Home Blog Page 48

Đức Lêô XIV phác thảo những nét chính triều của ngài

Đức Lêô XIV phác thảo những nét chính triều của ngài

lefigaro.fr, Jean-Marie Guénois, đặc phái viên tại Rôma, 2025-05-18

Trong thánh lễ khai mạc Triều giáo hoàng trước 200.000 giáo dân và nhiều nhân vật quan trọng, Đức Lêô XIV công bố phương hướng lãnh đạo Giáo hội của ngài: “Anh chị em thân mến, bây giờ là giờ của tình yêu!”

Một tuần nữa, Đức Lêô XIV sẽ chính thức là giáo hoàng trọn vẹn. Trong thánh lễ “khai mạc sứ vụ Giám mục Rôma” tại Quảng trường Thánh Phêrô ngày chúa nhật 18 tháng 5, ngài nhận hai biểu tượng quyền bính. Dây pallium, sợi dây có thêu thánh giá biểu thị chức vụ người đứng đầu Giám mục đoàn. Nhẫn ngư ông, nhẫn giáo hoàng khắc hình thánh Phêrô chứng nhận ngài là mục tử của toàn thể Giáo hội. Chỉ còn một nghi thức cuối cùng: ngồi ở ngai giám mục tại Đền thờ Thánh Gioan Latêranô, nhà thờ chính tòa của Giáo phận Rôma, ngày chúa nhật 25 tháng 5 để chính thức là “Giám mục Rôma”. Triều giáo hoàng thứ 267 trong lịch sử sẽ chính thức bắt đầu. Nhưng triều của ngài cũng đã bắt đầu với thánh lễ đông đúc ngày chúa nhật ngoài trời khi Đức Lêô lần đầu ở trong biển người, đi xe giáo hoàng giữa 200.000 giáo dân. Ngài tươi cười thư thái dù trong những ngày vừa qua ngài bận rộn gặp các cộng sự cao cấp trong giáo triều, gặp 184 đại sứ tại Vatican ngày thứ sáu, gặp các nhóm làm việc.

Thông điệp địa chính trị 

Thánh lễ khai mạc cũng phản ánh chiều kích chính trị của sứ vụ giáo hoàng, với sự hiện diện của phó tổng thống Mỹ JD Vance và tổng thống Ukraina Volodymyr Zelensky. Sau khi chào Đức Lêô, hai người đã nói chuyện với nhau nửa giờ. Buổi chiều cùng ngày, ngài tiếp riêng Tổng thống Ukraina.

Những hối tiếc

Trong giờ Kinh Nữ vương Thiên Đàng, ngài nhắc đến “Ukraina tử đạo đang chờ cuộc thương thuyết để mang hòa bình công bằng và bền vững đến cho đất nước.” Ngài lên án tình hình tại Thánh Địa: “Tại Gaza, trẻ em, các gia đình, người già còn sống sót đang bị đói.”

Một sự cố đã xảy ra trong thánh lễ. Theo chương trình, Hồng y Dominique Mamberti, 73 tuổi, người Pháp sẽ trao dây pallium cho Đức Lêô, nhưng ngài bị đau tim, giờ chót ngài không thể trao được và Hồng y Ý Mario Zenari thay thế ngài. Sau đó Vatican cho biết tình trạng sức khỏe của Hồng y Mamberti đã được ổn định.

Tầm nhìn về Giáo hoàng và Hội Thánh

Trong bài giảng, Đức Lêô nói lên quan điểm về chức vụ của ngài: “Thánh Phêrô chăn dắt đoàn chiên, nhưng ngài không bao giờ bị cám dỗ để là người đứng đầu cô độc hay đứng trên người khác.” Đức Lêô mô tả Hội Thánh công giáo là: “Hội Thánh được xây dựng trên tình yêu Thiên Chúa và là dấu chỉ của sự hiệp nhất, một Hội Thánh truyền giáo mở rộng vòng tay với thế giới, loan báo Lời Chúa, trở thành men hiệp nhất cho nhân loại.”

Ngài nhấn mạnh thêm: “Tinh thần truyền giáo phải luôn thôi thúc chúng ta, nhưng chúng ta không được giam mình trong các nhóm nhỏ, không bị cám dỗ mình hơn người khác để hướng tới sự hiệp nhất nhưng không xóa bỏ khác biệt.”

Ngài lấy làm tiếc: “Ngày nay, chúng ta vẫn còn chứng kiến quá nhiều chia rẽ, quá nhiều vết thương gây ra do hận thù, bạo lực, định kiến, do sợ người khác, do mô hình kinh tế khai thác tài nguyên của trái đất, gạt bỏ những người nghèo nhất.” Ngài kết luận: “Anh chị em thân mến, bây giờ là giờ của tình yêu!”

Niềm vui lan tỏa trong đám đông

Trong đám đông có sơ Yvonne Reungoat người Pháp từng làm việc với ngài ở Bộ Giám mục. Sơ cho biết: “Ở giữa đám đông không biên giới này, tôi cảm thấy gần gũi với ngài, tôi rất xúc động. Chúng tôi được gắn kết bằng sợi dây sâu xa và huyền nhiệm mà Chúa Thánh Thần đã nối kết chúng tôi. Điều này mang đến cho tôi một niềm vui khôn tả! Đức Lêô XIV là mục tử của Dân Chúa. Ngài dẫn dắt Hội Thánh, nhưng mỗi chúng ta đều có phần không thể thay thế để thắp lên một ánh sáng nhỏ, xua tan mây mù trên bầu trời, để niềm vui của Hội Thánh bừng lên và lan tỏa!” Quả thật, chúa nhật này ở Rôma, niềm vui ấy đã lan tỏa.

Têrêxa Trần Tuyết Hiền dịch

Làm thế nào Đức Lêô có thể tác động tích cực nhất đến chính trị Hoa Kỳ

Nhà văn Peter Seewald: “Tôi phải nói cuộc bầu cử giáo hoàng này đã vượt quá các mong chờ điên rồ nhất của tôi.”

Phòng Nước Mắt, nơi không thể thiếu của Tân Giáo hoàng

Các viễn cảnh của triều Đức Lêô theo nhà báo George Weigel

Làm thế nào Đức Lêô XIV được bầu trong vòng 24 giờ

 

 

Lêô XIV: Một “quyển sách nhanh” về một Giáo hoàng được bầu nhanh

Lêô XIV: Một “quyển sách nhanh” về một Giáo hoàng được bầu nhanh

cath.ch, Bernard Hallet, 2025-05-21

Lúc 19 giờ ngày 8 tháng 5 năm 2025, câu nói nổi tiếng “Habemus Papam!” (Chúng ta đã có Giáo hoàng) vang lên trên các loa phát thanh ở Quảng trường Thánh Phêrô. Hồng y người Mỹ Robert Francis Prevost được bầu làm Giáo hoàng, ngài lấy danh hiệu Lêô XIV. Sáu ngày sau, quyển Lêô XIV – Tông đồ của hòa bình (L’apôtre de la paix. Nxb. Salvator) được phát hành. Quyển “sách nhanh, fast book” dài 160 trang thuật lại bầu khí mật nghị và tiểu sử Giáo hoàng thứ 267 đã có mặt ở các tiệm sách. Câu chuyện hậu trường của một kỳ công xuất bản.

Tác giả Samuel Pruvot, phóng viên kỳ cựu của tuần báo Gia đình Kitô giáo Pháp (Famille chrétienne) chia sẻ: “Khi nhà xuất bản Salvator đề nghị tôi viết quyển “sách nhanh” này, tôi nhận lời với điều kiện không được biến quyển sách làm trò cười.

Nhà báo Camille Dalmas giải thích: “Ngay sau khi Đức Phanxicô qua đời, hãng tin Vatican I.Media đề nghị chúng tôi viết sách. Chúng tôi không thể vừa viết sách vừa đưa tin về mật nghị, cuộc bầu chọn Giáo hoàng và toàn bộ sự kiện. Chúng tôi vui vì được tham gia vào dự án.”

Đã có tiền lệ với Giáo hoàng Phanxicô 

Khi ông Marc Leboucher (giám đốc nhà xuất bản Salvator) tìm gặp tác giả Samuel Pruvot, ông muốn hợp tác với hãng tin chuyên về Vatican. Ông Pruvot quen biết ông Hugues Lefèvre, giám đốc I.Media và là cựu phóng viên của báo Gia đình Kitô giáo. Đặc biệt, ông biết các chuyên gia Vatican đã chuẩn bị và thường xuyên cập nhật hồ sơ “Mật nghị” đồ sộ trong suốt ba năm. Ông nói: “Tôi có thể tiếp cận khối lượng lớn dữ liệu: tiểu sử các hồng y, bài viết lịch sử về các mật nghị cũng như số liệu thống kê. Một nền tảng vững chắc để viết sách.”

Ông Marc Leboucher là người đã quen thuộc trong lãnh vực này. Nhà xuất bản Salvator đã từng xuất bản một “quyển sách nhanh” khi Đức Phanxicô được bầu, ông giải thích: “Nhưng khi đó chúng tôi không có công nghệ hiện đại và tư liệu phong phú như bây giờ. Cuộc bầu chọn năm 2013 diễn ra quá đột ngột và chúng tôi không có mặt tại chỗ.” 

Nhật ký mật nghị

Lần này, quyển sách được viết và chỉnh sửa ngay tại Rôma trước khi gởi đi in. Từ ngày 2 tháng 5, ông Samuel Pruvot, Marc Leboucher và ba cộng sự của nhà xuất bản Salvator đã có mặt tại hiện trường. Ông Pruvot nói: “Tôi muốn viết một dạng nhật ký mật nghị, thay vì chỉ chép lại và tổng hợp nội dung như nhiều ‘sách nhanh’ thường làm. Phần đầu quyển sách dựa trên thông tin của I.Media.”

Ngày 5 tháng 5, bản thảo dài 40.000 ký tự đã sẵn sàng để hiệu đính. Cùng lúc, nhóm bắt đầu thu thập thêm nội dung thực tế. Ông Pruvot kể: “Chúng tôi đã phỏng vấn các hồng y trong các cuộc họp chung để thấy được bầu khí và phác họa chân dung Giáo hoàng tương lai dựa trên các dữ liệu thu thập được.”

Nhưng đây là công việc không dễ dàng. Một số hồng y rất kín tiếng, một số chỉ đưa ra xu hướng mà không có thông tin cụ thể. Cuộc bầu chọn vẫn rất mở, nhiều ứng viên tiềm năng có thể được chọn. Giai đoạn tiền mật nghị này được thuật lại trong sách.

 Hình thức phóng sự

Ông Marc Leboucher thực hiện các cuộc phỏng vấn để in sách. Từ ngày 5 đến 7 tháng 5, công việc tiếp tục. Ông Pruvot cho biết: “Tối thứ tư 7 tháng 5, trước ngày khai mạc mật nghị, không có tin tức nào lọt ra. Các hồng y đã vào Nhà nguyện Sistine, nội bất xuất ngoại bất nhập, các ngài chuẩn bị bầu cử. Tôi tiếp tục làm phóng sự, làm việc dựa trên các bài viết của I.Media. Họ làm rất tốt, nêu lên được các thách thức lớn đang chờ Tân Giáo hoàng.”

Ngày 7 tháng 5, khói đen bốc lên từ Nhà nguyện Sistine. Phóng viên  phỏng vấn giáo dân và du khách ở Quảng trường Thánh Phêrô để thu thập thông tin.

Bầu khí tại Quảng trường Thánh Phêrô

Sáng hôm sau, phóng viên Gia đình Kitô giáo trở lại Quảng trường Thánh Phêrô để viết bài tường thuật. Lúc 18:07, khói trắng bốc lên, mọi thứ tăng tốc. Ông Pruvot kể tiếp: “Tôi tiếp tục làm việc trên hiện trường cho đến khi Giáo hoàng người Mỹ xuất hiện trên ban-công Đền thờ Thánh Phêrô. Ngài ở trong các ứng viên, nhưng ít ai ngờ… Tôi tiếp tục làm phóng sự, phải gởi bài dài 10.000 ký tự về tòa soạn.”

Khoảng 23 giờ, ông vào nhóm của ông Marc Leboucher. Ông kể: “Chúng tôi bắt đầu cấu trúc sách, xem lại những gì còn thiếu và lên kế hoạch bổ sung cho phần tiểu sử của Tân Giáo hoàng Robert Francis Prevost dựa trên dữ liệu của I.Media.” Trong đêm, nhóm chia nhau công việc. Ngày 9 tháng 5, ông Pruvot may mắn phỏng vấn được sứ thần Tòa Thánh tại Hoa Kỳ, đại sứ đã từng làm việc với Tân Giáo hoàng: “Một cơ hội bằng vàng! Đại sứ cung cấp thêm chi tiết tiểu sử và những giai thoại thú vị.”

13.000 bản in

Tiểu sử do I.Media cung cấp tiếp tục bổ sung. Các thành viên của nhóm bổ sung nội dung thu thập trong ngày, đặc biệt từ các cuộc phỏng vấn với các tu sĩ Dòng Augustinô ở Rôma. Những yếu tố mới này giúp hoàn thiện chân dung một Giáo hoàng kín đáo với truyền thông. Bản thảo liên tục được cập nhật với tin mới của I.Media.

Trong đêm 9 rạng sáng 10 tháng 5, bản nháp đầu tiên hoàn tất. Việc hiệu đính tổng thể bắt đầu. Ông Pruvot kể tiếp: “Chúng tôi rất vui vì có thể biên tập quyển sách đàng hoàng – điều hiếm gặp ở thể loại ‘sách nhanh’ vì thường bị chắp vá thêm nội dung. Lần này, chúng tôi thực sự kể lại quá trình bầu chọn Đức Lêô XIV như một câu chuyện. Nhóm tiếp tục chỉnh sửa trong đêm.”

Chiều chúa nhật 11 tháng 5, bản thảo được gởi đi in. Ngày hôm sau sách in xong và phát hành tại các tiệm sách ngày 14 tháng 5. Giám đốc nhà in Salvator cho biết: “10.000 quyển đầu tiên đã được in, chúng tôi tái bản thêm 3.000 quyển. Nhiều người hỏi chúng tôi có dùng trí tuệ nhân tạo không, tôi cười. Thật ra, tất cả đều do con người thực hiện.”

Tông đồ của hòa bình (L’apôtre de la paix. Nxb. Salvator. Tháng 5 năm 2025, 164 trang).

Marta An Nguyễn dịch

Làm thế nào Đức Lêô có thể tác động tích cực nhất đến chính trị Hoa Kỳ

Đức Lêô XIV phác thảo những nét chính triều của ngài

Nhà văn Peter Seewald: “Tôi phải nói cuộc bầu cử giáo hoàng này đã vượt quá các mong chờ điên rồ nhất của tôi.”

Phòng Nước Mắt, nơi không thể thiếu của Tân Giáo hoàng

Các viễn cảnh của triều Đức Lêô theo nhà báo George Weigel

Làm thế nào Đức Lêô XIV được bầu trong vòng 24 giờ

 

 

  Các viễn cảnh của triều Đức Lêô theo nhà báo George Weigel

Các viễn cảnh của triều Đức Lêô theo nhà báo George Weigel

belgicatho.be, 2025-05-13

Sau một tháng căng thẳng tại Rôma

Tên hiệu

Tôi rất hài lòng với tên hiệu Tân Giáo hoàng chọn. Như tôi đã đề cập trong các bài viết trước đây, Đức Lêô XIII tạo cho triều giáo hoàng hiện đại của ngài một chiến lược lớn lao cho Giáo hội: đối thoại với thế giới hiện đại để đưa thế giới về với Chúa Kitô. Ngài nhìn Giáo hội Hoa Kỳ như một hiện tượng mới mẻ trong đời sống công giáo: một Giáo hội địa phương phát triển mạnh, thể chế tách biệt khỏi nhà nước, và sống đúng bản chất của mình. Từ đó, tư duy thần học đã thay đổi, và kết quả là Tuyên ngôn Phẩm giá con người Dignitatis Humanae về tự do tôn giáo của Công đồng Vatican II ra đời, văn kiện mở đường để Giáo hội công giáo trở thành tổ chức bảo vệ nhân quyền lớn nhất thế giới, như sử gia Oxford Sir Michael Howard đã mô tả.

Khi phong hồng y cho John Henry Newman, Đức Lêô XIII cho thấy không có một khuôn mẫu duy nhất nào làm thần học cách chân chính trong Giáo hội. Khi đóng dấu Tòa Thánh lên công trình của Newman, ngài xác nhận phương pháp xuất sắc này là phương pháp giúp phân biệt rõ giữa phát triển giáo lý chân chính và những sai lệch bị ngụy trang dưới danh nghĩa “đổi mới tư duy” (một cụm từ rất thông dụng trong 12 năm qua).

Đức Lêô XIII hết lòng cổ vũ tư tưởng của thánh Tôma Aquinô, đưa ngài trở lại trung tâm đời sống trí thức công giáo. Nhờ vậy, ngài tái khẳng định xác tín của Giáo hội: đức tin và lý trí là đôi cánh giúp tâm trí con người vươn tới chân lý, như Đức Gioan Phaolô II đã nói một thế kỷ sau đó. Đức Lêô XIII còn là cha đẻ của học thuyết xã hội Công giáo hiện đại, bắt đầu từ thông điệp Thông điệp Tân sự Rerum Novarum (1891) và kéo dài đến Centesimus Annus (1991) của Đức Gioan Phaolô II.

Chúng ta cũng không thể quên Thánh Lêô Cả, bậc thầy giảng thuyết, ngài đã đưa ra công thức thần học tại Công đồng Chalcédoine giúp Giáo hội hiểu đúng hai bản tính của Đức Kitô trong một ngôi vị duy nhất. Ngài đã can đảm đối đầu với người Hung để bảo vệ người dân, từ đó thiết lập mô hình can thiệp vào thế sự của giáo hoàng, mô hình này đã được phát huy trong nhiều thế kỷ sau.

Vì thế danh hiệu “Lêô” Tân Giáo hoàng chọn có một di sản cao quý.

 Y phục giáo hoàng

Số chữ và số pixel để mô tả y phục của Đức Lêô trong lần ra mắt đầu tiên với Giáo hội và thế giới thật đáng ngạc nhiên. Mọi người chú trọng vào chiếc áo choàng, dây stola và thánh giá ngực thay vì chú trọng đến lời chào Kinh Thánh tuyệt đẹp và thông điệp đầy Kitô tính của ngài.

Thông điệp này có ý nghĩa gì? Theo tôi, thông điệp này đơn giản là dấu hiệu cho thấy Tân Giáo hoàng hiểu đúng bản chất sứ vụ của thánh Phêrô, một sứ vụ không thể bị chi phối bởi sở thích cá nhân.

Ngài đứng ở đâu?

Những lo âu sâu sắc trong thời gian trống tòa và mật nghị vừa qua phần nào phát sinh từ sự mơ hồ của triều giáo hoàng trước đã làm cho một số giáo dân nhạy bén cảnh báo ngay tối thứ năm tuần rồi, khi truyền thông tìm cách dồn Tân Giáo hoàng vào những câu hỏi gây tranh cãi.

William Doino Jr., một học giả tận tụy của Giáo hội, đã kịp thời tập hợp những phát biểu công khai của Đức Lêô khi còn là hồng y về một số chủ đề. Tôi xin chia sẻ lại ở đây với lòng biết ơn:

Robert Prevost về khía cạnh phản văn hóa của Tân Phúc Âm hóa:

  1. https://www.youtube.com/watch?v=WttXvZt3m6k
  2. https://www.youtube.com/watch?v=uLkGBu0y1pQ

Đức Lêô tôn trọng quyền sống ở mọi giai đoạn và mọi hoàn cảnh.

Về việc giáo sĩ hóa phụ nữ trong các cuộc tranh luận về việc phong chức cho phụ nữ:

https://www.catholicnewsagency.com/news/255823/cardinal-at-synod-on-synodality-clericalizing-women-will-not-solve-problems

Về vấn đề trợ tử (euthanasie):

https://www.catholicnewsagency.com/news/33863/dont-go-there-%E2%80%93-belgians-plead-with-canada-not-to-pass-euthanasia-law

Như bài viết trên New York Post đã nhận xét, ngài không dễ bị đóng khung theo các nhãn mác ý thức hệ quen thuộc. Tuy vậy, dựa vào những phát biểu của ngài về sự phản văn hóa tất yếu của người công giáo truyền giáo chân chính, tôi nghĩ, ngài hiểu rất rõ cuộc khủng hoảng nền tảng của thời đại: khủng hoảng nhân học, khủng hoảng về chính ý niệm con người.

Chúng ta là sản phẩm tình cờ của vũ trụ hay của thụ tạo? Có tồn tại chân lý được ghi khắc trong thế giới và trong chính chúng ta không, những chân lý, khi được nhìn nhận, sẽ dẫn đến sự trưởng thành, hạnh phúc và tình liên đới? Hay là ý nghĩa chỉ là điều chúng ta áp đặt lên thực tại bằng ý chí? Số phận của chúng ta là hư vô hay vinh quang?

Khôi phục bộ máy

Sáng thứ bảy tuần trước, khi gặp các hồng y, ngài đã nghe lời nhắn gởi đầy cảm xúc: những rối loạn và tinh thần thù hằn đã ảnh hưởng quá nhiều đến đời sống Vatican và Rôma trong những năm vừa qua phải được xử lý, vì những rối loạn này đang hủy hoại con người. Chắc hẳn ngài đã biết một phần về những điều khủng khiếp này khi điều hành một cơ quan trung ương. Nhưng khi một hồng y cao cấp đã khóc khẩn cầu Tân giám mục Rôma hành động, thì không thể xem nhẹ vấn đề được nữa.

Như thường lệ, nhân sự là chính sách. Cách ngài sắp xếp lại bộ máy lãnh đạo cao nhất của Giáo hội cho thấy ngài đã hình dung tương lai ra sao. Bên cạnh đó, trong các cuộc họp tiền mật nghị, các Hồng y đã đồng ý Vatican cần hoàn tất việc cải tổ tài chính càng sớm càng tốt, trước khi các khoản thâm hụt thường niên đưa đến khủng hoảng và quỹ hưu trí, vốn đang thiếu hụt trầm trọng dẫn đến nguy cơ vỡ nợ, nhất là với các nhân viên nhỏ bé của Vatican.

Một giáo hoàng theo mẫu Thánh Phaolô, mạnh mẽ trong việc rao giảng và làm chứng nơi công cộng là một hồng ân. Tuy nhiên, sứ mạng của Phêrô không phải là sứ mạng của Phaolô. Không chỉ khác về tên gọi. Trong Công vụ Tông đồ chương 15, chính thánh Phaolô đã xin Phêrô đưa ra quyết định. Phêrô là người phán quyết sau khi đã lắng nghe, cân nhắc và hành động đúng luật. Việc cải tổ bộ máy nâng đỡ vai trò quản trị của Phêrô, trong đó có những thay đổi về nhân sự, là điều thiết yếu để bảo đảm thành công cho triều đại mới này.

Một sự trở lại đáng chú ý…

Tối hôm bầu giáo hoàng, trên đài NBC tôi nhận xét việc cả thế giới đổ dồn ánh mắt về sự kiện chuyển giao này là một sự trở lại lớn trong lịch sử.

Năm 1870, khi phần đất cuối cùng của các quốc gia thuộc giáo hoàng bị Vương quốc Ý thâu tóm, khi Đức Piô IX rút về Vatican, tự cho mình là “tù nhân của Tòa Thánh”, nhiều người quyền thế ở Châu Âu cho rằng triều giáo hoàng đã hết thời. Nhưng 155 năm sau, các đế quốc Anh, Pháp, Đức, Nga, Nhật và Áo-Hung đã tan rã nhưng thế giới vẫn còn chăm chú nhìn ống khói nhỏ trên nóc Nhà nguyện Sistine để chờ người kế vị Đức Piô IX, đứng đầu cộng đồng kitô giáo lớn nhất toàn cầu.

Không một bầu cử nào dù là bầu thật trong các nền dân chủ, hay gian lận như ở Nga hay Trung Quốc có thể thu hút sự quan tâm lớn lao như vậy.

Năm 1870 ai nói trước được điều này sẽ bị cho là hoang tưởng hoặc mơ mộng.

Nhưng cái nhìn quá hẹp?

Làn sóng truyền thông dồn dập ba tuần qua làm cho mọi người lầm tưởng giáo hoàng là điều duy nhất đang diễn ra trong Giáo hội công giáo hoặc ít nhất là điều duy nhất đáng quan tâm. Đó là một sai lầm.

Hôm qua, khi gặp khoảng sáu ngàn nhà báo, Đức Lêô đã nhẹ nhàng mời họ mở rộng tầm nhìn, nhìn đến toàn thể Giáo hội hoàn vũ, và kể những câu chuyện khác ngoài chuyện Vatican.

Nhưng sự eo hẹp tầm nhìn này không chỉ là lỗi của truyền thông. Có quá nhiều người công giáo bị ám ảnh bởi những gì đang xảy ra tại Rôma hoặc bởi những gì họ nghĩ đang xảy ra dựa trên các tin tức méo mó từ truyền thông và mạng xã hội. Đây là mật nghị giáo hoàng thứ ba tôi được chứng kiến, và tôi càng xác tín thực tế ở Vatican và cách truyền thông phản ánh là hai điều rất khác nhau, đặc biệt là trên mạng, nơi nhắc chúng ta nhớ vì sao Thiên Chúa dựng nên các tổng biên tập!

Đức Piô IX, như đã nói ở trên, điều hành Giáo hội từ năm 1846 đến 1878 là Giáo hoàng đầu tiên có hình được treo trong nhà giáo dân. Trước đó, đa số người công giáo không biết Giám mục Rôma là ai, hay vai trò của ngài ảnh hưởng gì đến họ. Như Matthew Franck đã viết rất đúng trong các lá thư này, Giáo hội ngày nay cần một Giáo hoàng mà giáo dân không cần nghĩ đến mỗi ngày, không bị ám ảnh mỗi ngày nhưng cầu nguyện cho ngài mỗi ngày. Tại Mỹ, chỉ riêng Nhà Trắng là đủ để mọi người phân tâm đủ chuyện rồi.

Vậy một giáo hoàng “ẩn mình khỏi truyền thông” là điều cần thiết?

Báo chí Ý lại “tiên đoán” sai

Tháng 8 năm 1978, báo chí Ý khẳng định Hồng y Sergio Pignedoli, hoặc Hồng y Sebastiano Baggio sẽ là Giáo hoàng. Nhưng cả hai đều không được sự ủng hộ đáng kể, và hồng y Albino Luciani (Đức Gioan-Phaolô I) được bầu. Trong mật nghị năm 1978, báo chí lại chọn sẵn hồng y Giovanni Benelli hoặc Giuseppe Siri. Nhưng cả hai đều thất bại. Hồng y Karol Wojtył đắc cử.

Năm 2005, báo chí Ý “bầu” hồng y Carlo Maria Martini nhưng người có số phiếu cao là Hồng y Joseph Ratzinger.

Năm 2013, họ lại đưa Hồng y Angelo Scola lên ngôi… nhưng Hồng y Jorge Mario Bergoglio được bầu.

Năm nay, truyền thông Ý sớm bầu Hồng y Pietro Parolin, cả trước khi Đức Phanxicô được an táng. Có vẻ như có một luật bất thành văn trong việc phân tích bầu giáo hoàng.

Tương lai của vai trò lãnh đạo Công giáo

Trong ba tuần đầy biến động vừa qua tại Rôma, tương lai của Giáo hội đang hiện rõ dần khi các hồng y từ Châu Phi và Châu Á lên tiếng, họ đóng góp ý tưởng và cho thấy một hình mẫu lãnh đạo công giáo đang thành hình.

Trong số những khuôn mặt gây ấn tượng mạnh có hồng y William Goh của Singapore, hồng y Virgilio do Carmo da Silva của Timor-Leste và hồng y Peter Okpaleke của Nigeria. Đó là các mục tử trung thành, mạnh mẽ, dấn thân vào công việc Tân Phúc Âm hóa, có khả năng trình bày cách rõ ràng và đầy thuyết phục giáo huấn tín lý và luân lý của Hội Thánh. Họ xứng đáng được lắng nghe và chắc chắn sẽ tiếp tục được lắng nghe.

Lời khuyên từ Trondheim, Na Uy

Tôi dự tính dành Tuần Thánh và những ngày sau đó tại Trondheim, Na Uy với giám mục Erik Varden, nhưng cái chết của Đức Phanxicô và những bổn phận khác làm tôi phải về Rôma ngay. Đức cha Varden tổ chức buổi ra mắt ấn bản tiếng Na Uy quyển sách của tôi về Công đồng Vatican II – Sanctifier le monde và còn gửi tặng tôi chai Aquavit, tôi chưa có dịp khui chai rượu này, tôi chờ khi tình hình tại Rôma bớt căng thẳng.

Tôi không ngạc nhiên khi tác giả blog Coram Fratribus, một trang không thể thiếu lại có một bài suy tư sâu sắc về mật nghị giáo hoàng và biến cố bầu Tân Giáo hoàng được trình bày trong một cuộc phỏng vấn với nhà báo Luke Coppen. Tôi đã trích dẫn một vài điểm trong chương trình truyền hình tối bầu giáo hoàng trên NBC, tôi xin trích nguyên văn đoạn sau đây của Đức cha Varden:

Ở đây, không phải là chuyện ai sẽ thắng. Chúng ta có nghĩ đến gánh nặng mà Tân Giáo hoàng sẽ gánh khi ngài nói “vâng” không? Chúng ta có nghĩ đến giờ phút ngài sẽ phải trả lời trước Thẩm phán Tối cao không?

Nếu quý vị đã đọc Dante, đã ngắm bức tranh thời Trung cổ về ngày phán xét, quý vị sẽ thấy có không ít những chiếc mũ giám mục nơi tầng thấp nhất. Với tôi, đó là điều làm tôi rùng mình khi suy nghĩ. Trách nhiệm của họ quá lớn.

Đức Giáo hoàng tương lai cần một sức mạnh và một đức tin mà chúng ta không thể hình dung được: vừa vững vàng vừa mềm dẻo; vừa hiện diện trọn vẹn trong các thực tại trần thế, vừa sống trọn vẹn đời sống siêu nhiên; một người phải sống tinh thần từ bỏ cách anh hùng, không ngơi nghỉ; một người thực tâm “xin vâng” với sứ mạng Thánh Phêrô: “Khi ngươi về già, ngươi sẽ giang tay ra, và người khác sẽ thắt lưng cho ngươi, và dẫn ngươi đến nơi ngươi không muốn” (Ga 21,18). Ai có thể đảm đương được sứ mạng này?

Thay vì xem mật nghị là trường đua hay sòng bài, tôi nghĩ chúng ta nên suy nghĩ và cầu nguyện theo cách này: Ngay lúc này, Thiên Chúa quan phòng đang chuẩn bị một người được tuyển chọn để bước vào hiến lễ vượt qua của Đức Kitô, sống hiến lễ đó đến trọn đời, dưới cái nhìn chăm chú của thế gian, sẵn sàng đổi “Hosanna!” thành “Đóng đinh nó đi!” trong chớp mắt.

Habemus papam! Hãy sốt sắng liên lỉ cầu nguyện cho ngài.

Tác giả George Weigel là nghiên cứu viên cao cấp tại Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công, Washington.

Têrêxa Trần Tuyết Hiền dịch

Làm thế nào Đức Lêô có thể tác động tích cực nhất đến chính trị Hoa Kỳ

Đức Lêô XIV phác thảo những nét chính triều của ngài

Nhà văn Peter Seewald: “Tôi phải nói cuộc bầu cử giáo hoàng này đã vượt quá các mong chờ điên rồ nhất của tôi.”

Phòng Nước Mắt, nơi không thể thiếu của Tân Giáo hoàng

Làm thế nào Đức Lêô XIV được bầu trong vòng 24 giờ

 

 

Làm thế nào Đức Lêô có thể tác động tích cực nhất đến chính trị Hoa Kỳ

Làm thế nào Đức Lêô có thể tác động tích cực nhất đến chính trị Hoa Kỳ

americamagazine.org, Timothy Shriver, 2025-05-09

Ngày 18 tháng 5 khi đám đông tụ họp trước thánh lễ nhận chức của Đức Lêô XIV, một phụ nữ giương cao lá cờ Mỹ (Ảnh: OSV News / Yara Nardi, Reuters)

Cả thế giới sửng sốt khi một người Mỹ được bầu làm Giáo hoàng,  tôi cũng như rất nhiều người Mỹ khác đã ngỡ ngàng và tự hào. Khi ngài giới thiệu bằng lời chào “Bình an cho anh chị em”, tôi thật xúc động khi thấy người Mỹ thuộc nhiều tín ngưỡng và văn hóa khác nhau cùng tự hào vì người đồng hương của mình ở một vị trí linh thiêng cao cả. Đó cũng là niềm hy vọng vì lời mời gọi sống phẩm giá của ngài mang tính phổ quát.

Tôi không khỏi nhớ lại 65 năm trước, khi nhiều người Mỹ còn nghi ngờ một người công giáo có thể trở thành Tổng thống Hoa Kỳ. Vậy mà hôm nay, một người Mỹ lại trở thành giáo hoàng của Giáo hội công giáo. Sự thay đổi văn hóa trong vài thập niên qua thật sâu rộng đến mức khó tưởng tượng nổi.

Vào thập niên 1960, định kiến chống công giáo phổ biến đến nỗi suýt nữa đã làm cho chú của tôi, John F. Kennedy, không thể tuyên thệ nhậm chức. Khi tranh cử, ông đã phải rất chật vật để thuyết phục cử tri rằng Tòa Thánh Rôma sẽ không can thiệp vào việc điều hành của chúng tôi.

Ngày nay, chúng ta đã tiến một chặng dài trong việc chấp nhận sự khác biệt tôn giáo và nhiều khác biệt khác từng gây chia rẽ. Nhưng chúng ta vẫn chưa thực sự biết cách bảo đảm phẩm giá cơ bản cho mọi người. Vì thế, thật mỉa mai mà cũng thật hợp lý khi tôi hy vọng Đức Lêô sẽ có ảnh hưởng sâu rộng đến chính trị và văn hóa Mỹ trong những năm tới.

Tôi không hề ủng hộ việc phá bỏ ranh giới giữa Giáo hội và Nhà nước. Tôi chỉ nghĩ, vào thời điểm này, với Giáo hoàng đặc biệt này, Nhà nước có thể học được nhiều điều từ Giáo hội.

Khi đi khắp đất nước, tôi nghe người dân nói về một cuộc khủng hoảng niềm tin, về sự đổ vỡ trong các mối liên kết và cảm giác không thuộc về đâu cả. Ngay từ những lời đầu tiên, Đức Lêô đã là người kiến tạo hiệp nhất, mời gọi một thế giới hòa bình hơn. Chúng ta đang rất cần những nhà lãnh đạo biết khơi dậy điều tốt nhất nơi con người, thay vì kích động điều xấu nhất.

Trong một phát biểu đầu tuần, Đức Lêô còn đi xa hơn khi ngài lên tiếng bảo vệ quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí, cho thấy sự nhạy bén với kiểu truyền thông hiện đại đang bị các thuật toán chi phối và làm độc hại không gian công cộng. Ngài nói: “Chúng ta hãy giải trừ mọi định kiến, oán hận, cuồng tín và thù ghét khỏi truyền thông; hãy giải thoát truyền thông khỏi tính gây hấn. Chúng ta không cần truyền thông ồn ào, mạnh mẽ, mà cần truyền thông biết lắng nghe.”

Tôi cảm thấy được an ủi khi nghe những lời này, vì nhiều năm qua, tôi đã cố gắng hạ nhiệt bầu khí chính trị ở Mỹ bằng cách thay sự khinh bỉ thường thấy trong lời ăn tiếng nói bằng sự tôn trọng phẩm giá con người. Đức Lêô nhắc chúng ta có thể giải quyết xung đột, hàn gắn chia rẽ và ngăn ngừa bạo lực nếu chúng ta biết lưu tâm đến cách mình cư xử trong lúc bất đồng hay khủng hoảng.

Vấn đề của chúng ta không nằm ở bất đồng, mà ở cách cư xử khi bất đồng. Ngôn ngữ và hành vi của chúng ta thường đầy khinh miệt, chỉ làm chia rẽ thêm sâu sắc vì khơi dậy ham muốn trả đũa và khép chúng ta vào vòng xoáy trả thù. Nếu muốn đoàn kết để giải quyết vấn đề, chúng ta phải từ bỏ khinh miệt và hướng về phẩm giá.

Chúng ta rất cần những tiếng nói mạnh mẽ, những nhà lãnh đạo có uy tín về luân lý dám nói: việc sỉ nhục, vô nhân hóa và khinh miệt nhau đang trở thành điều bình thường trong xã hội là điều hoàn toàn sai trái, chúng ta có một con đường tốt đẹp hơn.

Chúa nhật vừa qua, trước hàng trăm ngàn người ở Quảng trường Thánh Phêrô, trong bài giảng lễ nhậm chức, Đức Lêô đã kêu gọi hiệp nhất với các nguyên thủ quốc gia và nhân vật quan trọng trên thế giới. Ngài nói: “Chúng ta vẫn còn thấy quá nhiều chia rẽ, quá nhiều vết thương do hận thù, bạo lực, định kiến, do sợ hãi điều khác biệt và mô hình kinh tế khai thác tài nguyên trái đất, đẩy người nghèo ra bên lề.”

Qua tất cả những gì chúng ta đã biết về Đức Lêô XIV, ngài đã luôn sống và giảng dạy điều này suốt đời, dựa trên nền tảng học thuyết xã hội Công giáo. Nếu sứ điệp ấy vang vọng từ Rôma đến khắp nước Mỹ và cả thế giới, chúng ta sẽ có được nhiều điều tốt đẹp.

Têrêxa Trần Tuyết Hiền dịch

Đức Lêô XIV thận trọng tìm một Giáo hội hiệp nhất trong một thế giới chia rẽ

Đức Lêô XIV thận trọng tìm một Giáo hội hiệp nhất trong một thế giới chia rẽ

la-croix.com, Céline Hoyeau, Matthieu Lasserre và Héloise de Neuville, 2025-05-13

Đức Lêô XIV tại ban-công Đền thờ Thánh Phêrô, Rôma ngày chúa nhật 11 tháng 5 năm 2025. Tiziana Fabi / AFP

Đức Lêô XIV, người điềm tĩnh, nhà cải cách thận trọng đang tìm một Giáo hội hiệp nhất trong một thế giới chia rẽ.

Sau bốn vòng bỏ phiếu, ngày thứ năm 8 tháng 5, các Hồng y đã bầu Tu sĩ Dòng Âugustinô, Hồng y Robert Francis Prevost làm Giáo hoàng. Mật nghị đã chọn người bén rễ trên ba châu lục, có khả năng hiện thân cho sự hiệp nhất của Giáo hội và tiếp nối các triều giáo hoàng trước đó.

Gương mặt ngài không che giấu được xúc động đang dâng trào. Khi ngài xuất hiện ở ban-công Đền thờ Thánh Phêrô, tiếng reo hò của giáo dân như làn sóng mạnh ập về ngài. Chỉ trong ba phút đầu tiên đối diện với thế giới, dường như đột nhiên ngài cảm nhận tầm mức quy mô choáng ngợp của sứ mạng được giao, sức nặng hy vọng của hơn một tỷ giáo dân đặt nơi ngài.

Nhưng khi ngài cất tiếng nói trước đám đông ở Quảng trường, với áo choàng đỏ và dây các phép trên vai, giọng nói dịu dàng của ngài – còn hơn cả choáng ngợp – cho thấy một quyết tâm bình thản. Rất nhanh chóng, ngài bước vào sứ vụ Giáo hoàng một cách giản dị tự nhiên.

Khi chọn cựu Giám mục của Chiclayo, một trong những thành phố lớn nhất Peru, các hồng y như đã thấy “mục tử” họ đã phác họa trong các cuộc họp tiền mật nghị. Trong thế giới bị xáo trộn vì các cuộc xung đột vũ trang, ngài đưa ra lời kêu gọi định hình phần nào âm hưởng triều của ngài. Với giọng dứt khoát ngài tuyên bố: “Tôi xin gởi đến anh chị em ở bất cứ nơi đâu, đến mọi dân tộc, đến khắp toàn cầu lời chúc bình an của Chúa ở cùng anh chị em. Đó là bình an của Đức Kitô phục sinh: một bình an không vũ khí, khiêm tốn và kiên định. Bình an của Chúa, của Thiên Chúa yêu thương tất cả chúng ta không điều kiện.”

Cây cầu giữa Bắc và Nam

Chúng ta khó xếp loại ngài. Ngài là Giáo hoàng đầu tiên người Mỹ trong lịch sử; ngài cũng là người Peru đầu tiên kế vị Thánh Phêrô. Trong số các Hồng y Mỹ, ngài là người “ít Mỹ nhất” do tính cách kín đáo và dè dặt, do hành trình cuộc đời: ngài chỉ sống một phần ba cuộc đời ở Hoa Kỳ. Hành trình của ngài mang dấu ấn sâu đậm những năm ngài là nhà truyền giáo và giám mục ở Peru – đến mức ngài được cho là người “Mỹ la-tinh” nhất trong số người Mỹ. Ngài có quốc tịch Peru, ngài là chiếc cầu nối giữa nhiều thực tại giáo hội khác nhau. Và là điểm liên kết giữa Bắc và Nam, trên một lục địa bị chia rẽ. Trong những năm sống ở Peru, ngài lấy việc đón tiếp người nghèo và người di cư làm tâm điểm sứ vụ của ngài. Hồng y đồng hương Joseph Tobin mô tả ngài là “người không lùi bước nếu đó là lý do chính đáng”.

Ngài sẽ có lập trường ra sao với Tổng thống Donald Trump và Phó tổng thống J. D. Vance? Những bài viết ngài chia sẻ trong những tháng gần đây trên Twitter khi ngài còn giữ chức Bộ trưởng Bộ Giám mục cho thấy ngài không đồng ý với chính sách di dân của họ, ngài cho thấy sự nhạy cảm của một người trong Giáo hội quan tâm đến sự tổn thương của người di dân, theo đúng chiều hướng của vị tiền nhiệm. Tuy nhiên, liệu ngài có đối đầu trực tiếp với hai nhà lãnh đạo Mỹ này không? Hồng y Mỹ Timothy Dolan phát biểu trong cuộc họp báo ở New York sau mật nghị: “Ngài là người muốn xây dựng những cây cầu với các quốc gia. Tôi không nghĩ các anh em Hồng y của tôi muốn chọn một người đối nghịch với chính quyền. Ngài là Giáo hoàng quy tụ trong một Giáo hội công giáo đang bị cuốn theo những làn gió trái chiều.”

Nếu năm 2013, các Hồng y đã bầu một Giáo hoàng “từ tận cùng thế giới”, thì khi bầu Đức Lêô làm Giáo hoàng, họ đã chọn người có gốc rễ ở ba châu lục: nguồn gốc đa văn hóa của ngài không thể xem ngài là Giáo hoàng của một quốc gia nào. Ngài nói tiếng Anh, Tây Ban Nha, Ý, Bồ Đào Nha và Pháp, sinh ra tại Chicago, bang Illinois, một giáo phận có truyền thống lâu đời ở Hoa Kỳ, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của làn sóng nhập cư Ý và Ba Lan. Mẹ ngài là bà Mildred Agnes Martinez, thủ thư, có tổ tiên gốc Tây Ban Nha, Creole Louisiana và Haiti; cha của ngài là ông Louis Marius Prevost, hiệu trưởng, trung úy hải quân Hoa Kỳ trong Thế chiến thứ hai, có cha người Ý, mẹ người Pháp sinh tại Le Havre năm 1894.

Một nhà cải cách thận trọng

Trước khi qua đời, Đức Phanxicô đã đưa ra chương trình Thượng Hội đồng về Tính đồng nghị kéo dài đến năm 2028, Đức Lêô XIV xuất hiện như người thừa kế công trình lớn lao này – được khởi xướng để giáo dân có thể tham gia nhiều hơn trong việc điều hành Giáo hội. Không còn việc ủng hộ mang tính hình thức, Đức Lêô dấn thân quyết liệt để thực hiện tính đồng nghị, điều mà ngài xem là phương thuốc chữa trị những chia rẽ trong Giáo hội. Ngay từ tối đầu tiên sau khi được bầu chọn, từ ban-công Đền thờ Thánh Phêrô, ngài kêu gọi một “Giáo hội đồng nghị” cho thấy tầm nhìn của ngài từ năm trước, ngài nói trên Vatican News: “Giám mục không phải là một tiểu vương ngồi trên ngai vàng, nhưng là người khiêm tốn, gần gũi với những người ngài phục vụ, cùng bước đi, cùng chịu đau khổ với họ để sống Tin Mừng với dân của mình.”

Về vấn đề vai trò phụ nữ, ngài đã bổ nhiệm một số phụ nữ vào các vị trí có trách nhiệm trong giáo phận Peru – ngài ủng hộ cuộc “cách mạng nhỏ” Đức Phanxicô khởi xướng nhằm mở rộng cánh cửa quản trị Giáo hội cho phụ nữ. Tiêu biểu là việc bổ nhiệm ba phụ nữ vào Bộ có nhiệm vụ chọn các Giám mục tương lai. Nhưng ngài phản đối việc truyền chức cho phụ nữ – dù là linh mục hay phó tế. Theo ngài, khi cho phép họ được truyền chức, như thế cuối cùng là “giáo sĩ hóa” họ. Điều này phản ánh một cách sâu sắc quan điểm của ngài về vai trò của giáo dân: họ cần sống trọn vẹn ơn gọi bí tích rửa tội thay vì tìm cách đảm nhận vai trò của hàng giáo sĩ.

Ẩn sau vẻ dè dặt tự nhiên là hình ảnh của một người với những xác tín rõ ràng, ngài bày tỏ dè dặt nhưng minh bạch về các chủ đề gây tranh cãi nhất trong Giáo hội. Về vấn đề chúc lành cho các cặp đồng tính, ngài thận trọng khi cho rằng – bên lề Thượng Hội đồng tháng 10 năm 2024 – cần để các Hội đồng Giám mục quốc gia toàn quyền quyết định có áp dụng hay không, tùy từng bối cảnh địa phương. Qua đó, ngài kêu gọi một hình thức phân quyền mang tính đồng nghị trong quyền lực của Giáo triều Rôma, được điều chỉnh theo thực tế từng nơi.

Vị trí của phụ nữ, các cặp đồng tính… Đức Lêô đã nói gì?

Một lập trường trung dung, có lẽ phản ánh tầm nhìn của ngài về một Giáo hội phổ quát nhưng không đồng nhất, có khả năng giữ thăng bằng giữa các nguyên tắc tín lý chung và việc áp dụng mục vụ thích nghi với từng địa phương. Một định hướng có thể định hình toàn bộ phương pháp tiếp cận của ngài trước các căng thẳng địa lý và ý thức hệ đang chia rẽ Giáo hội công giáo.

Một Giáo hoàng Dòng Âugustinô quy tụ những điều đối lập

Các Hồng y một lần nữa chọn Giáo hoàng trong hàng ngũ các tu sĩ, một lựa chọn không phải ngẫu nhiên. Sau Đức Phanxicô Dòng Tên, bây giờ là Đức Lêô Dòng Âugustinô. Ngài gắn bó với Dòng, ngài vào Dòng năm 1977, linh đạo của Dòng nhấn mạnh đến việc đi tìm hiệp nhất – một điểm quan trọng trong châm ngôn giám mục của ngài,  “In Illo uno unum” – “Trong Đấng là một, chúng ta nên một.”

Trên hết, khả năng lãnh đạo và quản lý của Đức Lêô XIV đã được minh chứng, ngài đảm nhiệm nhiều chức vụ cao cấp trước khi đứng đầu Bộ Giám mục, ngài là bề trên Tỉnh Dòng Augustinô 12 năm (2001–2013). Hồng y cử tri Jean-Paul Vesco tóm lược: “Ngài là người làm việc với nhóm nhưng biết đưa ra quyết định.”

Sau Triều Đức Phanxicô, nhiều cộng sự của ngài đánh giá là gây chia rẽ và đôi lúc cứng rắn, việc một người được cho là quân bình, tiết độ và có khả năng hòa giải những điều đối lập rõ ràng đáp lại nguyện vọng của một tinh thần hiệp hành đích thực mà các Hồng y đã bày tỏ trước mật nghị. Hồng y Timothy Dolan nhấn mạnh: “Chúng tôi đã bầu một Giáo hoàng điềm tĩnh.”

Trong những giờ và ngày sau khi ngài được bầu, nhiều Hồng y cử tri đã nhấn mạnh đến kinh nghiệm thành công của ngài trong chức vụ Bộ trưởng một Thánh bộ chiến lược, trong một Giáo triều thường bị kích động vì kiểu điều hành từ trên xuống của vị tiền nhiệm. Một dấu hiệu tiết lộ khả năng thay đổi trong việc điều hành Giáo hội: trong một trao đổi riêng ngày thứ bảy 10 tháng 5, Đức Lêô mong muốn có “một hình thức chia sẻ với Hồng y đoàn”, để các vị lãnh đạo của Giáo hội có thể đưa ra các lời khuyên và đề xuất cho ngài.

Hồng y Prevost đã cảnh báo về sự phân cực: “Khi một ý thức hệ làm chủ cuộc đời, tôi không còn có thể đối thoại.”

Đức Lêô XIV là con người cầu nguyện, sâu sắc thiêng liêng. Linh mục Joseph Farrell, tổng quyền tỉnh dòng mô tả Đức Lêô là người “rất khiêm tốn, thông thái, người luôn suy nghĩ trước khi hành động, lắng nghe trước khi lên tiếng, luôn cầu nguyện trước khi bắt đầu ngày mới. Linh mục Farrell kể, trước khi đến Bộ Giám mục làm việc, khi nào Hồng y Prevost cũng đến nhà tổng quyền của Dòng để đọc kinh sáng và dự thánh lễ: “Khi chúng tôi đến nhà nguyện, chúng tôi đã thấy ngài ngồi đó, cầu nguyện trong thinh lặng.”

Các mốc thời gian chính của một mục tử quen với trách nhiệm

Sinh ngày 4 tháng 9 năm 1955 tại Chicago (Illinois).

1977: Vào nhà tập Dòng Augustinô; khấn trọn ngày 29 tháng 8 năm 1981.

19 tháng 6 năm 1982: Chịu chức linh mục. Tổng Giám mục Jean Jadot phong.

1985 – 1986 và 1988 -1998: Đi truyền giáo ở miền Bắc Peru.

1999: Giám tỉnh vùng Trung Tây và trở lại Chicago.

2001 – 2013: Làm Bề trên Tổng quyền dòng Thánh Augustinô.

2014: Đức Phanxicô bổ nhiệm làm Giám quản Tông tòa, làm Giám mục Chiclayo (Peru).

2018: Phó Chủ tịch Hội đồng Giám mục Peru.

2023: Bộ trưởng Bộ Giám mục. Được phong Hồng y vào tháng 9. Hai năm sau, Đức Phanxicô nâng lên hàng Hồng y Giám mục.

8 tháng 5 năm 2025: Được Hồng y đoàn bầu làm Giáo hoàng, lấy tông hiệu là Lêô XIV.

Têrêxa Trần Tuyết Hiền dịch

Chọn danh hiệu, nhiệt thành truyền giáo, tinh thần đồng nghị: Đức Lêô  phác thảo các nét chính triều của ngài

Giovanni Maria Vian: “Đức Lêô XIV đã chuẩn bị rất kỹ”

Một giáo hoàng có thể làm gì… và không thể làm gì

Mật nghị: điều tra hậu trường của cuộc bầu cử bất ngờ

Những bước đi thành công đầu tiên của Đức Lêô XIV

 

Mật nghị: điều tra hậu trường của cuộc bầu cử bất ngờ

Mật nghị: điều tra hậu trường của cuộc bầu cử bất ngờ

la-croix.com, Mikael Corre và Matthieu Lasserre, Rôma, 2025-05-20

Các Hồng y trước khi bắt đầu mật nghị tại Nhà nguyện Sistine ngày 7 tháng 5 năm 2025. VATICAN MEDIA/HO / AFP

Mật nghị ngày 7 và 8 tháng 5 vẫn chưa tiết lộ hết mọi bí mật. Hai tuần sau cuộc bầu cử Đức Lêô XIV, các phóng viên báo La Croix ở Rôma cố gắng hiểu các diễn biến dẫn đến cuộc bầu cử Hồng y Robert Prevost.

Điều tra mật nghị là mạo hiểm bước vào thế giới mà im lặng là điều tuyệt đối thiêng liêng. Các hồng y cử tri tuyên thệ giữ bí mật tuyệt đối và bất kỳ tiết lộ nào về các thảo luận trong mật nghị đều bị vạ tuyệt thông… ngay lập tức! Dù có những hạn chế này, nhưng thông tin đã ít nhiều xuất hiện sau ngày 8 tháng 5, các hồng y bảo thủ đã đóng vai trò quan trọng trong việc bầu nhanh chóng này. Ở vòng phiếu thứ tư, Hồng y người Mỹ đã có được 100 trong số 133 phiếu bầu, vượt xa con số hai phần ba cần thiết. Những gì xảy ra trước đó không được rõ lắm. Kể từ cuộc bầu cử, các con số liên tục thay đổi. Báo chí Ý đồn đoán về vòng đầu tiên. Hồng y Pietro Parolin, Bộ trưởng Ngoại giao sẽ chiến thắng với số phiếu cách biệt từ 40 đến 50 phiếu, theo sát là Hồng y Robert Prevost kém khoảng 10 phiếu. Các bài viết mâu thuẫn nhau, có khi còn trích dẫn những nguồn… không uy tín!

Tuy nhiên, theo thông tin của báo La Croix, có rất ít thông tin về vòng bầu thứ hai và thứ ba diễn ra trong thời gian quyết định cuộc bầu cử. Phải mất sáu năm mới có kết quả mật nghị trước đó năm 2013.

Quyết định cuối cùng

Nhà nguyện Sistine ngày thứ tư 7 tháng 5 năm 2025. Bây giờ là 5:46 chiều khi cánh cửa đóng lại. Lúc này có 133 hồng y cử tri. Cuộc họp kín bắt đầu.

Cảnh tượng này rất quen thuộc với những người có kinh nghiệm: 12 chiếc bàn phủ vải màu xám được kê ở gian giữa nhà nguyện. Trên mỗi bức tranh đều có một giá vẽ nhỏ ghi tên. Một sơ đồ chỗ ngồi không ngẫu nhiên. Gần bàn thờ và bức tranh Phán quyết cuối cùng của Michelangelo là năm ghế của các hồng y-giám mục – cấp bậc quan trọng nhất. Trong số đó, có một tên ít người biết: Prevost. Một hồng y  chia sẻ: “Khi tôi vào Nhà nguyện Sistine, ngài là người duy nhất ngồi cùng bàn với tôi mà tôi không quen biết.”

Ngồi giữa Hồng y Louis Raphil Sako (người Chalđê ở Iraq) và Hồng y Luis Antonio Tagle (Phi Luật Tân) là Hồng y Robert Francis Prevost, vừa gia nhập nhóm tuyển này. Hồng y được Đức Phanxicô bổ nhiệm làm hồng y-giám mục ngày 6 tháng 2, một tuần trước khi ngài nhập viện. Một quyết định cuối cùng. Đã có một dấu chỉ sao? Một cộng sự thân tín của Hồng y Prevost cho biết: “Xem lại thái độ của Đức Phanxicô, tôi thấy có điều gì đó giống như ngài chuẩn bị cho Hồng y Prevost.” Hồng y Ấn Độ Oswald Gracias, cựu cố vấn của Đức Phanxicô, điềm tĩnh bình luận: “Những gì có thể cho là chuẩn bị thực ra không phải là cố ý.”

Ở bàn bên cạnh

Tối thứ tư 7 tháng 5, tại Nhà nguyện Sistine, Hồng y Raniero Cantalamessa vẫn tiếp tục hướng dẫn tĩnh tâm. Bốn mươi lăm phút. Hồng y Joseph Tobin nhớ lại: “Kết thúc tĩnh tâm, ngài xin giáo hoàng tương lai trung thực với chính mình.” Khói đen đầu tiên bốc lên muộn, lúc 9 giờ tối.

Sáng hôm sau, nỗi lo lắng tăng lên. Số phiếu bầu hôm qua sẽ được chuyển tiếp như thế nào? Một hồng y đã bỏ phiếu cho Robert Prevost ở vòng đầu tiên, tự hỏi: “Ai sẽ là hồng y bảo thủ nhất bỏ phiếu sáng nay cho người thứ ba, Hồng y Péter Erdo (Hungary), ngồi ở bàn bên cạnh các hồng y-giám mục?”

Ở phía sau, gần bàn thờ, chỉ có ba chiếc ghế ngăn cách hai người giành chiến thắng trong vòng bỏ phiếu đầu tiên: Giáo hoàng tương lai và Ngoại trưởng Pietro Parolin. Hai người đã quen biết nhau từ một vấn đề tế nhị liên quan đến Giáo hội ở Peru từ đầu triều Đức Phanxicô. Họ nhận được hai phần ba số phiếu bầu. Đêm hôm trước cuộc bỏ phiếu lần thứ hai vẫn chưa có kết quả nào được đưa ra. Luôn có khả năng bị tắc nghẽn, đòi hỏi phải có tên mới, giống như mật nghị tháng 10 năm 1978, khi bầu Đức Gioan-Phaolô II.

Nhưng hiện tình của Hồng y Prevost đang có dấu hiệu thay đổi. Số phiếu có lợi cho ngài đã tăng lên từ vòng bỏ phiếu thứ hai. Một hồng y cử tri cho biết: “Không có biến động nào lớn trong các lần bỏ phiếu. Đến vòng thứ ba, Hồng y Prevost có 89 phiếu cần thiết để đắc cử và không còn bất ngờ nào nữa. Lúc 11:51 sáng, khói đen bốc lên ở quảng trường. Nhưng các Hồng y về Nhà Thánh Marta ăn trưa đã biết Hồng y người Mỹ sẽ là Giáo hoàng thứ 266 của Thánh Phêrô.” Hồng y Jozef De Kesel nước Bỉ cho biết: “Ngày thứ năm, trong lần bỏ phiếu áp chót (thứ ba), tôi nghĩ đêm nay chúng tôi sẽ có Tân Giáo hoàng.” Một Hồng y Á châu xác nhận: “Đến vòng bỏ phiếu thứ ba, chúng tôi biết sẽ là Hồng y Prevost.” Trong giờ nghỉ trưa, Hồng y Prevost có thì giờ chuẩn bị bài phát biểu ngài sẽ đọc, được viết trên ba tờ giấy trắng, các tiền nhiệm của ngài đã phải ứng khẩu bài phát biểu của họ.

Hành động của Chúa Thánh Thần

Không có cuộc thảo luận nào giữa hai vòng họp buổi sáng. Theo quy định của mật nghị, các hồng y vẫn ở Nhà nguyện Sistine, họ không được nghỉ giải lao uống cà phê, chỉ im lặng và cầu nguyện giữa hai lần bỏ phiếu. Một Hồng y Á châu xác nhận: “Chúng tôi không rời phòng, không có cuộc thảo luận nào thêm. Chúng tôi cảm thấy có một điều gì đó, một sự mở lòng ra cho chiều kích siêu việt, cho hành động của Chúa Thánh Thần. Khi lá phiếu thứ ba được kiểm và tên được công bố, một điều gì đó đã xảy ra. Không phải bên ngoài, không phải trong nhóm, nhưng là bên trong. Chúng tôi thu mình trong chính mình, mở lòng ra với Chúa.”

Tuy nhiên, ý tưởng bỏ phiếu cho cựu giám mục Peru, quốc gia ngài nhập tịch năm 2015, không phải tự nhiên xuất hiện vào ngày 8 tháng 5. Tên của ngài đã được lan truyền trong nhiều ngày trong các bữa ăn tối ở thành phố, trong các cuộc họp bí mật khác của khoảng 20 hồng y, như cuộc họp được tổ chức vào đầu tuần tại khuôn viên Trường Cao đẳng Úc, phía nam khu Trastevere.

Một hồng y tham dự nhiều cuộc họp cho biết: “Đã có nhiều cuộc họp. Không phải trực tiếp người này người kia. Đúng hơn là tự do trao đổi các đức tính chúng tôi muốn người ngồi vào ghế Thánh Phêrô sẽ có. Ở Vatican vẫn luôn có thói quen họp bên lề các cuộc họp chính thức.”

Tổng hợp vui vẻ

Không giống như mật nghị năm 2013, trong đó bài nói chuyện của Đức Phanxicô tại hội đồng chung được cho là đặc biệt nổi bật, sự can thiệp điềm tỉnh của Hồng y Prevost năm nay về việc hỗ trợ các linh mục tương lai đã không có tác dụng này. Hồng y người Mỹ Robert McElroy lưu ý: “Vấn đề không phải ở bản chất mà ở cách ngài nói. Những cuộc họp không chính thức, sự điềm tĩnh, khả năng lắng nghe của ngài tạo được ấn tượng lớn. Và các hồng y Mỹ la-tinh hân hoan khi bầu một người trong số họ, đã nhanh chóng nhận được sự hưởng ứng từ các hồng y ở Bắc bán cầu, những người được thuyết phục có một ‘người Chicago’ đứng đầu Giáo hội.”

Thay vì bỏ phiếu cho Hồng y Pietro Parolin – ngài bị các phương tiện truyền thông cực kỳ bảo thủ chỉ trích trước mật nghị, họ còn bịa ra nỗi bất an của người Ý. Sau khi liệt kê các đức tính khác nhau của Hồng y Prevost, một hồng y Châu Phi nhấn mạnh: “Những gì có thể cho là một hình thức chuẩn bị, nhưng thật ra không cố ý. Chắc chắn Tân Giáo hoàng sẽ tôn trọng học thuyết.” Về phía châu Á, các hồng y Phi Luật Tân cho biết, ngoài khả năng tiếng Anh hoàn hảo của ngài, ngài đã ở đất nước của họ với tư cách là bề trên tổng quyền Dòng.

Trong những ngày trước mật nghị, một hồng y Châu Âu khi thúc đẩy việc chọn một ứng viên khác, đã nghĩ Hồng y Robert Prevost có thể là “một ứng viên thỏa hiệp” trong trường hợp bị bế tắc. Các tu sĩ và các nhà truyền giáo đã có sự tổng hợp vui vẻ chỉ trong vòng không đầy 24 giờ.

Khi kiểm phiếu lần thứ tư và cũng là lần cuối giữa buổi chiều, Hồng y Tagle quan sát Hồng y Robert Prevost, đầu gục vào tay. Có vẻ như ngài đang suy nghĩ nhiều. Ngài thở mạnh khi người kiểm phiếu đọc to lá phiếu. Khi đã đủ đa số, tiếng vỗ tay vang lên. Niềm vui vỡ òa. Hồng y De Kesel cho biết: “Chúng tôi nhanh chóng tìm được người được mọi người nhất trí.” Sau đó, theo nghi lễ và trước khi mặc áo chùng trắng. Hồng y Pietro Parolin cho biết: “Điều làm tôi ấn tượng là sự thanh thản của ngài.” Ngài hỏi Hồng y Prevost có chấp nhận cuộc bầu cử này không và ngài muốn tên hiệu Giáo hoàng của ngài là gì. Hồng y Prevost trả lời: “Tên Lêô XIV.”

Từ Peru đến Vatican

Sau nhiều năm sứ vụ ở miền bắc Peru, Cha Robert Francis Prevost được bầu làm Bề trên Tổng quyền Dòng Thánh Augustinô năm 2001. Ngài được tái bổ nhiệm ở chức vụ này và giữ chức vụ này cho đến năm 2013.

Năm 2014, ngài được Đức Phanxicô bổ nhiệm làm giám quản tông tòa và sau đó là giám mục của Chiclayo, miền bắc Peru. Năm 2023, ngài đứng đầu Bộ Giám mục, cùng năm ngài được Đức Phanxicô phòng làm Hồng y-Phó tế.

Ngày 6 tháng 2 năm 2025, vài tuần trước khi qua đời, Đức Phanxicô đã nâng Hồng y Prevost lên hàng Hồng y-Giám mục.

Vào ngày 8 tháng 5, ngài được bầu làm Giáo hoàng và lấy tông hiệu là Lêô XIV.

Sự bối rối trong bếp

Tại nhà bếp của Nhà Thánh Marta chưa ai biết bữa ăn tối – bánh flan, bí sốt đậu, măng tây và cơm risotto, thịt bò nướng với nước sốt nâu sẽ phải chuẩn bị gấp rút.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Chọn danh hiệu, nhiệt thành truyền giáo, tinh thần đồng nghị: Đức Lêô  phác thảo các nét chính triều của ngài

Giovanni Maria Vian: “Đức Lêô XIV đã chuẩn bị rất kỹ”

Một giáo hoàng có thể làm gì… và không thể làm gì

Những bước đi thành công đầu tiên của Đức Lêô XIV

Đức Lêô XIV thận trọng tìm một Giáo hội hiệp nhất trong một thế giới chia rẽ

Chọn danh hiệu, nhiệt thành truyền giáo, tinh thần đồng nghị: Đức Lêô  phác thảo các nét chính triều của ngài

Chọn danh hiệu, nhiệt thành truyền giáo, tinh thần đồng nghị: Đức Lêô  phác thảo các nét chính triều của ngài

lavie.fr, Marie-Lucile Kubacki, Rôma, 2025-05-10

Trong bài phát biểu trước các Hồng y ngày thứ bảy 10 tháng 5 năm 2025, Đức Lêô XIV mong muốn noi gương Đức Lêô XIII và Đức Phanxicô tiền nhiệm của ngài.

Giáo hoàng Lêô XIV, Robert Francis Prevost và các Hồng y tại Nhà nguyện Sistine sau khi được bầu làm Giáo hoàng. VATICAN MEDIA QUA AP/SIPA

Chưa đầy hai ngày sau khi được bầu, Đức Lêô đã có bài phát biểu trước các Hồng y ngày thứ bảy 10 tháng 5, tại hội trường Thượng hội đồng Vatican. Trong bài phát biểu, ngài giải thích tông hiệu Lêô, vinh danh Giáo hoàng Lêô XIII, tác giả của Thông điệp xã hội Tân sự Rerum Novarum (1891) được viết vào giữa cuộc cách mạng công nghiệp.

Đức Lêô XIV giải thích, giống như tiền nhiệm của ngài, triều của ngài diễn ra trong bối cảnh của cuộc cách mạng kỹ thuật mới, với sự trỗi dậy của trí tuệ nhân tạo mang đến những thách thức về mặt thiêng liêng. Ngài khẳng định nhu cầu được các hồng y ủng hộ và mong muốn làm việc với họ – một yêu cầu được ngài đưa ra trong các phiên họp chung trước mật nghị.

Ngài giải thích mong muốn tiếp tục thực hiện Tông huấn Niềm vui Tin mừng Evangelii Gaudium (2013) của Đức Phanxicô: trở lại với quyền tối thượng của Chúa Kitô trong việc loan báo Tin Mừng, sự hoán cải truyền giáo của toàn thể cộng đồng kitô giáo, sự phát triển tính cộng đồng và công đồng, chú ý đến cảm thức đức tin – sensus fidei, đặc biệt dưới hình thức chân thực và bao gồm nhất như lòng mộ đạo bình dân, quan tâm đến những người nhỏ bé bị lãng quên nhất, và cuối cùng là “đối thoại can đảm và tin tưởng với thế giới đương đại trong các thành phần và thực tế khác nhau của thế giới này”.

Giáo hoàng của tổng hợp và hòa giải

Mở đầu bài phát biểu, ngài trích dẫn Sách Các Vua (1 V 19:12), mời gọi chúng ta “đến với Chúa qua làn gió nhẹ”.

Với bài phát biểu này, ngài khẳng định định hướng truyền giáo triều của ngài, đã được thể hiện rõ trong bài phát biểu đầu tiên của ngài ngày thứ năm 8 tháng 5 tại ban-công Đền thờ Thánh Phêrô. Khi đề cập đến những nét chính trong tầm nhìn của người tiền nhiệm Phanxicô, ngài cho thấy sự chú ý không phải tuyệt đối hóa tư tưởng của Đức Phanxicô như một ý thức hệ, nhưng xem đây là truyền thống và lịch sử của Giáo hội công giáo nhằm củng cố sự hiệp nhất.

Vì thế ngay từ những bước đi đầu tiên của ngài, Đức Lêô khẳng định ngài là giáo hoàng của tổng hợp và hòa giải, dù điều này đôi khi phải bỏ các nhãn mác đã có. Sau bài giảng đầu tiên mang âm hưởng của Bergoglio và Ratzinger ngày thứ sáu 9 tháng 5, ngài phát biểu trước các hồng y một lần nữa, cân bằng một cách tinh tế các thái cực khác nhau trong nhạy cảm của ngài: vừa rất xã hội vừa rất tâm linh, quan tâm đến tính đồng đoàn nhưng cũng quan tâm đến tính công đồng, kiên định và chu đáo.

Ngài phát biểu:

Anh em Hồng y kính mến!

Tôi xin chào và cám ơn anh em qua cuộc gặp này và các cuộc gặp của những ngày trước đó, đau buồn vì Đức Phanxicô qua đời, đòi hỏi vì trách nhiệm chúng ta cùng đối diện, đồng thời theo lời hứa Chúa Giêsu đã hứa với chúng ta, giàu ân sủng và an ủi trong Chúa Thánh Thần (x. Ga 14:25-27).

Các Hồng y thân mến, anh em là cộng sự thân cận nhất của Giáo hoàng, tôi được an ủi khi nhận gánh nặng rõ ràng vượt quá sức lực của tôi, cũng như của bất cứ ai khác. Sự hiện diện của anh em nhắc tôi nhớ, Thiên Chúa giao phó cho tôi sứ mệnh này, Ngài không để tôi đơn độc gánh trách nhiệm một mình. Trên hết, tôi biết tôi luôn có thể trông cậy vào sự giúp đỡ của Chúa, nhờ Ân sủng và Quan phòng của Ngài, nhờ vào sự gần gũi của anh em và của nhiều giáo dân trên thế giới, những người đặt lòng tin vào Chúa, yêu Giáo hội và hỗ trợ Đại diện của Chúa bằng lời cầu nguyện và các việc làm tốt.

Tôi xin cám ơn Hồng y Giovanni Battista Re, Niên Trưởng Hồng y đoàn – ngài xứng đáng được vỗ tay nhiều lần – ngài là người trí tuệ, thành quả của một cuộc đời dài và nhiều năm phục vụ trung thành cho Giáo hội, đã mang lại lợi ích to lớn cho chúng ta, đã giúp đỡ tôi trong thời gian này. Tôi xin cám ơn Hồng y Nhiếp chính Kevin Joseph Farrell – tôi tin ngài có mặt ở đây – vì vai trò quan trọng và đầy thách thức ngài đảm nhiệm trong thời gian trống tòa và trong quá trình triệu tập mật nghị. Tôi cũng xin gởi lời chia buồn đến các anh em hồng y đã không có mặt ở đây vì lý do sức khỏe, tôi xin hiệp thông trong tình cảm và lời cầu nguyện.

Ở thời điểm vừa buồn vừa vui, được Chúa quan phòng bao bọc trong ánh sáng Phục Sinh, tôi muốn chúng ta cùng nhìn vào sự ra đi của Đức Phanxicô quá cố và Mật nghị Hồng y như một sự kiện Phục Sinh, một chặng đường trong cuộc xuất hành dài qua đó Chúa tiếp tục hướng dẫn chúng ta đến cuộc sống viên mãn; trong bối cảnh này, chúng ta phó thác cho “Cha nhân từ và là Thiên Chúa của mọi niềm an ủi” (2 Cr 1:3) linh hồn của Cố Giáo hoàng Phanxicô và tương lai của Giáo hội.

Giáo hoàng, từ Thánh Phêrô đến tôi, người kế vị không xứng đáng, là người tôi tớ khiêm nhường của Chúa và của anh em, không gì khác hơn. Tấm gương của rất nhiều vị tiền nhiệm của tôi đã chứng minh rõ điều này, và gần đây hơn là tấm gương của Đức Phanxicô, với phong cách tận tụy phục vụ và lối sống tỉnh táo, phó thác cho Chúa khi truyền giáo, tin tưởng thanh thản khi về nhà Cha. Chúng ta tiếp nhận di sản quý giá này và lên đường, với niềm hy vọng nảy sinh từ đức tin.

Chính Đấng Phục Sinh, hiện diện giữa chúng ta, Đấng bảo vệ và hướng dẫn Giáo hội, Đấng tiếp tục làm cho Giáo hội hồi sinh trong hy vọng, qua tình yêu “Chúa Thánh Thần đổ vào lòng chúng ta, ban cho chúng ta” (Rm 5:5). Chúng ta là những người ngoan ngoãn lắng nghe tiếng nói của Ngài, phục vụ trung thành cho kế hoạch cứu rỗi của Ngài, biết rằng Ngài đến với chúng ta trong “làn gió nhẹ” (1 V 19:12), trong “tiếng nói nhẹ nhàng của thinh lặng”. Đây là cuộc họp quan trọng, không thể bỏ lỡ, chúng ta phải giáo dục, hướng dẫn và đồng hành với toàn thể dân Chúa đã được giao cho chúng ta.

Trong những ngày gần đây, chúng ta thấy được vẻ đẹp và cảm nhận được sức mạnh của cộng đồng rộng lớn này, những người đã chào đón và thương tiếc mục tử của mình với tình cảm và lòng tôn kính sâu sắc, đồng hành cùng ngài bằng đức tin và lời cầu nguyện khi ngài gặp Chúa. Chúng ta đã thấy được sự vĩ đại đích thực của Giáo hội, một Giáo hội sống trong đa dạng của các thành viên hiệp nhất với Đấng lãnh đạo duy nhất là Chúa Kitô, Đấng chăn dắt bảo vệ linh hồn chúng ta. Hôm nay tôi muốn chúng ta cùng nhau đổi mới việc tuân thủ hoàn toàn con đường mà Giáo hội hoàn vũ đã đi theo trong nhiều thập kỷ sau Công đồng Vatican II. Đức Phanxicô đã nhắc lại và cập nhật nội dung của Tông huấn Niềm vui Tin mừng Evangelii Gaudium. Tôi muốn nhấn mạnh một số khía cạnh cơ bản: sự trở lại với quyền tối thượng của Chúa Kitô trong lời loan báo; sự hoán cải truyền giáo của toàn thể cộng đồng kitô giáo; sự tăng trưởng về tính đồng thuận và tính công đồng; chú ý đến cảm thức đức tin sensus fidei, đặc biệt trong các hình thức chân thực và bao hàm nhất của nó, như lòng đạo đức bình dân; quan tâm trìu mến đến những người nhỏ bé nhất, những người bị bỏ rơi; đối thoại can đảm và tin tưởng với thế giới đương đại trong các thành phần và thực tại khác nhau.

Đó là những nguyên tắc Phúc Âm luôn làm sinh động và truyền cảm hứng cho cuộc sống và công việc của Gia đình Thiên Chúa, những giá trị qua đó khuôn mặt thương xót của Chúa Cha được mặc khải và tiếp tục được mặc khải nơi Chúa Con làm người, là niềm hy vọng cuối cùng của những ai chân thành đi tìm chân lý, công lý, hòa bình và tình huynh đệ.

Chính vì cảm thấy được tiếp tục kêu gọi theo đuổi mục tiêu này nên tôi nghĩ đến việc chọn tên Lêô XIV. Có nhiều lý do, nhưng chủ yếu là nhờ Đức Lêô XIII, với thông điệp lịch sử Rerum Novarum, đã giải quyết vấn đề xã hội trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lớn đầu tiên; và hôm nay Giáo hội trao di sản học thuyết xã hội này để đáp ứng một cuộc cách mạng công nghiệp và phát triển trí tuệ nhân tạo, đặt ra những thách thức mới cho việc bảo vệ nhân phẩm, công lý và việc làm của con người.

Anh em thân mến, tôi muốn kết thúc phần đầu buổi họp này với lời cầu chúc của tôi – và tôi xin đề xuất với anh em – lời cầu mà Thánh Phaolô VI năm 1963, đã viết khi bắt đầu sứ vụ Phêrô của ngài: “Nguyện xin ngọn lửa đức tin và tình yêu này lan tỏa khắp thế giới, thắp sáng mọi người thiện chí, soi sáng con đường cùng nhau cộng tác, liên tục được sự phong phú của Thiên Chúa, chính quyền năng của Thiên Chúa, mà nếu không có sự trợ giúp của Ngài thì không có gì là có giá trị, không có gì là thánh thiện” (Sứ điệp Qui fausto die, ngày 22 tháng 6 năm 1963).

Mong sao những cảm xúc này cũng là của chúng ta, được chuyển thành lời cầu nguyện và cam kết, với sự giúp đỡ của Chúa. Tôi xin cám ơn!

Marta An Nguyễn dịch

Giovanni Maria Vian: “Đức Lêô XIV đã chuẩn bị rất kỹ”

Một giáo hoàng có thể làm gì… và không thể làm gì

Mật nghị: điều tra hậu trường của cuộc bầu cử bất ngờ

Những bước đi thành công đầu tiên của Đức Lêô XIV

Đức Lêô XIV thận trọng tìm một Giáo hội hiệp nhất trong một thế giới chia rẽ

Những bước đi thành công đầu tiên của Đức Lêô XIV

Những bước đi thành công đầu tiên của Đức Lêô XIV

Hình ảnh – Antoine Mekary | ALETEIA

fr.aleteia.org, Jean Duchesne, 2025-05-20

Những bước đầu của một tân giáo hoàng luôn thách thức và phong phú. Theo nhà khảo luận Jean Duchesne, khi Đức Lêô tập trung bài phát biểu của ngài vào hòa bình và tầm quan trọng của mối quan hệ với Chúa Kitô, ngài đã lấy Chúa Kitô làm trọng tâm và Con Thiên Chúa là Đấng Cứu Thế duy nhất.

Cho đến nay, những bước đi đầu tiên của Đức Lêô được cho là ‘hoàn hảo’. Không ai tìm thấy ngài có lỗi gì: làm hoặc không làm. Mọi người đều đồng ý không thể phân loại ngài “tiến bộ hay tự do”, “bảo thủ hay truyền thống”. Nhưng không ai đi xa đến mức cho rằng các phân loại này đã lỗi thời, kể cả về mặt chính trị, nơi chủ nghĩa dân túy bị cho là “cánh hữu” khó tiếp cận hoặc về mặt xã hội bị cho là “cánh tả”. Ít người mất công giải thích thông điệp của ngài, chỉ thấy đó là những lời khuyên hữu ích, không đáng lo ngại vì những lời khuyên này đi theo chủ nghĩa hiện thực giản dị của tình trạng thế giới hiện nay và sứ mệnh mà Giáo hội và các nhà lãnh đạo hiện tại đang đảm nhiệm.

Bình an của Chúa Kitô

Trên thực tế, hai chủ đề chính nổi bật từ bài phát biểu đầu tiên của ngài là hòa bình và tầm quan trọng của mối quan hệ với Chúa Kitô. Giáo dân không mong chờ gì nhiều ở một Tân Giáo hoàng. Mọi người đều hiểu các sự kiện hiện nay đều bị chiến tranh chi phối (quân sự, kinh tế, văn hóa và cả tôn giáo), gây ra bất công, đau khổ và bất hạnh mà chúng ta không dám thờ ơ. Và thật tầm thường khi chúng ta nghĩ nhà lãnh đạo công giáo nhắc Giáo hội chỉ phục vụ cho mục đích duy trì sự hiện diện tích cực và nồng nhiệt của người sáng lập Giáo hội!

Nhưng nếu chúng ta xét kỹ, Đức Lêô đã nêu rõ hòa bình không chỉ đơn thuần là không có xung đột, nhưng là một khuynh hướng bên trong tâm hồn. Điều này không thể có được chỉ thông qua hòa giải, qua thỏa hiệp, cũng không thể có được nhờ sức mạnh đơn phương của ý chí, của quyết tâm tránh đối đầu và bảo vệ bản thân bằng sự thanh thản. Vì đó là ơn của Chúa cần phải xin và chia sẻ để có thể nhận được, có nghĩa là mở lòng ra với Đấng Duy Nhất – Chúa Giêsu Nadarét bị đóng đinh và phục sinh – Đấng mang đến bình an.

Một thông điệp không thông thường như chúng ta nghĩ

Hai trục của bài giảng khai mạc: một bên là thế tục (hòa bình trên trái đất) một bên là thiêng liêng (tinh thần sẵn sàng với Chúa Kitô) vì thế cả hai hội tụ và trở thành một. Và mọi việc diễn ra rất tốt đẹp. Đầu tiên, vì không ai tuyên bố chống hòa bình: người ta chỉ tuyên bố tiến hành chiến tranh để tự vệ hoặc ngăn chặn “kẻ xấu” làm hại. Vì chúng ta cho rằng Giáo hoàng nói về Chúa Kitô là điều tự nhiên, nhưng chúng ta không để ý nhiều, đức tin bị cho là vấn đề riêng tư và thân mật, trong đó tôn giáo và biểu hiện văn hóa chỉ là một (không phải là yếu tố quyết định nhất) trong số nhiều yếu tố can thiệp vào tiến trình của thế giới.

Đức Lêô XIV không giấu sự thật: hòa giải đòi hỏi can đảm và tha thứ

Tuy nhiên, thông điệp này không mang tính thông thường như chúng ta thường nghĩ để không bị làm phiền, bằng cách phân loại những gì thuộc phạm vi công cộng, bằng cách xếp những gì có thể thách thức trực tiếp mọi người vào phạm vi nội tâm bất khả xâm phạm, như thế trong mọi trường hợp đều không thể bình luận. Nhưng trong một tương lai không xa, Giáo hoàng có thể gây ngạc nhiên, thất vọng, khó chịu, cả trong và ngoài Giáo hội. Khi đó, việc ghi nhớ những phát biểu đầu tiên của ngài sẽ rất hữu ích, vì rõ ràng những phát biểu này là những điều cốt yếu (ít nhất theo ngài) và có thể dùng làm tài liệu tham khảo.

Sứ mệnh trong thế giới

Khi tuyên bố ngài sẽ làm mọi thứ để bảo đảm “vũ khí sẽ im lặng và yêu cầu chúng ta gặp nhau, đối thoại và thương thuyết”, Đức Lêô không mong chờ lời nói của ngài sẽ được lắng nghe và tuân theo, như thể những lời này có sức mạnh kỳ diệu, như thể ngài có công thức không thể sai lầm. Vì ngài không giấu sự thật hòa giải đòi hỏi can đảm và tha thứ – nói cách khác, đòi hỏi hoán cải trong bối cảnh nhiều người “thấy đức tin kitô giáo là phi lý, chỉ dành cho những người yếu đuối và thiếu thông minh… họ thích những điều chắc chắn khác, như công nghệ, tiền bạc, thành công, quyền lực, lạc thú…”.

Chính tình trạng này của thế giới làm việc truyền giáo trở nên cấp bách. Bắt đầu bằng việc tập trung lại vào sứ mệnh không chỉ của những người kế vị các tông đồ và những người liên kết với họ, mà còn của tất cả những người đã chịu phép rửa tội, những người, trong một môi trường như vậy cuối cùng sẽ sống trong chủ nghĩa vô thần. Kitô giáo kiểu bên ngoài này có thể bao gồm lòng trung thành với một cộng đồng hoặc với một tổ chức tôn giáo, với các giá trị, với đạo đức, và ngay cả với Chúa Giêsu “được ngưỡng mộ như một con người” nhưng bị hạ xuống thành một nhà lãnh đạo có sức lôi cuốn siêu phàm.

Chủ nghĩa kitô giáo

Vì thế ngài rao giảng một “chủ nghĩa lấy Chúa Kitô làm trọng tâm”, trong đó Con Thiên Chúa làm người không phải là hình ảnh lý tưởng của con người, nhưng là Đấng Cứu Thế: Đấng ban cho con người những gì họ cần nhưng không thể tự mình có được hoặc không thể hình dung ra. Và Chúa Giêsu không áp đặt điều gì, Ngài mặc khải qua những gì Ngài nói, Ngài làm và trải qua, bí mật của Sự sống mạnh hơn cái chết, đó là hiến dâng chính mình, không giữ lại bất cứ điều gì, không sợ đánh mất chính mình. Ngài đề nghị chúng ta hãy hiệp nhất với Ngài, đón nhận Chúa Thánh Thần để trở thành con của Chúa Cha trên trời.

Mối quan hệ cá nhân này với Chúa Kitô, nơi chúng ta hiến mình cho Thiên Chúa và cho người khác, không phải là điều mới mẻ. Các tông đồ của Chúa Giêsu và các thánh tử đạo đầu tiên đã trải nghiệm trước khi các nhà thần học và các nhà thần bí nghĩ đến. Thánh Augustinô, nguồn cảm hứng của Đức Lêô đã làm chứng điều này trong quyển Tự Thú, ngài vượt ra ngoài những tranh cãi về giáo hội học trong thời kỳ Cải cách, trường phái Pháp của Hồng y de Bérulle đã tạo nên thời kỳ phục hưng lấy “Chủ nghĩa Kitô giáo làm trung tâm”. Vào thời hiện đại, các Thánh John Henry Newman, Thánh Têrêxa Hài đồng và Charles de Foucauld đã xem tâm linh là trải nghiệm mật thiết khi kết hợp với Chúa Kitô.

Câu hỏi thực sự duy nhất

Cũng vậy với Đức Gioan-Phaolô II năm 1978, ngài đã tuyên bố: “Anh chị em đừng sợ! Anh chị em hãy mở rộng cánh cửa đón Chúa Kitô.” Thông điệp đầu tiên của ngài, Đấng Cứu Độ Con Người, Redemptor hominis đã trình bày Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế. Quyền tối thượng được Chúa Kitô công nhận để cứu rỗi sẽ thúc đẩy việc giải phóng Đông Âu và do đó không giới hạn vào một khái niệm trừu tượng an ủi. Ngược lại, sự kết hợp với Chúa Con, Đấng đã chiến thắng cái chết, buộc chúng ta phải thực tế đối diện với thế giới, một mặt phải cam kết, mặt khác phải hiện thực mà không tuyệt vọng. Đây chắc chắn là động lực thúc đẩy Đức Lêô quyết tâm làm hết sức để chấm dứt xung đột vũ trang. Giống như các Giáo hoàng tiền nhiệm, ngài sẽ dựa vào khôn ngoan theo hình ảnh của Đấng Tạo Hóa, ngay cả khi giáo dân ít nhiều không còn chú ý đến Chúa nữa.

Việc nhấn mạnh vào Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế làm sáng tỏ cách ngài sẽ giải quyết các cuộc tranh luận đang diễn ra trong Giáo hội, dù đó là việc thực thi quyền lực, phụng vụ, vị trí của phụ nữ, tình dục, lạm dụng mọi hình thức, hay bộ máy quan liêu và tài chính của Vatican. Bất kể những đề xuất hay yêu cầu nào, chúng ta có thể chắc chắn các tiêu chuẩn sẽ không là tiêu chuẩn của chủ nghĩa duy lý thực dụng, cũng không phải của hệ tư tưởng bình đẳng hay tinh hoa, thức tỉnh hay phản thức tỉnh, mà là câu trả lời cho một câu hỏi duy nhất trong mọi trường hợp: đó là đón nhận và đi theo Chúa Kitô là Đấng Cứu Rỗi duy nhất. Đây là lập luận chúng ta quan tâm, chúng ta chỉ có thể hài lòng về điều này.

Marta An Nguyễn dịch

Chọn danh hiệu, nhiệt thành truyền giáo, tinh thần đồng nghị: Đức Lêô  phác thảo các nét chính triều của ngài

Giovanni Maria Vian: “Đức Lêô XIV đã chuẩn bị rất kỹ”

Một giáo hoàng có thể làm gì… và không thể làm gì

Mật nghị: điều tra hậu trường của cuộc bầu cử bất ngờ

Đức Lêô XIV thận trọng tìm một Giáo hội hiệp nhất trong một thế giới chia rẽ

Giovanni Maria Vian: “Đức Lêô XIV đã chuẩn bị rất kỹ”

Giovanni Maria Vian: “Đức Lêô XIV đã chuẩn bị rất kỹ”

lepoint.fr, Jérôme Cordelier, 2025-05-10

Theo sử gia Giovanni Maria Vian, những bước đầu của Đức Lêô trong tư cách Giáo hoàng không có gì là ngẫu hứng. Triều của ngài sẽ là triều mang tính đồng đẳng.

Theo tác giả Jérôme Cordelier, tác giả quyển Giáo hoàng cuối cùng (Dernier Pape, nxb. Cerf), người am hiểu các giáo hoàng kể từ Đức Phaolô VI, những bước đầu của Đức Lêô XIV không phải là ngẫu hứng. Ngài đã chuẩn bị cho chức vụ này; ngài nghiêm khắc, bắt đầu sứ mệnh ngài đã cho thấy những dấu hiệu thiêng liêng tinh tế, cách tiếp cận quyền lực theo hướng đồng thuận.

Ông đánh giá thế nào về những bước đi đầu tiên của Giáo hoàng Lêô XIV?

Giovanni Maria Vian: Rõ ràng ngài đã chuẩn bị rất kỹ. Trên thực tế, đây là lần đầu tiên bài phát biểu sau khi được bầu đã được chuẩn bị rất kỹ, ngài không ứng biến nhưng đọc lớn tiếng bài phát biểu của ngài. Văn bản của ngài rất cấu trúc. Điều này cho thấy việc ngài đắc cử là khá hiển nhiên, ngược với dự đoán của các nhà báo nghĩ rằng thực tế không như vậy, nhưng theo ý thích của họ hoặc theo sự điều động của các ứng cử viên khác, đặc biệt là các ứng viên người Ý. 

Phân tích trực tiếp của ông về những tuyên bố đầu tiên của Đức Lêô XIV là gì?

Trước hết, ngài là người đáng chú ý, ngài biết nhiều thứ tiếng, đời sống của ngài là một đời sống đặc biệt. Ngài là Giáo hoàng nói được hai thứ tiếng trong bài phát biểu đầu tiên, ngài là Giáo hoàng của toàn Châu Mỹ, ở Peru giáo dân xem ngài người trong số họ, ngài không phải là người “bên ngoài”.

Giovanni Maria Vian, nhà sử học, cựu giám đốc Osservatore Romano. © François BOUCHON / Le Figaro photo

Ông nói ngài đã được chuẩn bị, được Đức Phanxicô chuẩn bị?

Đúng vậy. Chính Đức Phanxicô đã đưa ngài ra khỏi giáo phận Chiclayo để về Rôma điều hành Bộ Giám mục trong việc bổ nhiệm các giám mục. Trong Giáo hội, các hồng y được chia thành ba đẳng: hồng y giám mục, hồng y linh mục và hồng y phó tế. Có sáu hồng y giám mục, Đức Phanxicô đã tăng lên thành mười. Nhóm được hình thành nhờ các giám mục nổi tiếng nhất Giáo hội và Hồng y Robert Prevost được Đức Phanxicô nâng lên bậc cao nhất trong hệ thống phân cấp. Nhưng ít ai thấy Đức Lêô vì ngài rất kín đáo, mộ đạo và không muốn xuất hiện. Như ngài đã nói với các hồng y khi được bầu, ngài muốn lùi lại sau sứ mệnh, để thẩm quyền thiêng liêng được thể hiện.

Chúng tôi cảm thấy ngài được thánh thư cảm hứng rất nhiều. Ngài có phải là một giáo hoàng thần học gia không?

Ngài không phải là thần học gia như Đức Bênêđíctô XVI, nhưng ngài là người rất có học thức, trưởng thành trong giáo phái Thánh Augustinô cổ xưa. Ngài rất dễ nhận biết nhưng lại kín đáo. Và các hồng y đã tìm ngài, ngài đã được công nhận.

Trong những bước đi đầu tiên, ngài gắn bó với truyền thống…

Đúng, nhưng theo cách đơn giản và dễ hiểu. Chúng ta thấy ngài có mối liên hệ với Đức Joseph Ratzinger/Bênêđictô, nhưng bản chất thiêng liêng của ngài vượt ra khuôn khổ cố định. Hồng y Ratzinger rất giản dị, tập trung vào những điều cốt yếu. Đức Lêô XIV cũng vậy.

Ông có nghĩ ngài là một giáo hoàng chính trị không?

Ngài hiểu rõ những rủi ro của chính trị. Nhưng rõ ràng ngài theo Kinh thánh. Ngài rất rõ ràng khi nói về sự chối Chúa vào thời của Chúa, điều này xác định các nhóm quyền lực đã giết Chúa. Khi nói như vậy, ngài chứng minh một tầm nhìn chính trị rút ra từ Phúc Âm. Trong tuyên bố đầu tiên, ngài cám ơn Đức Phanxicô, tôi thấy có đôi chút gì đó giống với Đức Gioan XXIII và Đức Gioan Phaolô II. Với Đức Lêô, tinh thần đồng nghiệp không chỉ là một từ. Tư tưởng và cách thực thi quyền lực của ngài bắt nguồn từ Công đồng Vatican II, được lọc qua cơ chế dân chủ của các Dòng tu lâu đời nhất. Những lời của Thánh Augustinô khi ngài giới thiệu về ngài thật phi thường: “Tôi là tín hữu kitô như anh em, nhưng với anh em, tôi là giám mục.” Ngài muốn nói, trước hết và trên hết, ngài là kitô hữu giống như bất kỳ tín hữu kitô nào.

Liệu ngài có thể thay đổi Giáo hội không?

Ngài sẽ tiếp tục đi theo con đường của các vị tiền nhiệm với phong cách riêng và quan tâm muốn xoa dịu của ngài. Nhưng vẫn còn quá sớm để nói ngài có thể thay đổi Giáo hội hay không. Triều của ngài vẫn chưa chính thức bắt đầu. Chúng ta phải đợi cho đến khi ngài nhậm chức và có bài phát biểu chương trình của ngài. Tôi thấy có một sự mới lạ lớn, rất tinh tế. Trong những ngày đầu tiên trong tư cách là Giáo hoàng, ngài sẽ đến Nhà thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành. Ngài được bầu vào Vatican, ngài đặt sứ mệnh của ngài gần mộ Thánh Phaolô. Ngài tạo mối liên hệ giữa hai tông đồ. Đây là một dấu hiệu mạnh mẽ.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Chọn danh hiệu, nhiệt thành truyền giáo, tinh thần đồng nghị: Đức Lêô  phác thảo các nét chính triều của ngài

Một giáo hoàng có thể làm gì… và không thể làm gì

Mật nghị: điều tra hậu trường của cuộc bầu cử bất ngờ

Những bước đi thành công đầu tiên của Đức Lêô XIV

Đức Lêô XIV thận trọng tìm một Giáo hội hiệp nhất trong một thế giới chia rẽ

Một giáo hoàng có thể làm gì… và không thể làm gì

Một giáo hoàng có thể làm gì… và không thể làm gì

Đức Lêô XIV tại ban-công Đền thờ Thánh Phêrô ngày 8 tháng 5 năm 2025.

fr.aleteia.org, Paul Airiau, 2025-05-10

Thưa Giáo hoàng, ngài có bao nhiêu binh đoàn? Quyền lực thực sự của ngài là gì? Dù nguyên tắc tối thượng của sự liên tục áp đặt lên các giáo hoàng kế vị Thánh Phêrô, nhưng Tân Giáo hoàng Lêô XIV chắc chắn sẽ đối diện với một thực tế: chính nội tại cơ cấu của Giáo hội có khuynh hướng phân mảnh, như sử gia Paul Airiau phân tích.

Một Tân Giáo hoàng vừa được bầu. Điều này lâu lâu lại xảy ra. Và ngay lập tức, mọi người mong chờ những thay đổi có thể mang lại cho Giáo hội, cho thế giới công giáo và cho cả nhân loại. Có người hy vọng điều kỳ diệu, có người e ngại tai họa, có người tin vào sự tiếp nối. Những mong đợi đó dựa trên một giả định sơ khai thuộc dạng “xã hội học tự phát” mà ngành khoa học xã hội đã nhiều lần ra sức bác bỏ một cá nhân đơn lẻ có thể thay đổi cả thế giới.

Một người đơn độc?

Quan điểm này có thể hiểu được trong nội bộ công giáo, vì trong đức tin kitô giáo, một người-chính là Đức Kitô đã thực sự thay đổi thế giới trong tương quan với Thiên Chúa và ơn cứu độ. Nhưng bên ngoài niềm tin này, quan điểm này cho thấy một sự thất bại dai dẳng trong việc phổ biến kiến thức khoa học, đồng thời phản ánh nhu cầu không cưỡng của truyền thông, của giới bình luận và của công chúng về một thiên anh hùng ca, một nam anh hùng hay nữ anh hùng đối diện với nghịch cảnh và hoàn thành sứ mệnh. Đó là hình ảnh quen thuộc: người đơn độc chống lại giông tố, người phụ nữ vượt qua nghịch cảnh, đứa trẻ mồ côi thoát khỏi định mệnh bi đát, người công chính chiến thắng thế lực dữ… Những câu chuyện này đánh động cảm xúc và khơi gợi lòng tin. Tuy nhiên, chính thực tế của Giáo hội công giáo qua hai triều gần đây của Đức Bênêđíctô XVI và Đức Phanxicô cho thấy, một người đơn độc không thể làm được gì nhiều nếu họ đi ngược lại với cơ chế vận hành của một định chế lớn. Các nhà lãnh đạo đương thời cũng cho thấy ý chí cá nhân kể cả trong lời nói không thể thay thế cho một chính sách hiệu quả. Hitler là một ví dụ. Hiện nay chúng ta dễ dàng thấy sự hạn chế trong thành công của những “anh hùng” nghĩ rằng “muốn là được”.

Động lực nội tại của cơ cấu

Tuy nhiên, cảm quan thông thường không hoàn toàn sai. Không thể phủ nhận vai trò cá nhân, nhất là khi họ giữ trọng trách lớn ở những vị trí chưa bị cố định quá chặt. Giáo hoàng là một ví dụ tiêu biểu: một quân chủ tuyệt đối, không theo hình thức cha truyền con nối, được một nhóm “quý tộc trọn đời” bầu, được người tiền nhiệm chọn và các quy định về tuổi tác hay thể thức tuyển chọn hoàn toàn có thể được điều chỉnh. Với những điều kiện này, quyền giáo hoàng còn lớn hơn quyền của nhiều nguyên thủ quốc gia, lãnh đạo doanh nghiệp hay huấn luyện viên thể thao, thậm chí còn vượt xa nhiều nhà độc tài, vì chính những nhà độc tài cũng chỉ tồn tại khi họ phục vụ lợi ích của những nhóm đặc quyền, điều này giới hạn hành động của họ.

Thế nhưng, ngay cả khi là quốc trưởng duy nhất của một quốc gia xã hội chủ nghĩa toàn diện (thành quốc Vatican nơi mọi hoạt động kinh tế đều do nhà nước quản lý và được bao quanh bởi những bức tường làm nhiều người chống di dân phải ghen tị), và là thủ lãnh tối cao của Giáo hội, thì Giáo hoàng Lêô XIV vẫn bị chi phối bởi chính cơ cấu của định chế mà ngài là “Lãnh tụ tối cao”. Dù ngài có thể đưa ra Tự sắc “motu proprio” tùy ý, xoay chuyển các nguyên tắc dưới danh nghĩa “nhu cầu thời đại”, “lòng thương xót vượt trội công lý” hay “đức tin trên luân lý”, thì ngài vẫn luôn phải chứng minh quyền lực của ngài dù dựa trên sự hợp nhất giữa đặc sủng và quyền hợp pháp không hẳn là hoàn toàn phá vỡ truyền thống. Điều này trong Giáo hội công giáo là điều cực kỳ khó khăn.

Mệnh lệnh phải tiếp nối

Vì trong Giáo hội, dù lời Tin Mừng khẳng định “chúng ta có thể rút ra từ đó kho tàng của mình cả mới lẫn cũ”, thì cái mới vẫn phải bắt nguồn từ cái cũ. Không phải cách diễn giải nào cũng được chấp nhận, vì nhiều con đường đã bị khóa lại bởi Mặc khải, bởi các Giáo phụ, bởi các giáo hoàng tiền nhiệm và bởi các công đồng đã qua.

Nếu Đức Lêô XIV muốn quay lưng với hướng đi từ Lêô XIII đến Piô XII vốn đã làm chủ nghĩa hiện đại (modernisme) không còn chỗ đứng, không phải chỉ vì không thể dung hòa giữa khoa chú giải lịch sử-phê bình và thần học học thuật hiện đại, nhưng vì chúng ta không chấp nhận việc nội dung đức tin bị đánh giá dựa trên sự tiếp nhận của xã hội, đó sẽ là một cuộc cách mạng thực sự, mà một số người vẫn đang tha thiết mong chờ.

Mệnh lệnh về sự tiếp nối và nhất quán trong đạo công giáo lại càng gay gắt hơn sau Công đồng Vatican II. Công đồng đã thực hiện việc “cập nhật” (aggiornamento) mà lý do chính yếu là tiếng gọi “tiên tri” của giáo hoàng triệu tập, người kế nhiệm tiếp nối và chính các nghị phụ, được biện minh bằng thẩm quyền pháp lý-hợp lý của công đồng, dựa vào quyền giáo hoàng, và cuối cùng được chính ngài phê chuẩn. Đây chính là mô hình điển hình của kiểu điều hành trong Giáo hội Rôma từ cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XX. Việc thiếu một lý giải rõ ràng cho những thay đổi xảy ra cùng với việc chưa bao giờ thẳng thắn đóng lại nhiều con đường tư duy mà chúng ta nghĩ là hợp với “cập nhật” làm Công đồng trở nên huyền thoại, và tiếp tục nuôi dưỡng sự bất định trong cách hiểu. Điều này làm cho Giáo hội công giáo ngày càng phân mảnh hơn: mỗi người, mỗi nhóm tự tạo cho mình một “công giáo” riêng, cho rằng mình trung thành với đức tin và luân lý chân chính, theo cả “nghĩa đen lẫn nghĩa bóng”.

Quyền lực của chiếc nhẫn

Đây chính là thách đố mà Hồng y Robert Francis Prevost, nay đã là Giáo hoàng, chắc chắn sẽ phải đối diện khi người tiền nhiệm Jorge Bergoglio gần như đã phó mặc vấn đề này, bằng cách cổ vũ cho một mục vụ dựa trên sự linh hoạt tối đa, trên thiện chí rộng mở và hình thức “liên tục” đầy bất định theo kiểu Joseph Ratzinger giải thích Karol Wojtył và Giovanni Battista Montini sau năm 1965, nhất là sau 1968.

Làm sao để dù có khác biệt chính đáng đức tin và luân lý, Công giáo vẫn là một và như nhau tại Ulaanbaatar, Bangkok, São Paulo, Kinshasa, Amsterdam hay Anchorage, trong khi mô hình trung ương tập quyền thời thế kỷ XIX không còn hữu hiệu, và có lẽ cũng không còn thích hợp?

Có ai dám ứng cử ngôi vị giáo hoàng mà sẵn sàng đối diện với vấn đề gai góc này một cách cụ thể, vượt lên những lời ca tụng về hội nhập văn hóa, về tính hiệp hành, về cuộc “đối thoại trong Thánh Thần” hay về “hiệp thông Giáo hội”?

Vì thật khó để buông bỏ quyền lực của chiếc nhẫn ràng buộc mọi chiếc nhẫn khác…

Têrêxa Trần Tuyết Hiền dịch

Chọn danh hiệu, nhiệt thành truyền giáo, tinh thần đồng nghị: Đức Lêô  phác thảo các nét chính triều của ngài

Giovanni Maria Vian: “Đức Lêô XIV đã chuẩn bị rất kỹ”

Mật nghị: điều tra hậu trường của cuộc bầu cử bất ngờ

Những bước đi thành công đầu tiên của Đức Lêô XIV

Đức Lêô XIV thận trọng tìm một Giáo hội hiệp nhất trong một thế giới chia rẽ

Bài mới nhất