Bản báo cáo của Giáo hội Đức về các vụ lạm dụng tình dục

203

Bản báo cáo của Giáo hội Đức về các vụ lạm dụng tình dục

Hồng y Reinhard Marx, Chủ tịch hội đồng giám mục Đức

cath.ch, Maurice Page, 2018-09-25

Bản báo cáo của Giáo hội Đức về các vụ lạm dụng tình dục: 3’670 nạn nhân từ năm 1946 đến năm 2014

Ngày 25 tháng 9-2018, Hội đồng giám mục Đức đưa ra bản nghiên cứu các trường hợp lạm dụng trong Giáo hội công giáo Đức trong vòng mấy mươi năm vừa qua. Bản báo cáo cho biết có 3’677 trường hợp trẻ em và trẻ vị thành niên là nạn nhân các vụ lạm dụng tình dục giữa các năm 1946 và 2014, với 1’670 linh mục phạm tội.

Bản báo cáo dài 350 trang là kết quả của một cuộc điều tra rộng lớn liên ngành được bắt đầu làm vào năm 2013. Có 38’156 hồ sơ được nghiên cứu trong 27 giáo phận Đức, có 1’670 thành viên giáo sĩ (4,4%) là đối tượng của các viện dẫn lạm dụng trên các trẻ vị thành niên. Có 3’677 trẻ em và trẻ vị thành niên nạn nhân các vụ lạm dụng từ năm 1946 đến năm 2014 đã được kiểm tra.

Các cấu trúc Giáo hội đã khuyến khích cho bạo lực

Trong buổi họp báo ở Fulda, bác sĩ tâm thần Harald Dressing, Mannheim, điều phối viên của việc nghiên cứu cho biết ông rất ngạc nhiên trước tầm rộng lớn của các vụ lạm dụng này. Theo bác sĩ, kết quả của cuộc nghiên cứu này cho thấy các cơ cấu của Giáo hội đã khuyến khích cho bạo lực: “Điều này bao gồm cả lạm dụng quyền lực của hàng giáo sĩ, vấn đề độc thân của linh mục và đặc biệt là vấn đề đồng tính.” Vai trò của tòa giải tội cũng cần phải được xem lại, vì các tác giả đã dùng tòa giải tội với ý xấu, góp phần vào công việc phạm tội ác và cũng để che giấu tội. Theo bác sĩ, một nghiên cứu sâu hơn về các cơ cấu và các chủ đề này sẽ quan trọng hơn là phân tích các con số của các cá nhân, vì các con số này chỉ cho thấy “điểm nhô lên của tảng băng”.

Các giám mục giao toàn quyền cho các nhà nghiên cứu

Bác sĩ Dressing bảo vệ cho các chỉ trích của cuộc nghiên cứu, nhất là các chỉ trích ẩn danh. Ngay từ đầu, cuộc nghiên cứu đã được thành lập với tiêu chuẩn phải ẩn danh để bảo vệ các dữ liệu, và không thể nào biết tất cả các trường hợp kể từ năm 1946. Dù có các hạn chế, các nhà nghiên cứu cũng đã đưa ra ánh sáng nhiều khám phá quan trọng. Hội đồng giám mục, là người yêu cầu làm cuộc nghiên cứu này luôn dành toàn quyền cho các nhà nghiên cứu. Sự tự do này cũng được áp dụng khi loan báo và khi bình luận các kết quả, các kết quả được hình thành duy nhất bởi các nhà khoa học. 

Hồng y Marx: “Chúng tôi đã không lắng nghe các nạn nhân”

Hồng y Reinhard Marxm chủ tịch hội đồng giám mục Đức đã phản ứng một cách tự kiểm sáng suốt về Giáo hội, ngài tuyên bố: “Đã quá lâu trong Giáo hội các vụ lạm dụng bị phủ nhận, bị quanh co, bị nằm trong im lặng”. Ngài xin các nạn nhân tha lỗi và thú nhận sự nhục nhã của mình đứng trước lòng tin đã bị phá hủy do các tội ác của các người có trách nhiệm trong Giáo hội. Ngài nói: “Tôi cảm nhận sự nhục nhã của những người đã quay lưng, đã không muốn thừa nhận những gì đã xảy ra trong quá khứ và đã không săn sóc các nạn nhân. Điều này cũng đúng đối với tôi! Chúng tôi đã không lắng nghe các nạn nhân.”

Hồng y Marx nói thêm: “Lạm dụng tình dục là một tội ác. Và những người phạm tội phải bị trừng phạt. Từ rất lâu, nhân danh thể chế, chúng ta đã quay lưng, chúng ta chỉ bảo vệ chúng ta, các giám mục, các linh mục”. Giáo hội đã bao dung cho các cơ cấu quyền lực, và thường cổ động cho chủ nghĩa giáo quyền, qua đó đã làm thuận lợi cho bạo lực và các lạm dụng.

Hồng y nói tiếp, bây giờ chúng ta phải bao gồm các nạn nhân nhiều hơn trước. Công chính phải được thực thi. Giáo hội phải xây dựng một niềm tin mới và không được làm thất vọng: “Tôi biết là rất khó, tôi hiểu những người nói: ‘Chúng tôi không tin các ông nữa’.” Tôi hy vọng chúng ta “có thể lấy lại lòng tin.”

5% các linh mục trong các giáo phận liên hệ

Nhóm các nhà nghiên cứu liên ngành do bác sĩ Dressing hướng dẫn đã làm việc trong vòng bốn năm. Tất cả 27 giáo phận Đức đã tham dự vào cuộc nghiên cứu trải qua trong nhiều thời kỳ. Ở một vài giáo phận, các tài liệu của Giáo hội được được nghiên cứu sâu rộng trong tất cả các thời kỳ. Công việc nghiên cứu thống kê được bổ túc bởi một cuộc nghiên cứu chất lượng dựa trên các phỏng vấn hàng nhiều giờ với 50 người bị tố cáo và 214 người liên hệ.

Trong số 1’670 tu sĩ bị tố cáo, có 1’429 linh mục địa phận (5,1% tất cả linh mục địa phận làm việc trong thời kỳ đó), 159 linh mục Dòng (2,1 %) và 24 phó tế (1%). Với 54% các tu sĩ lạm dụng, chỉ có một tu sĩ có duy nhất một nạn nhân, 42,3 % có nhiều nạn nhân. 

62,8% nạn nhân là phái nam

62,8% nạn nhân lạm dụng tình dục là phái nam, 34,9% là phái nữ. Có 2,3% trường hợp giới tính không được nêu ra. Theo các nhà nghiên cứu, số nạn nhân nam chiếm đa số  khác với lạm dụng tình dục trên các trẻ vị thành niên không ở trong bối cảnh tôn giáo.

Ba phần tư nạn nhân có mối liên hệ về mục vụ và tôn giáo với linh mục cáo buộc, các nạn nhân là các em bé giúp lễ, học sinh học giáo lý, học sinh các lớp chuẩn bị rước lễ hay thêm sức.

Có khoảng một phần ba các tu sĩ bị tố cáo bị ra tòa giáo luật, 53% không bị ra tòa và 13,1% không có thông tin. Vào khoảng một phần tư các vụ đưa ra tòa giáo luật kết thúc mà không bị phạt. 41 bị cáo bị giáng xuống hàng giáo dân, 88 bị vạ tuyệt thông. 

Lạm dụng các trẻ vị thành niên thường xảy ra ở nhà giáo xứ

Các vụ tấn công tình dục trẻ vị thành niên thường xảy ra ở nhà riêng hay nhà chính thức của người bị cáo. Trong các trường hợp khác thì xảy ra ở các văn phòng giáo xứ, trường học hay khi đi trại hè. Các vụ lạm dụng liên hệ đến tòa giải tội, khi chỉ dẫn cho các em bé giúp lễ, khi tập hát hay trong các sinh hoạt thể thao.

Bản chất của các vụ lạm dụng được đưa ra trong một cuộc điều tra khác. Theo nghiên cứu này, có vào khoảng 15% trường hợp lạm dụng dưới hình thức giao hợp. Đa số là sờ mó dưới lớp áo quần, thường thường đi kèm với thủ dâm.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc: Một báo cáo cho thấy mức độ rộng lớn của các vụ lạm dụng tình dục trong Giáo hội Đức