Cha Robert và Thời của các giáo dân ở Peru
osservatoreromano.va, Paola Ugaz, 2025-09-25
Năm 1990, khi 23 tuổi, bà Alicia Azabache đã gặp Đức Lêô tương lai ở Trujillo, thủ phủ của La Libertad, miền bắc Peru, khi đó ở đây chưa có giáo xứ, nhưng linh mục Robert Prevost đã xin làm việc ở nơi chưa có gì: “Chúng tôi bắt đầu dọn dẹp và sắp xếp mọi thứ với các bạn trẻ ở đó. Những chiếc ghế dài bằng gỗ là những chiếc ghế chúng tôi đã dùng trước đây.”
Bà Alacia nhớ lại: “Ngài cử hành Thánh lễ theo một cách hoàn toàn khác với những gì tôi đã biết, vì ngài nói chuyện với chúng tôi như thể chúng tôi là một phần của gia đình. Vì thế ngài đã khơi dậy niềm tin và sự tín nhiệm trong chúng tôi, cho chúng tôi cảm giác mọi thứ rồi sẽ ổn”, giáo xứ Santa Rita da Cascia được xây nhờ các hoạt động gây quỹ cộng đồng như chơi bingo và các lễ hội ẩm thực.
Năm 1988, Robert Prevost và các anh của ngài bắt đầu làm việc tại Trujillo theo kế hoạch mục vụ Nueva Imagen de Parroquia (Nip), vốn đã mang lại kết quả tốt đẹp tại Chulucanas, thuộc vùng Piura của Peru.
Tại Hội nghị Medellín (tháng 8 năm 1968), nơi Công đồng Vatican II được suy ngẫm, việc thành lập các cộng đồng giáo hội được xem như con đường để sống đức tin.
Trong hồi ký của Giám mục Dòng Augustinô Juan McNabb, Dẫn đến nơi tôi không định đến (2012), ngài đề xuất thành lập một mạng lưới các cộng đồng kitô giáo nhỏ bao gồm tất cả những người đã được rửa tội, chứ không chỉ những người đi lễ, ngài nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đào tạo liên tục về Kinh Thánh cho các tín hữu.
Các tu sĩ dòng Augustinô định cư tại giáo phận Chulucanas và Trujillo đã tổ chức mục vụ truyền giáo của họ thành các “khu vực mục vụ”, mỗi khu vực có một điều phối viên, thư ký, sứ giả, giáo lý viên, chuyên viên phụng vụ, quản lý dịch vụ xã hội và các nhân viên khác. Tổ chức này hoạt động rất hiệu quả, giáo dân rất đông và vì thiếu điện và đường xá, đôi khi không có phương tiện liên lạc. Mục tiêu là xác định các vấn đề của cộng đồng trong các lĩnh vực y tế, giáo dục và dinh dưỡng ngay từ đầu, để tìm ra giải pháp chung.
Đến năm 1976, tại Chulucanas, linh mục Arturo Purcaro đã thành “chuyên gia về Chương trình Truyền giáo Quốc gia (NIP)” và đã giúp đào tạo nhiều nhà truyền giáo mới cho chương trình, tác giả John Joseph Kelly ghi lại trong quyển sách Câu chuyện về Giáo hạt Chulucanas, xuất bản năm 1989.
Trong một phỏng vấn với tờ L’Osservatore Romano, Juan Lydon nhớ lại, ngoài Purcaro, Tôi tớ Chúa Juan McKniff là người quảng bá rộng rãi Hội Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm (NIP) ở ngoại ô Chulucanas. Ngài là giáo sĩ bị trục xuất khỏi Cuba, nhưng khi trở về Hoa Kỳ, ngài xin gia nhập một phái bộ truyền giáo.
Một người “phi thường”
McKniff là nhân vật “phi thường”, ngài đến Chulucanas khi đã 68 tuổi. Ngài đi bộ đến thăm các cộng đồng, tin chắc Giáo hội phải đến nơi có giáo dân, chứ không ngược lại. Ngài là hình ảnh phản chiếu trung thực của Hội Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm, một tổ chức ưu tiên cho giáo dân, tách khỏi quan điểm cố định của Giáo hội, theo đó không có gì hoạt động nếu không có linh mục.
Mặc áo dòng trắng, đội mũ rơm rộng và với một năng lực phi thường, ngài tổ chức Hội Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm ở mỗi làng. Nhờ ngài, có nhiều nhóm Hội Dòng Đức Mẹ ở Chulucanas hơn các nơi khác trên khắp Peru. Ngài hết lòng kính mến Đức Mẹ, nhấn mạnh đến tầm quan trọng của Mẹ trong việc đồng hành với giáo dân. Cầu nguyện và công tác mục vụ là điều thiết yếu. Ngài luôn làm việc vì người nghèo, ngài sống cuộc sống thánh thiện. Ngài qua đời tại Miami, các anh em của ngài đã đưa ngài từ Hoa Kỳ về Peru, họ chuẩn bị một nơi đặc biệt để chôn cất ngài tại Chulucanas (tháng 5 vừa qua), vì ngài đã làm phần lớn công việc mục vụ của ngài ở đây.
Năm 1991, khi bà Alicia Azabache 23 tuổi, bà được chọn làm điều phối viên cho khu vực của bà: “Ngay lập tức tôi hỏi Cha Prevost, ‘Con nên làm gì?’ Trước hết, ngài truyền cho tôi sự bình tĩnh, và sau đó ngài nói tôi phải tích cực tham gia vào Giáo hội, tổ chức khu vực của mình và học hỏi Kinh Thánh.”
“Ngài đã giúp tôi mọi việc với tư cách là điều phối viên mục vụ”
Hội Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm đã đoàn kết tất cả chúng tôi. Khi tôi nghe Đức Phanxicô nói về một Giáo hội Công đồng, tôi nghĩ chúng tôi đã sống điều này từ lâu: đoàn kết và cùng nhau làm việc, tôn trọng lợi ích của cộng đồng.
Khi đó Linh mục Robert Prevost đã làm việc tại khu vực gần Cầu Moche, nơi người di cư chạy trốn khỏi dãy Andes sau khi nhóm khủng bố Shining Path đến. Bà Alicia nhớ lại: “Mỗi nơi chúng tôi đến, Cha Robert đều nói, ‘Alicia, hãy cùng với các bạn trẻ đi gõ cửa từng nhà. Chúng tôi bắt đầu làm việc tại khu vực Cầu Moche vì có rất nhiều người sống trên chiếu trong những túp lều nhỏ. Năm 1993, tôi làm việc tại Caritas và tại Giáo xứ. Với chiếc xe tải, chúng tôi mang theo thức ăn, quần áo và đồ chơi vào dịp Giáng sinh. Chúng tôi tổ chức các chiến dịch y tế và các khóa học giáo lý, tiếng Anh và toán vào mùa hè.”
Khoảnh khắc gia đình
Trong các khu vực mục vụ, vai trò của phụ nữ luôn được khuyến khích. Đó là lý do vì sao khi bà Alicia trở thành điều phối viên đầu tiên và bắt đầu xây dựng nhà thờ Santa Rita da Cascia, tính cách quyết đoán nhưng vui vẻ của bà đã làm bà có biệt danh “linh mục giáo xứ”. Việc giao tiếp giữa các khu vực được duy trì để đáp ứng nhu cầu của từng cộng đồng về sức khỏe, giáo dục và dinh dưỡng.
Vào những năm 1990, với sự hỗ trợ của các tu sĩ dòng Augustinô, các bếp ăn từ thiện được thành lập, tại đây các nhóm phụ nữ làm việc để nấu ăn cho cộng đồng, họ được cung cấp dụng cụ nấu nướng và thức ăn cho rất nhiều người. Bà Alicia nhớ lại: “Một ngày nọ, tôi bị đau lưng khi chơi bóng chuyền và không thể đi được. Mỗi ngày, Cha Robert đích thân hoặc cha nhờ người đến thăm tôi vì tôi rất yếu. Một ngày nọ, một người mặc áo dòng Augustinô xuất hiện, tôi không nhìn thấy mặt ông, ông nói với tôi: ‘Alicia, mọi chuyện rồi sẽ qua.’ Từ ngày đó, vết thương ở lưng tôi biến mất, và tôi có thể đi lại được.” Bà khẳng định với đôi mắt mở to: “Đây là lời chứng của tôi.”
Sau kinh nghiệm bị suy yếu này, bà Alicia nhớ lại những khoảnh khắc hạnh phúc bên Cha Robert, gia đình và người dân trong vùng: “Chúng tôi nhảy theo mọi điệu nhạc. Trong những năm 90 có bài hát nổi tiếng El meneíto của Natusha. Gia đình tôi và tôi đều nhảy theo bài hát này mỗi dịp sinh nhật, Giáng sinh và đêm giao thừa. Sau đó, Cha Robert cử hành thánh lễ, kết thúc bằng giờ chia sẻ.”
Hiện nay bà Alicia tiếp tục làm việc tại nhà thờ Santa Rita da Cascia, tự hào nhớ lại hành trình dài mà bà và cộng đoàn cùng người bạn Robert làm việc chung với nhau: “Chúng tôi có nhiều thành tựu, và nhờ những lời dạy của ngài, chúng tôi tiếp tục gieo hạt giống trên đường đi.”
Dòng Chúa Cứu Thế ra đi và Dòng Thánh Augustinô đến
Cuộc gặp với Socorro Cassaro và Alicia Chang tại nhà của Socorro tràn ngập kỷ niệm, tiếng cười và các giai thoại đan xen, đáng chú ý nhất là ngày họ gặp Cha Robert năm 1989. Họ mong đợi một linh mục lớn tuổi mặc áo dòng, nhưng thay vào đó, một linh mục đến trong bộ quần jean và trang phục trẻ trung.
Socorro và Alicia là thành viên của cộng đồng giáo dân tại Nhà thờ Monserrate ở Trujillo. Đầu năm 1994, do tình hình khó khăn, Dòng Chúa Cứu Thế sắp rời Peru, cộng đoàn xin Giám mục Trujillo cho phép Dòng Augustinô thay thế Dòng Chúa Cứu Thế để hỗ trợ Giáo hội địa phương.
Ngay lập tức Dòng Augustinô bắt tay vào việc phát triển các khu vực mục vụ và xây dựng Giáo xứ Monserrate tại Trujillo. Cả Alicia Chang và Socorro Cassaro đều cảm thấy mình là một phần thiết yếu của Giáo hội. Socorro hiện chịu trách nhiệm truyền cảm hứng cho giáo dân.
Alicia Chang được mệnh danh là “chuyên viên phụng vụ” nhờ kiến thức sâu rộng về Kinh Thánh, chuẩn bị chu đáo tài liệu cho các bài giảng, lo các lớp học giáo lý và hướng dẫn người đọc trong thánh lễ. Chang và Cassaro chào đón các tu sĩ Augustinô đến Trujillo, và vì lý do này, bà được gọi là “Mẹ”.
Bà Alicia giải thích: “Chúng tôi là tu sĩ Augustinô, chúng tôi dần dần hiểu Thánh Augustinô ‘Con tìm kiếm Chúa ở bên ngoài, và Chúa ở trong con,’ chúng tôi tự tổ chức dù có linh mục hay không.” Socorro Cassaro cười to kết luận: “Chúng tôi cũng là tu sĩ Augustinô như các Cha Dòng Augustinô. Họ biết điều này.”
Nhà đào tạo mới
Ngày 28 tháng 8 năm 1990, Tổng Giám mục Manuel Prado Pérez-Rosas của Trujillo làm phép Nhà Đào Tạo San Vicente, nơi những người đào tạo đầu tiên là Robert Prevost, Cha Juan McKniff và Gerardo Theis, cả hai đều đã qua đời. Các chủng sinh đến nhà này từ các giáo hạt San Juan de Sahagún, San Agustin de Apurímac và Iquitos.
Đức Lêô XIV đã lãnh đạo việc đào tạo các ứng sinh Dòng Augustinô tại Chulucanas, Iquitos và Apurímac từ năm 1988 đến năm 1999. Ngài cũng từng là đại diện tư pháp của tổng giáo phận, giáo sư Giáo luật và Luân lý tại Đại Chủng viện, giám đốc học vụ và quyền giám đốc.
Đó là thời điểm khó khăn: ngày 5 tháng 4 năm 1992, Tổng thống lúc bấy giờ là Alberto Fujimori đã giải tán ngành tư pháp, Viện Công tố Văn phòng Tổng thống và Quốc hội. Hơn nữa, có những báo cáo về các vụ giết người ngoài vòng pháp luật được cho là do nhóm Vladimiro Montesinos, cánh tay phải cũ của Fujimori, thành lập, có tên là Colina.
Cha John Lydon nói với chúng tôi: “Họ tham gia các hội nghị và tuần hành để cố gắng nâng cao nhận thức về nhân quyền. Đó không phải là vấn đề chính trị. Giáo hội bảo vệ phẩm giá con người. Và chúng tôi cố gắng đóng góp vào việc khôi phục nền dân chủ như một giá trị Phúc Âm. Chúng tôi đào tạo những người trẻ vì họ là một phần trong tầm nhìn mục vụ và Phúc Âm của chúng tôi.”
Cha Amiro Castillo, cha sở Dòng Augustinô tại Trujillo, nhớ lại tuần lễ thần học do Đức Lêô tổ chức, trong đó hai vị đã thảo luận về việc chính quyền Fujimori đã chiếm kênh truyền hình của Baruch Ivcher: “Tôi gặp ngài năm 1996: ngài là người lắng nghe, ngài thích làm tài xế đưa chúng tôi đến chủng viện mỗi ngày, ngài quan tâm đến điểm học bạ của chúng tôi và khuyên chúng tôi trở thành linh mục tốt.” Cha nhớ lại lời khuyên của Đức Lêô khi không thể tập trung cầu nguyện: “Con vào phòng, đóng cửa lại, thắp ngọn nến ở giữa, sẽ giúp con tập trung và trở thành một tu sĩ Augustinô sốt sắng.”
Trong phòng thánh của nhà đào tạo, có phòng trưng bày ảnh của triển lãm “Yuyanapaq” do Mayu Mohanna và Nancy Chappell phụ trách, thành quả của Ủy ban Chân lý được thành lập tại Peru năm 2001.
“Nếu bạn muốn hòa bình, hãy hành động vì công lý.”
Hàng tuần chúng tôi họp tại nhà đào tạo ở Trujillo để thảo luận về các vấn đề của đất nước, trong các cuộc họp này, chúng tôi quyết định liệu các chủng sinh có thể tham gia các cuộc tuần hành ủng hộ dân chủ và bảo vệ nhân quyền hay không: “Chúng tôi đã tham gia nhiều cuộc biểu tình khác nhau, chúng tôi luôn mang theo một tấm biển có câu của Đức Phaolô VI: ‘Nếu bạn muốn hòa bình, hãy hành động vì công lý.’ Mục tiêu của chúng tôi là thúc đẩy nhân quyền. Năm 1998, nhân dịp kỷ niệm 50 năm Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, chúng tôi đã thu thập chữ ký cho Điều phối viên Quốc gia về Nhân quyền. Chúng tôi tổ chức thông qua các giáo xứ, các quận, và chúng tôi đã thu thập được nhiều chữ ký. Giáo xứ chúng tôi thu thập nhiều chữ ký hơn bất kỳ nơi nào khác ở Peru. Thật tuyệt vời.”
Nhân dịp này, một quyển sách nhỏ về các quyền cơ bản đã được xuất bản, và một buổi lễ đã được tổ chức với sự tham dự của đại diện Điều phối viên Quốc gia về Nhân quyền tại Trujillo. Buổi lễ cũng có sự tham dự của Đức Lêô. Tất cả ở trong quá trình hình thành nhân cách của các chủng sinh Augustinô sống tại Trujillo.
Cha Lydon nhớ lại trong một sự kiện truyền hình có tên “Teleton”, được phát sóng từ Lima trên toàn quốc để gây quỹ cho người khuyết tật, một buổi hòa nhạc đã được tổ chức tại Quảng trường Plaza de Armas của Trujillo. Một nhóm chủng sinh Augustinô mang tên Leche Gloria đã biểu diễn, họ hát một bài hát phản đối vụ thảm sát sinh viên phi pháp tại Đại học La Cantuta do nhóm Colina gây ra.
Nhóm Leche Gloria đã biểu diễn tại Quảng trường Plaza de Armas của Trujillo, sự kiện đã được phát sóng trên toàn quốc. Bài hát nhấn mạnh đến phẩm giá và sự thật: rằng những người vô tội đã bị giết hại. Hài cốt của các sinh viên được chuyển đến trong một thùng có tên Leche Gloria.
Bài học về Học thuyết Xã hội
Khi còn là giám mục Chiclayo, Hồng y Robert Prevost đã viết lời tựa cho quyển sách Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội: Lịch Sử và Bài Học (Đại học Công giáo Trujillo, Peru, 2022) của Juan José Lydon. Ngài đặt câu hỏi: “Chúng ta có thể học được gì từ học thuyết xã hội của Giáo Hội Công Giáo?” Về cơ bản, tôi nghĩ câu trả lời này đã được đưa ra. Học hỏi nằm ở cách chúng ta tiếp cận các vấn đề xã hội: tôn trọng thực tế, cân nhắc đúng đắn các nguyên tắc đạo đức cần thiết, hành động nhưng không áp đặt hay tuyên bố tính phổ quát, ứng phó với những vấn đề thực tế của ngày nay.
Hồng y Prevost kết luận: “Chúng tôi hy vọng quyển sách này sẽ hướng dẫn sinh viên hiểu được sự phong phú của học thuyết xã hội của Giáo Hội và hình thành lương tâm chính trị và xã hội, một lương tâm kitô giáo có khả năng phá vỡ những định kiến cá nhân và văn hóa, đồng thời thúc đẩy chúng ta xây dựng thế giới mà chúng ta mơ ước.”
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Grégoire: “Mất hai người anh đã cho tôi sức mạnh để truyền hy vọng”
Domitille Chomel: “Một gia đình có đức tin là một gia đình hạnh phúc”