắp đặt của Đấng Ban Cho, để những điều này được chia sẻ, theo Ngài và nhờ Ngài, với những người lân cận.
Yêu cầu này có thể bị từ chối (có ý thức hoặc không), vì quyền năng thần thánh không gây ra bất kỳ ràng buộc nào. Điều này có thể bị cho là xúc phạm, do sự khinh miệt Chúa mà nó hàm ý. Nhưng chắc chắn sẽ chính xác hơn nếu chúng ta nhận ra chúng ta mắc nợ. Món nợ phải trả, không phải là sự đền đáp mà Thiên Chúa mong đợi (Ngài không cần đến nó), nhưng ngược lại là sự ăn năn từ bỏ việc chiếm hữu các ân huệ của Ngài. Đây chính là điều mà bản văn gốc của Kinh Lạy Cha trong phúc âm Thánh Mát-thêu 6:12 gợi ý: Xin Cha tha cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Nói cách khác: “Xin cứu chúng con khỏi tội lỗi chúng con và giúp chúng con noi gương Chúa bằng cách tha thứ cho kẻ thù chúng con.”
Giải thoát khỏi mọi nỗi sợ hãi
Điều Chúa Kitô mang đến chính là sự giải thoát khỏi xiềng xích và nô lệ nợ nần (Mt 18:23-35). Lý do vì sao sự giải thoát này cần được cầu xin và đòi hỏi lòng thương xót của Thiên Chúa: vì lòng thương xót và sự ăn năn mà con người có thể có được bị cản trở bởi đủ loại lo lắng, thậm chí con người có thể trở nên căm ghét chính mình. Con Thiên Chúa đến để gỡ bỏ xiềng xích và bẻ gãy chúng. Tuy nhiên, một động lực tốt hơn cho ước muốn được cứu rỗi chắc chắn vẫn là lời hứa về sự sống đời đời. Chắc chắn ngày nay “Thiên đàng” khó hình dung như địa ngục, sự dữ trên trái đất dường như không còn liên quan đến tội lỗi. Nhưng dù vậy, nỗi lo âu vẫn không phai nhạt. Vậy thì có lẽ đáng để nhớ: sự cứu rỗi chính là sự giải thoát khỏi mọi nỗi sợ hãi.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch