Hồng y Péter Erdő: đức tin là điều quan trọng nhất

100

Hồng y Péter Erdő: đức tin là điều quan trọng nhất

vaticannews.va, Deborah Castellano Lubov, Vatican, 2024-08-19

Trong một phỏng vấn với Vatican News, Hồng y Péter Erdő, Tổng Giám mục giáo phận Esztergom-Budapest thảo luận về lòng mộ đạo bình dân, hành trình đức tin cá nhân của ngài dưới chế độ cộng sản, các gương chứng nhân đức tin, về lễ Đức Mẹ Lên Trời, lễ Thánh Stêphanô, bổn mạng nước Hungary được cử hành ngày 19 tháng 8 trên cả nước.

Hơn một nửa số dân Hungary là tín hữu kitô, sau chế độ cộng sản, đức tin của tín hữu mang hạt giống hy vọng cho một châu Âu ngày càng bị mất gốc rễ kitô giáo của mình.

Hồng y Péter Erdő nhắc đến Thánh Stêphanô, về lòng mộ đạo bình dân, về học vấn, đức tin, ơn gọi đặc biệt, cách ngài phó thác cuộc sống cho Chúa trong giai đoạn cộng sản đàn áp khó khăn nhất lịch sử. Ngài giải thích: “Chắc chắn đức tin phải đến trước. Cha mẹ tôi không qua giai đoạn này một cách bi thảm, nhưng một cách tự nhiên, họ nhận biết Thiên Chúa là Đấng tối cao.”

Vài ngày nữa, Hungary sẽ mừng lễ Thánh Stêphanô. Vì sao ngày lễ này lại quan trọng và các sự kiện chính được lên kế hoạch là gì? 

Hồng y Péter Erdő: Thánh Stêphanô là nhà vua theo kitô giáo đầu tiên của Hungary. Một ngàn năm trước, dưới triều của ông, Hungary được kitô giáo hóa bằng các biện pháp có tính thuyết phục và có tổ chức. Thánh Stêphanô đại diện cho sự thống nhất đất nước. Vì thế không chỉ người công giáo có đức tin mới tôn trọng ngài, mọi người đều tôn trọng ngài, ngày lễ này là ngày lễ quốc gia. Hàng năm chương trình bắt đầu với những nghi thức quân sự. Các tân sĩ quan tuyên thệ. Sau đó là các sự kiện được tổ chức theo nghi thức chính trị, tôn giáo như có thánh lễ ở Vương cung thánh đường Thánh Stêphanô, có rước kiệu thánh tích bàn tay phải của ngài. Buổi tối có pháo hoa, có các nghi lễ truyền thống.

Làm sao giải thích cho người nước ngoài biết Thánh Stêphanô là ai và tầm quan trọng của ngài với Giáo hội, với đất nước Hungary?

Với người Hungary nói chung, chính nhà vua là người giữ đạo vì đức tin cá nhân theo truyền thống gia đình. Ông làm tất cả để củng cố văn hóa kitô giáo, phát triển kinh tế, quan hệ với những người chung quanh. Đó là lý do vì sao các sử gia tin chắc sự sống còn của dân tộc phụ thuộc vào quyết định lớn lao này. Thánh Stêphanô mong muốn người dân Hungary gia nhập đại gia đình các dân tộc kitô giáo ở châu Âu. Đây là quyết định lớn vì nhà vua xin các nhà truyền giáo, đặc biệt các nhà truyền giáo phương Tây đến Hungary. Trong suốt cuộc đời của ông, kitô giáo phương Tây và phương Đông không tách rời nhau. Ông mất năm 1038, trước cuộc ly giáo phương Đông. Đó là lý do vì sao Giáo hội Chính thống tôn kính vua như một tông đồ, một vị thánh đã hoán cải dân mình.

Hình ảnh Thánh Stêphanô đưa chúng ta về lại lịch sử ban đầu của một quốc gia theo Thiên Chúa giáo. Ở các nước châu Âu, mối liên kết này gắn liền với lịch sử đất nước họ, bây giờ kitô giáo đang bị mất đi. Đôi khi gốc rễ này còn bị nghi ngờ, bị đàn áp hoặc họ cố tình chối bỏ. Cha nghĩ gì về xu hướng văn hóa này?

Với chúng tôi, thông điệp Mit Brennender Sorge (Với nỗi lo cháy bỏng) của Đức Piô XI công bố năm 1937 trước Thế chiến thứ hai vẫn là nền tảng. Có thể khẳng định rõ ràng các quốc gia, trong tư cách là những cộng đồng văn hóa với ngôn ngữ riêng, ký ức riêng, cấu trúc riêng, văn hóa riêng, tượng trưng cho giá trị đích thực, rằng họ thuộc về sự phong phú của tạo vật và vì thế họ được Tạo Hóa yêu quý. Trong phán xét cuối cùng của Kinh Thánh, Chúa sẽ phán xét các dân tộc. Con người cũng vậy, và không chỉ cá nhân. Vì thế con người có một vai trò nhất định trong kế hoạch vĩ đại của Thiên Chúa. Tuy nhiên, các quốc gia không đại diện cho giá trị tối cao. Đó là lý do vì sao chúng tôi luôn tìm kiếm sự cân bằng này của Giáo hoàng và lời dạy này có liên quan đến thời đại chúng ta.

Trong bối cảnh này, giá trị của việc tuyên xưng đức tin một cách công khai và trang trọng trong ngày lễ Thánh Stêphanô là gì?

Lãnh vực công và tư không thể tách rời trong đời sống xã hội và đời sống con người, vì những quyết định dù riêng tư cũng có thể có ảnh hưởng đến xã hội và ngược lại. Và rồi không gian công cộng, đường phố, quảng trường, không bao giờ trống rỗng, không thể không có những biểu tượng thể hiện một thế giới quan nhất định. Ngay cả dưới chế độ cộng sản cũng có rất nhiều tượng nói lên thế giới quan cộng sản. Tôi nhớ ở Albania, nơi tất cả các tôn giáo đều bị cấm, nhà độc tài cộng sản Enver Hoxha đã xây một kim tự tháp ở trung tâm Tirana để không gian công cộng không hoàn toàn trống rỗng. Và các biểu tượng kitô giáo như nhà thờ cho thấy cuộc sống thực tế hàng ngày không phải là chân trời tối cao, nhưng có một chân trời cao hơn mang lại ý nghĩa và giá trị cho những điều nhỏ bé trong cuộc sống chúng ta. Vì thế điều quan trọng là thỉnh thoảng phải suy nghĩ về thực tế này, ít nhất là trong những ngày lễ lớn.

Các người trẻ Hungary ngày nay có thể đã không trải qua những khó khăn như các thế hệ trước, những người đã sống và làm chứng cho đức tin trong thời điểm mà quyền lực chính trị muốn xóa bỏ kitô giáo khỏi bản sắc dân tộc. Trong giai đoạn khó khăn này của tuổi trẻ, điều gì đã giúp cha không mất niềm tin?

Trước hết, đó là cha mẹ tôi, gia đình chúng tôi, vì chúng tôi không chỉ cầu nguyện ở nhà, nói chuyện về các ngày lễ tôn giáo, cùng nhau đi nhà thờ mà cha tôi còn dạy giáo lý cho chúng tôi. Cha tôi là luật sư nhưng ông không được hành nghề vì bị cho là quá mộ đạo. Mẹ tôi là giáo viên, bà cũng không được dạy học vì cũng bị cho là quá mộ đạo.

Vì thế chúng tôi đã thấy điều gì là quan trọng nhất trong cuộc sống. Chắc chắn đó là đức tin. Cha mẹ tôi không trải qua điều này một cách bi thảm nhưng một cách tự nhiên, họ biết Thiên Chúa là Đấng tối cao và lẽ tự nhiên, tôn giáo là điều quan trọng nhất trong cuộc sống chúng ta.

Câu chuyện cha mẹ của cha bị cấm hành nghề vì không theo chủ nghĩa cộng sản có phải là tấm gương cho cha không? Tấm gương này đóng vai trò như thế nào khi cha đi tu làm linh mục? Cha nhận ra ơn gọi của cha trong tất cả những điều này phải không?

Đúng, chắc chắn rồi. Nếu đức tin là điều quan trọng nhất trong cuộc sống, thì phục vụ đức tin, truyền bá đức tin, giảng dạy đức tin và trên hết là làm thừa tác vụ phụng vụ là những điều cao cả nhất, hữu ích nhất, quan trọng nhất chúng ta làm trong cuộc sống để phục vụ người khác. Đó là động lực chính tôi cảm nhận được từ thời thơ ấu, và từ đó là cách tôi dần dần có quyết định khi vào chủng viện.

Đức Phanxicô gặp các các giáo sĩ của Vương cung thánh đường Thánh Stêphanô trong chuyến tông du Hungary năm 2023.

Đức Phanxicô muốn Năm Thánh là năm cầu nguyện đặc biệt. Cha sống Năm Thánh này như thế nào và đời sống cầu nguyện của cha như thế nào?

Đời sống cầu nguyện của tôi bắt đầu khi tôi học trung học. Tôi luôn bắt đầu ngày với bài ca ngợi đức ái trong thư Thánh Phaolô gởi tín hữu Côrintô và kết thúc bằng lời cầu nguyện Te Deum. Lời cầu nguyện là khuôn khổ cho một ngày của tôi. Người cha thiêng liêng của tôi khuyên tôi nên suy ngẫm một đoạn Tân Ước không quá 10 phút mỗi ngày, điều này giúp tôi rất nhiều trong việc tìm một hướng đi trong cuộc sống.

Trong năm cầu nguyện, chúng tôi đọc Kinh Mân Côi lúc 10 giờ sáng mỗi ngày thứ bảy đầu tháng tại quảng trường Vương cung thánh đường Thánh Stêphanô, mọi người quỳ gối cầu nguyện, đây là chứng từ vĩ đại trước thế giới. Và sau đó là giờ chầu Thánh Thể, chúng tôi có giờ chầu từ tám giờ sáng đến sáu giờ tối. Ở Nhà thờ các Thiên thần, chúng tôi có giờ chầu Thánh Thể liên tục cả ngày lẫn đêm. Mỗi thứ sáu đầu tháng, lúc 6 giờ chiều, tại giáo xứ Cristina, Cộng đoàn Emmanuel có thánh lễ và xưng tội. Các ngày thứ năm đầu tháng có giờ cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ. Mỗi thứ bảy đầu tháng có lần hạt và thánh lễ dành cho gia đình và giới trẻ. Chúng tôi đang lên chương trình để ấn định nhà thờ nào sẽ có nghi thức nhận ân xá trong Năm Thánh.

Thánh Stêphanô có lòng kính mến Đức Mẹ đặc biệt, xin cha cho chúng tôi biết về lòng kính mến Đức Mẹ của Thánh Stêphanô.

Thánh Stêphanô đã dâng vương miện và đất nước cho Đức Mẹ. Theo truyền thống, Hungary là quốc gia đầu tiên tôn kính Đức Mẹ, Đức Mẹ là Đấng bảo trợ dân tộc và đất nước chúng tôi. Thật vui mừng khi biết  có nhiều dân tộc khác cũng đã chọn Đức Trinh Nữ Maria làm Đấng bảo trợ cho họ. Mẹ là Mẹ của mọi dân tộc.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch