Đức Lêô XIV, mục tử yên bình cho một thế giới bất an
Chúng ta có thể mong chờ gì ở triều Giáo hoàng Bắc Mỹ đầu tiên? Đức Ông Luis Marín de San Martín, tu sĩ Dòng Thánh Augustinô, bạn của Đức Lêô chia sẻ về ngài trên trang Omnes.
omnesmag.com, Luis Marín de San Martín, Phó Tổng Thư ký Thượng Hội đồng Giám mục, 2025-06-06
Đức Lêô XIV trong buổi tiếp kiến chung ngày 11 tháng 6, 2025 (Ảnh CNS / Lola Gomez)
Chiều tối ngày 8 tháng 5, khói trắng bốc lên, sau khi kết quả bầu cử được công bố, giáo dân hân hoan tràn ngập con đường Via della Conciliazione và các con đường dẫn đến Đền thờ Thánh Phêrô. Chẳng mấy chốc, tiếng hô lặp đi lặp lại vang lên đều đặn: “Vạn tuế Giáo hoàng!” Dù chưa biết tên nhưng giáo dân đã sẵn sàng đón nhận ngài. Một chứng từ thật xúc động!
Trong những ngày trước mật nghị, các phỏng đoán lan tràn được các nhà báo không phải lúc nào cũng định hướng đúng đắn loan truyền! Nhưng chắc chắn một điều người kế vị Thánh Phêrô đã được chọn, chính là Simon, con ông Giôna, tảng đá trên đó Chúa Giêsu xây dựng Hội Thánh của Ngài và Ngài trao chìa khóa Nước Trời cho ông. Buổi tối ở Rôma, lời hứa đã được nhắc lại: “Quyền lực hỏa ngục sẽ không thắng được Hội Thánh (Mt 16:18-19). “Hãy theo Ta và chăn dắt chiên của Ta (Ga 21:15-19), vì thế Đức Lêô là người kế vị Thánh Phêrô Tông đồ.
Người kế vị Đức Phanxicô
Chúng ta không ở thế kỷ thứ nhất, nhưng ở cuối phần tư đầu tiên của thế kỷ 21. Tân Giáo hoàng là Giáo hoàng thứ 267 trong lịch sử các Giáo hoàng Rôma kế vị nhau. Có một mối liên hệ giữa các ngài. Tân Giáo hoàng đến sau Đức Phanxicô, người đến từ tận cùng trái đất đã dấn thân canh tân Giáo hội. Giáo hoàng của lòng thương xót, của “tất cả, tất cả”, của quan tâm đến vùng ngoại vi và ưu tiên cho những người bị gạt ra ngoài lề; Giáo hoàng của công đồng, của truyền giáo, của Giáo hội đi ra; Giáo hoàng đã lên án mạnh mẽ chiến tranh, cam kết hòa bình; Giáo hoàng kiệt sức giữa dân Chúa. Người kế vị ngài sẽ phải lưu ý đến bối cảnh Phúc Âm nhập thể và đọc dấu chỉ của thời hiện tại, với cái nhìn đầy hy vọng hướng tới tương lai. Mật nghị Hồng y là sự kiện vừa mang tính nhân văn vừa mang tính thiêng liêng. Giáo hoàng không được Chúa Thánh Thần bầu ra như đôi khi mọi người lầm tưởng, mà được các hồng y bỏ phiếu trong Nhà nguyện Sistine. Tuy nhiên, họ cầu xin Chúa Thánh Thần giúp họ, đó là ý nghĩa bài thánh ca Veni Creator. Các hồng y có một trách nhiệm lớn: lắng nghe Chúa Thánh Thần, là con đường của Chúa Thánh Thần chứ không phải bức tường, để Chúa Thánh Thần thực hiện công việc của Ngài qua họ. Những lời mà mỗi hồng y phải tuyên bố trước khi bỏ phiếu thật ấn tượng: “Tôi làm chứng trước Chúa Kitô, Đấng sẽ phán xét tôi, rằng tôi chọn người mà tôi tin rằng Chúa sẽ chọn.”
Bốn lần bỏ phiếu là đủ. Giống như các lần bầu Đức Bênêđíctô XVI và Chân phước Gioan-Phaolô I gần đây. Trong các giáo hoàng gần đây, Đức Piô XII có ba lần bỏ phiếu, Đức Phanxicô năm lần, Đức Phaolô VI sáu lần. Đức Gioan-Phaolô II tám lần, Đức Gioan XXIII mười một lần. Tân Giáo hoàng được bầu trong một mật nghị nhanh chóng, như thế ngài là ứng viên rất mạnh ngay từ đầu và ngài nhanh chóng có được hai phần ba số phiếu cần thiết (89 phiếu) trong số 133 Hồng y cử tri của 70 quốc gia. Chưa bao giờ số lượng cử tri và số lượng quốc gia lên cao như vậy.
Một tu sĩ Dòng Âugustinô phục vụ Giáo hội
Nhiều tu sĩ Dòng Âugustinô chờ thông báo từ cửa sổ của Dòng Augustinô nhìn ra Quảng trường Thánh Phêrô. Một vị trí thực sự đặc quyền.
Hồng y Phó tế Mamberti chỉ cần phát âm tên… Robertum Franciscum là chúng tôi sung sướng reo lên trong niềm xúc động dạt dào. Chỉ có thể là người anh em của chúng tôi, Hồng Y Robert Francis Prevost, lúc bấy giờ là Bộ trưởng Bộ Giám mục, cựu Bề Trên Tổng Quyền Dòng chúng tôi. Đúng, ngài là Tân Giáo hoàng, ngài lấy danh hiệu là Lêô XIV.
Tôi nghĩ không thể diễn tả bằng lời cảm xúc dào dạt tràn ngập trái tim lúc này. Hai cảm xúc rất mạnh chiếm ưu thế: niềm vui và lòng biết ơn.
Những ai trong chúng tôi biết ngài đều thấy nhiều nhân đức nổi bật nơi người anh em Robert của chúng tôi: chuẩn bị chu đáo và kinh nghiệm dày dặn của ngài. Tôi nghĩ ngài là người lý tưởng để lãnh đạo Giáo hội trong thời điểm này. Từng chút một, bạn sẽ hiểu ngài hơn và tôi chắc chắn bạn sẽ đồng ý với tôi.
Ngài mặc lễ phục theo nghi lễ và ra ban-công Đền thờ Thánh Phêrô chào giáo dân. Cử chỉ của ngài thân thiện và thể hiện rõ cảm xúc. Ngài cúi chào nhiều lần, ngài vẫy tay. Ngài bắt đầu phát biểu, ngài đọc bài ngài đã chuẩn bị khi biết mình sắp được bầu làm Giáo hoàng. Ở đây, chúng ta thấy một đặc điểm trong tính cách của ngài: ngài luôn chuẩn bị chu đáo những gì mình muốn nói và cách thức ngài muốn nói. Ngài chu đáo và chính xác. Lời nói của ngài là chìa khóa cho toàn bộ chương trình của ngài. Điểm khởi đầu là Chúa Kitô Phục sinh, với lời chào giáo dân: “Bình an cho tất cả anh chị em.” Và sau đó, ngài đề cập đến các chủ đề chính: hòa bình, tình yêu, sứ mệnh. Lời nhắc nhở sâu sắc về nguồn gốc của ngài: “Tôi là con Thánh Augustinô, tu sĩ dòng Augustinô.” Ngài thân mến chào giáo phận cũ Chiclayo, Peru của ngài. Ngài đề cập đến một Giáo hội đang khao khát tính đồng nghị đang trên hành trình và tìm kiếm: hòa bình, bác ái và gần gũi với những người đau khổ. Ngài kết thúc bằng một tham chiếu tuyệt đẹp về Đức Mẹ, ngài cùng giáo dân đọc Kinh Kính Mừng.
Cuộc đời của Robert F. Prevost
Ngài sinh tại Chicago ngày 14 tháng 9 năm 1955, là con trai út của ông bà Louis Marius Prevost và Mildred Martinez. Hai anh của ngài là Louis Martin và John Joseph.
Tổ tiên Tây Ban Nha của ngài là bên ngoại: hai ông bà cố của ngài là người Tây Ban Nha di cư sang Hoa Kỳ để có một đời sống tốt đẹp. Ông nội Joseph của ngài sinh ra trên tàu trong chuyến hải trình từ Santo Domingo đến Hoa Kỳ. Gia đình của ngài hội nhập vào giáo xứ Đức Mẹ Lên Trời. Họ tích cực tham gia vào đời sống cộng đồng giáo xứ và trở thành điểm quy chiếu cho cộng đồng. Lòng sùng đạo của họ không khắc khổ, họ tham gia và dấn thân, truyền cho con cái thói quen cầu nguyện và ý thức cộng đồng trong đức tin kitô giáo.
Robert học toán tại Đại học Villanova, tốt nghiệp năm 1977.
Là người ngoan đạo và kỷ luật, ngài vào Dòng Augustinô, khấn tạm năm 1978, khấn trọn năm 1981. Sau đó các bề trên gởi ngài về Rôma học. Ngày 19 tháng 6 năm 1982, ngài được Tổng Giám mục Jean Jadot phong chức. Năm 1984, ngài đậu Cử nhân Giáo luật và về lại Hoa Kỳ.
Quản trị, Đào tạo và Giáo dục
Một trong những bước ngoặt lớn của ngài là năm 1985, ngài đi truyền giáo tại Chulucanas, Peru. Tại đây ngài đào sâu hiểu biết về tinh thần truyền giáo, truyền giáo luôn là nét đặc trưng của ngài. Năm 1987, ngài lấy bằng Tiến sĩ Giáo luật với luận án “Tinh thần Truyền giáo luôn đặc trưng”. Ngài được bổ nhiệm làm Giám đốc Ơn gọi và Giám đốc Truyền giáo cho Tỉnh Dòng Augustinô Chicago. Năm 1988, ngài về Peru và ở lại cho đến năm 1999. Ngài giữ nhiều chức vụ khác nhau trong Giáo phận Trujillo, nơi ngài là Đại diện Tư pháp và Giáo sư Chủng viện; tại Dòng Augustinô, ngài cũng giữ các chức vụ Bề trên, Huấn luyện viên và Giáo sư. Đồng thời, ngài phát triển hoạt động mục vụ tại các giáo xứ Santa Rita và Nuestra Senora de Montserrat. Từ đó, ba trục hoạt động của ngài được xác định rõ ràng: quản trị, đào tạo và giảng dạy, luôn với tinh thần truyền giáo làm đầu. Năm 1999, ngài được bầu làm Bề trên Giám tỉnh Tỉnh Dòng Augustinô Chicago, năm 2001, vài ngày sau vụ tấn công Tòa Tháp Đôi, ngài được bầu làm Bề trên Tổng quyền Dòng Thánh Augustinô, chức vụ ngài tái đắc cử năm 2007. Vai trò lãnh đạo của ngài nổi bật với sự gần gũi và am hiểu địa phương. Ngài đã đi thăm tất cả các cộng đoàn của Dòng trên năm châu lục để gặp gỡ và trao đổi với các tu sĩ. Ngài là người lắng nghe, ngài không áp đặt, ngài luôn phấn đấu vì sự hòa hợp và hiệp nhất, ngài cho thấy ngài là nhà quản lý và lãnh đạo xuất sắc, biết cách đưa ra những quyết định cần thiết.
Năm 2013, khi kết thúc nhiệm kỳ với tư cách là Bề trên Tổng quyền, ngài về Chicago, ngài được bổ nhiệm làm Phó Giám tỉnh và Trưởng Ban Đào tạo tại Tu viện Thánh Augustinô. Ngài chỉ ở đây một thời gian ngắn.
Đức Phanxicô và ngài đã quen biết nhau từ khi Đức Phanxicô còn là Tổng Giám mục Buenos Aires. Đức Phanxicô luôn tin tưởng mạnh mẽ tu sĩ Dòng Augustinô này. Ngày 3 tháng 11 năm 2014, Đức Phanxicô bổ nhiệm ngài làm Giám quản Tông tòa Chiclayo (Peru) và Giám mục Hiệu tòa Sufar, ngài được phong giám mục ngày 12 tháng 12 cùng năm. Ngày 26 tháng 9 năm 2015, ngài được bổ nhiệm làm Giám mục Chiclayo. Tám năm dài làm Giám mục, ngài gần gũi giáo dân, dấn thân vào xã hội, quan tâm đến việc đào tạo và hiệp nhất. Khi Đức Phanxicô bổ nhiệm ngài làm Tổng trưởng Bộ Giám mục và Chủ tịch Ủy ban Giáo hoàng về Châu Mỹ Latinh tháng 1 năm 2023, ngài đã cử hành Thánh lễ chia tay tại Nhà thờ chính tòa Chiclayo ngày 9 tháng 4. Phát biểu trước các giáo phận, từ tận đáy lòng ngài nói với họ: “Như tôi đã nói vào ngày đầu tiên, khi một nhà báo điện thoại hỏi tôi cảm thấy thế nào khi được Đức Thánh Cha bổ nhiệm vào sứ mệnh mới với tư cách là Tổng trưởng Bộ Giám mục, điều tự nhiên nảy sinh trong lòng tôi lúc đó, tôi là nhà truyền giáo, tôi được sai đi, tôi đã ở với anh chị em, và tôi có niềm vui lớn lao được ở với anh chị em trong tám năm này. Nhưng bây giờ Chúa Thánh Thần, qua Đức Phanxicô đã trao phó cho tôi một sứ mệnh mới. Dù điều này có thể khó khăn với nhiều người, nhưng chúng ta phải tiến bước, chúng ta phải đáp lại lời Chúa, chúng ta phải thưa vâng: Lạy Chúa, nếu Chúa đã gọi, con xin vâng. Con xin lời cầu nguyện của anh chị em. Con xin anh chị em hãy tiến bước trong Giáo hội. Thật vậy, nếu Chúa gọi, con xin vâng không chút do dự.” Và ngài đã chứng minh điều này trong suốt cuộc đời của ngài.
Ngài được phong Hồng y trong Công nghị ngày 30 tháng 9 năm 2023. Ngài được bổ nhiệm vào chức Phó tế Thánh Monica mới được thành lập. Là Hồng y đầu tiên của Công nghị, ngài đã chào Đức Thánh Cha thay mặt cho tất cả mọi người, với một tham chiếu đáng chú ý của Thượng Hội đồng: “Ngoài việc tìm kiếm các chương trình hoặc mô hình mục vụ mới, vốn luôn cần thiết và quan trọng, tôi tin rằng chúng ta phải ngày càng hiểu Giáo hội chỉ thực sự là Giáo hội khi Giáo hội thực sự lắng nghe, khi Giáo hội bước đi như người dân của Thiên Chúa trong sự đa dạng tuyệt vời của mình, liên tục khám phá lại lời kêu gọi khi rửa tội của chính mình để góp phần vào việc truyền bá Phúc âm và Vương quốc Thiên Chúa.”
Sự hợp lý, khả năng lắng nghe và tận tâm với công việc, cũng như tính giản dị và thân thiện của ngài, Đức Lêô đã có được sự kính trọng của tất cả những người quen biết ngài, kể cả những người trong môi trường đôi khi phức tạp của Giáo triều Rôma. Ngày 6 tháng 2 năm 2025, Đức Phanxicô đã ban tặng cho ngài một huy hiệu danh dự công khai mới, bổ nhiệm ngài làm Hồng y Giám mục của nhà thờ ngoại thành Albano. Lễ nhậm chức ngày thứ hai, ngày 12 tháng 5. Nhưng điều đó đã không xảy ra. Vài ngày trước đó, Chúa đã xin ngài làm người kế vị Thánh Phêrô. Ngài chấp nhận không chút do dự. Như một lựa chọn của tình yêu và với lòng tin tưởng trọn vẹn.
Triều của Đức Lêô XIV sẽ diễn ra như thế nào?
Chúng ta không thể dự đoán tương lai. Nhưng Đức Lêô đã vạch ra một số hướng dẫn.
Đầu tiên là tính trung tâm của Chúa Kitô Phục sinh. Ngài đã nói điều này trong bài giảng thánh lễ khởi đầu sứ vụ Phêrô của ngài ngày 18 tháng 5: “Với lòng khiêm nhường và niềm vui, chúng ta nói với thế giới: Hãy hướng về Chúa Kitô, đến gần Ngài, đón nhận Lời Ngài, Đấng soi sáng và an ủi! Hãy lắng nghe lời đề nghị yêu thương của Ngài để hình thành nên một gia đình duy nhất: trong Chúa Kitô, chúng ta là một.”
Đức Lêô đặc biệt chú ý đến sự hiệp nhất, một hiệp thông trong Giáo hội, đó là mong muốn lớn lao đầu tiên của ngài: “Một Giáo hội hiệp nhất, một dấu chỉ của hiệp nhất và hiệp thông sẽ trở nên men cho một thế giới được hòa giải.” Điều này chỉ có thể thực hiện được nếu chúng ta lấy tình yêu làm trục của cuộc sống.
“Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy qua dấu chỉ này: anh em thương yêu nhau.” (Ga 13:35). Ngài cũng đã nói lên điều này trong lời chào đầu tiên: “Thiên Chúa yêu thương chúng ta, Thiên Chúa yêu thương tất cả anh em, và sự dữ sẽ không thắng thế. Tất cả chúng ta đều ở trong tay Thiên Chúa. Chúa Kitô đi trước chúng ta. Thế giới cần ánh sáng của Ngài. Nhân loại cần Ngài như chiếc cầu để Thiên Chúa và tình yêu của Ngài đến với họ.” Vì thế ngài khẩn thiết kêu gọi: “Hãy xây dựng những cầu nối, thông qua đối thoại, thông qua gặp gỡ, thông qua hiệp nhất, tất cả chúng ta thành một dân tộc luôn sống trong hòa bình.”
Câu thứ hai là lời thách thức trong sự phát triển của Giáo hội học Công đồng Vatican II, đặc biệt là những gì được thể hiện trong Hiến chế Hiến chế Tín lý về Hội thánh (Lumen Gentium) và Hiến chế Mục vụ (Gaudium et Spes). Ngài nhấn mạnh điều này trong bài diễn văn trước các Hồng y ngày 10 tháng 5, khi ngài nhắc đến Tông huấn Niềm vui Tin mừng Evangelii Gaudium của Đức Phanxicô, đồng thời nêu bật một số điểm cơ bản của Tông huấn: sự trở về với quyền tối thượng của Chúa Kitô trong việc loan báo (x. số 11); sự hoán cải truyền giáo của toàn thể cộng đồng kitô giáo (x. số 9); sự phát triển của tính đồng đoàn và tính công đồng (x. số 33); sự quan tâm đến cảm thức đức tin (x. số 119-120), đặc biệt trong những hình thức phù hợp và bao trùm nhất như lòng mộ đạo bình dân (x. số 123); sự quan tâm trìu mến đến những người yếu đuối và bị bỏ rơi (x. số 53); đối thoại can đảm và tin tưởng với thế giới đương đại trong các thành phần và thực tại đa dạng của nó (x. số 84). Trong lời chào đầu tiên, ngài nói: “Chúng ta muốn trở thành một Giáo hội đồng nghị, một Giáo hội biết bước đi, một Giáo hội luôn tìm kiếm hòa bình, luôn tìm kiếm bác ái, luôn tìm cách gần gũi, đặc biệt là với những người đau khổ.”
Câu thứ ba là cam kết xã hội và truyền giáo, bắt nguồn từ việc Phúc Âm đi vào lịch sử. Vì thế cần phải tính đến bối cảnh địa lý và văn hóa, cũng như tính cấp thiết của việc biết cách đọc những dấu chỉ của thời đại.
Danh xưng ngài chọn là một chương trình khá dài. Ngài đã nói trong bài diễn văn trước các hồng y đã được trích dẫn ở trên: “Tôi đã nghĩ đến việc chọn danh xưng Lêô XIV. Có nhiều lý do cho điều này, nhưng lý do chính là Đức Giáo hoàng Lêô XIII, với thông điệp lịch sử Tân sự Rerum Novarum đã đề cập đến vấn đề xã hội trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp vĩ đại đầu tiên, và ngày nay Giáo hội có một học thuyết xã hội để ứng phó với một cuộc cách mạng công nghiệp khác, với những phát triển của trí tuệ nhân tạo, vốn đặt ra những thách thức mới trong việc bảo vệ nhân phẩm, công lý và lao động.” Điều này cũng bao gồm cam kết với hòa bình, luôn được ngài nhấn mạnh trong các văn kiện của Ngài, như bài diễn văn ngày 16 tháng 5 gởi đến Ngoại giao đoàn, tôi xin anh chị em đọc toàn văn.
Đức Lêô cũng đã nhiều lần đề cập đến một khía cạnh thiết yếu khác, đó là nhiệm vụ truyền giáo. Tôi xin trích dẫn bài diễn văn ngày 22 tháng 5 gởi đến các Hội Truyền giáo Giáo hoàng, ngài nhấn mạnh: “Ý thức về sự hiệp thông của chúng ta với tư cách là các chi thể của Nhiệm thể Chúa Kitô tự nhiên mở ra cho chúng ta chiều kích phổ quát của sứ mệnh truyền giáo của Giáo hội và khuyến khích chúng ta vượt ra ngoài ranh giới của các giáo xứ, giáo phận và quốc gia để chia sẻ với tất cả các quốc gia và mọi dân tộc sự phong phú dồi dào của kiến thức về Chúa Giêsu Kitô” (1). (x. Pl 3:8).
Triều của ngài sẽ đánh dấu một kỷ nguyên mới. Đã quen biết Robert Prévost nhiều năm, người mà tôi cùng chia sẻ ơn gọi và đặc sủng Augustinô, tôi tin chắc ngài sẽ là Giáo hoàng vĩ đại, người sẽ dẫn dắt Giáo hội bằng bàn tay kiên định và yêu thương; người dẫn đường đáng tin cậy cho thế giới trong thời buổi khó khăn này; người bạn đồng hành, người mục tử thanh thản, một người của Thiên Chúa. Tôi vô cùng vui mừng khi thấy ngài được đón nhận nồng nhiệt và khơi dậy lòng nhiệt thành. Tất cả chúng ta phải cam kết với ngài, hỗ trợ ngài bằng lời cầu nguyện và tình cảm gần gũi của chúng ta.
Marta An Nguyễn dịch
“Sự sống”, từ ngữ được Đức Lêô XIV thường xuyên nhắc
Người anh của Đức Lêô: “Tôi thực sự nghĩ Giáo hội đang được chăm sóc chu đáo”