Linh mục Dòng Tên Thomas Reese đã học được về đức tin, cái chết và lòng biết ơn khi sắp bước sang tuổi 80

39

Linh mục Dòng Tên Thomas Reese đã học được về đức tin, cái chết và lòng biết ơn khi sắp bước sang tuổi 80

americamagazine.org, Thomas J. Reese, 2025-01-14

Linh mục Thomas Reese (thứ sáu từ phải sang) với các tập sinh Dòng Tên tại Nhà tập Thánh Tâm, Los Gatos, California, năm 1963. (Ảnh của Linh mục Thomas Reese)

Tôi sắp bước sang tuổi 80, tôi có xu hướng tập trung vào cái chết. Tôi muốn sống thêm 20 năm nữa như Tổng thống Jimmy Carter, nhưng tôi cũng có thể chết trong 20 tháng nữa. Tôi không thể tự lừa dối mình cho rằng cái chết là một thực tế xa vời.

Trong các Bài tập Linh thao, Thánh I-Nhã khuyên linh thao viên nên suy nghĩ về giường bệnh và đời sống của họ. Trong tinh thần này, tiền bạc không quan trọng ngay cả với những người không tin. Gần như mọi người đều mong mình  dành nhiều thì giờ hơn cho gia đình và bạn bè.

Trong các loại suy gẫm loại này, có một cám dỗ là tập trung suy nghĩ vào những điều tiêu cực và cảm thấy thương hại mình đã bỏ lỡ nhiều cơ hội, đã lãng phí thời gian. Khi viết chuyên mục này, tôi bị cám dỗ này rất mạnh.

Tôi buộc tôi phải suy nghĩ về những điều tôi nên biết ơn. Nhìn lại, tôi thấy khi nào một cánh cửa đóng lại thì sẽ có một cánh cửa tốt hơn sẽ mở ra. Ngay cả trước khi tôi sinh ra, có rất nhiều điều tôi nên biết ơn: thế giới Chúa đã tạo ra, những người lính đã chiến thắng Thế chiến thứ hai, các nhà khoa học và nghệ sĩ đã biến thế giới trở thành nơi tốt đẹp hơn.

Thomas Reese, bên trái, cùng anh Edward trước Nhà thờ Thánh Têrêxa ở Alhambra, California trong ngày Rước lễ lần đầu của Thomas. (Ảnh của Linh mục Thomas Reese)

Cá nhân tôi nên biết ơn vì cha mẹ tôi là người công giáo tốt lành, tuân theo giáo lý của Giáo hội chống biện pháp kiểm soát sinh sản; nếu không thì đã không có tôi ở thế gian này, nhưng tôi không nghĩ mọi biện pháp tránh thai nhân tạo đều sai.

Cha mẹ tôi có ba người con, mẹ tôi gần 40 tuổi mới sinh tôi. Bà không muốn là người vợ nội trợ, bà thích dạy học. Anh tôi và tôi nói đùa chúng tôi là những đứa trẻ chưa dùng thuốc ngừa thai.

Tôi biết ơn y tá tại Bệnh viện Nhi đồng ở Los Angeles đã cứu mạng tôi. Sau khi tôi chào đời, tôi bị tiêu chảy, một loại bệnh ngày nay dễ trị nhưng thời đó nhiều em bé chết vì bệnh này. Cô chỉ cần giữ tôi lại với bình sữa trong miệng và chiếc tã ở mông cho đến khi tôi cầm được tiêu chảy.

Tôi cũng nên nhắc đến các Nữ tu Thiên Hựu (Providence), các Sơ làm việc ở Trường Thánh Têrêxa ở Alhambra, nơi tôi lớn lên. Mặc dù có 30 đứa trẻ trong lớp học, nhưng các sơ lo rất chu đáo. Tôi học toán giỏi, thích vẽ sơ đồ nhưng kém trí nhớ, tôi đánh vần không giỏi.

May mắn tôi lớn lên trước khi có Internet. Chúng tôi là gia đình cuối cùng trong khu phố có truyền hình, tôi không thích thể thao nên tôi là con mọt sách.

Cô giáo lớp hai gieo mầm ơn gọi cho tôi. Cô hỏi cả lớp: “Nghề nào quan trọng nhất thế giới?” Là học sinh lớp hai, chúng tôi trả lời làm lính cứu hỏa, làm cảnh sát, đứa nào thông minh thì nói làm tổng thống. Sơ định hướng cho chúng tôi: “Làm linh mục là nghề quan trọng nhất thế giới!”

Như vậy vấn đề nghề nghiệp đã giải quyết, tôi sẽ làm linh mục! Tôi sống bên kia đường đối diện với nhà thờ giáo xứ, tôi là cậu bé giúp lễ và đi lễ mỗi ngày.

Ảnh hưởng của các sơ mạnh đến mức tôi gần như đã vào chủng viện giáo phận cấp ba. Lúc đó là cuối những năm 1950. Chúng tôi không còn chủng viện cấp ba nữa. Cha mẹ tôi không khuyến khích cũng không ngăn cản ơn gọi của tôi, ông bà để tôi tự quyết định.

Anh tôi cho rằng đó là ý tưởng ngớ ngẩn và bảo tôi nói chuyện với Cha William Clasby, một đại tá Không quân, cha được một cặp vợ chồng không con sống bên kia đường bảo trợ vào chủng viện. Với giọng nói oang oang, cha nói với tôi: “Vào Trường Trung học Loyola”, như thế đủ để phản bác lại những ai nói tôi sẽ mất ơn gọi nếu không vào chủng viện.

Tổng thống Barack Obama, Linh mục Thomas Reese và Phó Tổng thống Joe Biden trong buổi sáng cầu nguyện Phục sinh năm 2013 tại Nhà Trắng. (Ảnh Nhà Trắng) 

Khi ở Loyola, tôi yêu các tu sĩ Dòng Tên. Họ là những người tôi muốn gắn bó suốt quãng đời còn lại của tôi. Tôi vào Dòng Tên trước Công đồng Vatican II, và bốn năm đầu tiên của tôi là trước thời kỳ cải cách. Chúng tôi là lính thủy đánh bộ của Giáo hoàng, là lực lượng đàn áp những kẻ dị giáo và là Dòng tu lớn nhất Giáo hội.

Tôi yêu nhà thờ cũ vì tôi không biết gì hơn. Quá trình chuyển đổi với tôi và những người cùng thời với tôi rất khó khăn vì có rất ít nhà lãnh đạo, kể cả các tu sĩ Dòng Tên. Cuối cùng, chúng tôi nhiệt tình đón nhận nhà thờ mới.

Khi tôi chuẩn bị vào chương trình tiến sĩ khoa học chính trị tại Đại học California, Berkeley, tôi hỏi lời khuyên của một người bạn Dòng Tên học ở Stanford. Câu trả lời của anh làm tôi ngạc nhiên: “Bạn nên tìm một hiệu trưởng người Do Thái.”

Nếu bạn có một hiệu trưởng người công giáo, ông ngại người khác nghĩ ông ưu ái bạn vì bạn là linh mục công giáo. Một người theo thuyết bất khả tri sẽ không hiểu bạn đến từ đâu. Nhưng một giáo sư Do Thái sẽ thích có học trò là người công giáo, ông sẽ nói có một linh mục Dòng Tên đang được ông hướng dẫn.

Không có gì bất lợi khi các giáo sư và cố vấn của tôi là những nhà khoa học chính trị lỗi lạc và nổi tiếng người Do thái: Nelson Polsby và Aaron Wildavsky.

Wildavsky gợi ý tôi viết luận án về chính trị thuế, tôi đã làm việc ba năm với tư cách là người vận động hành lang cho cải cách thuế trước khi tôi bắt đầu sự nghiệp viết lách của tôi tại America, tạp chí hàng tuần của Dòng Tên.

Là người có đức tin, tôi tin Chúa đã ở đâu đó với tôi trong suốt 80 năm xảy ra những sự kiện và quyết định tình cờ này, vì vậy tôi không chỉ biết ơn tất cả những người đã giúp đỡ tôi mà còn biết ơn Chúa. Tôi không chắc Chúa đã lên kế hoạch cho tất cả mọi thứ, nhưng tôi nghĩ Chúa đã ở đó để giúp tôi tận dụng tối đa những cơ hội nảy sinh. Nếu tôi chọn cách khác, Chúa sẽ ở lại với tôi. Và ngay cả khi tôi phạm sai lầm, Chúa vẫn chấp nhận tôi.

Khi tôi còn trẻ và kiêu ngạo, tôi nghĩ tôi có thể thay đổi thế giới. Đầu tiên, tôi sẽ cải cách bản thân và trở thành một vị thánh. Nhưng điều đó đã thất bại. Sau đó, tôi sẽ cải cách hệ thống thuế. Nhưng điều này cũng thất bại. Cuối cùng, tôi sẽ cải cách Giáo hội. Bạn biết điều này đã diễn ra như thế nào rồi.

Khi tôi phỏng vấn Hồng y Joseph Ratzinger cho quyển sách “Inside the Vatican, Bên trong Vatican” của tôi, tôi đã hỏi ngài, có bao giờ ngài lo lắng như nhiều tiền nhiệm của ngài ở Bộ Giáo lý Đức tin, đã đàn áp các nhà thần học, những người sau này sẽ được Giáo hội tôn vinh hay không.

Câu trả lời của ngài: “Anh hãy cầu nguyện và làm tốt nhất có thể.” Có lẽ đó là lời khuyên tốt nhất mà tôi từng nhận được. Đó là những gì tôi dự định sẽ làm trong 20 năm tới.

Linh mục Dòng Tên Thomas J. Reese là nhà phân tích cấp cao của Religion News Service. Trước đây, ngài là chuyên gia viết bài cho tờ The National Catholic Reporter (2015-17), biên tập viên cộng tác (1978-1985) và tổng biên tập (1998-2005) của America.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Các Giám mục Pháp hướng về Đức Lêô khi Tòa án Châu Âu xem xét việc hủy bỏ giấy chứng nhận rửa tội

Giấc mơ của cô Olga: được gặp Đức Phanxicô