Home Blog Page 42

Hai ngàn năm lịch sử triều các giáo hoàng được kể trong năm giai thoại

Hai ngàn năm lịch sử triều các giáo hoàng được kể trong năm giai thoại

lemonde.fr, Youness Bousenna, 2025-05-29

Không biết quý độc giả có biết đã có ba giáo hoàng Bắc Phi? Có nhiều giáo hoàng hơn con số thật? Có nhiều Giám mục Rôma chết vì bệnh sốt rét? Một vài giai thoại kể những chi tiết lạ lùng.

Ngày 8 tháng 5, Đức Lêô là giáo hoàng thứ 267 của lịch sử sau Thánh Phêrô, một dịp để chúng ta có cái nhìn về nguồn gốc địa lý, chọn tên, phác họa các nét của một tổ chức thần học và chính trị lâu đời nhất phương Tây.

Nguồn gốc: hai giáo hoàng người Mỹ, ba giáo hoàng Châu Phi

Một Giáo hoàng Mỹ gốc Peru sau Giáo hoàng Argentina: thế kỷ 21 đang thay đổi hình ảnh giáo hoàng. Việc bầu Đức Phanxicô (2013-2025) đã làm cho Châu Mỹ la-tinh có giáo hoàng đầu tiên, chấm dứt một thời kỳ rất dài các giáo hoàng toàn ở Châu Âu. Và vì lý do chính đáng: đã kéo dài trong 1.272 năm và Gregory III (731-741), đại diện cuối cùng của dòng dõi sáu giáo hoàng người Syria, giáo hoàng đầu tiên là giáo hoàng Anicetus, người gốc Homs và là giáo hoàng thứ 11 của Giáo hội trong những năm 50-160. Châu Phi đã có ba Giáo hoàng, tất cả đều là người Berber: Đức Victor I cuối thế kỷ thứ 2, Miltiades (311-314) và Gelasius I (492-496). Hầu hết 267 giáo hoàng là người Châu Âu và khoảng 80% là người Ý.

Nước Pháp có một vị trí ngược đời, là quốc gia có số lượng giáo hoàng lớn thứ hai trên thế giới (16), kể từ Giáo hoàng Sylvester II (999-1003) – nhưng giáo hoàng cuối cùng là Gregory XI (1370-1378), cũng đã cách đây gần 650 năm! Phải nói các giáo hoàng ở thế kỷ 14 đã có vai trò đặc biệt khi cuộc đấu tranh huynh đệ tương tàn ở Rôma giữa phe Guelph và phe Ghibelline, một bên ủng hộ Giáo hoàng và một bên ủng hộ Hoàng đế La Mã đã làm cho Giáo hoàng Pháp Clement V (1305-1314) phải về Avignon năm 1309.

Tuổi thọ: từ triều 12 ngày đến triều 31 năm

Đức Phanxicô tại vị 12 năm là con số trung bình. Khác với kỷ lục 31 năm của Giáo hoàng Piô IX người Ý (1846-1878). Thánh Phêrô trị vì từ khoảng năm 30 đến năm 64 hoặc 67, nhưng ngày tháng trị vì của ngài không chắc chắn.

Vai trò lịch sử của Giáo hoàng Piô IX cũng quan trọng như tuổi thọ của ngài, vì ngài xác định vị thế của Giáo hội ở thời điểm then chốt được đánh dấu bằng sự ra đời của chủ nghĩa hiện đại công nghiệp và sự ra đời của các hệ tư tưởng đại chúng, như chủ nghĩa cộng sản, vào đúng thời điểm mà sự thống nhất nước Ý năm 1870, đã tước đi các lãnh thổ giáo hoàng của Tòa thánh – tình trạng kéo dài cho đến Hiệp định Lateran năm 1929, công nhận chủ quyền Tòa thánh đối với Vatican.

Phản ứng của Đức Piô X đặc biệt bảo thủ: ngoài việc công bố tín điều Đức Mẹ Vô nhiễm (1854) khẳng định Đức Trinh Nữ được sinh ra mà không mắc tội tổ tông, cũng như ơn bất khả ngộ của giáo hoàng có từ Công đồng Vatican I (1870), thái độ thù nghịch của ngài với thế giới hiện đại được thể hiện qua văn bản Syllabus errorum, đính kèm vào thông điệp Quanta cura (“Cần thận trọng đến mức nào”, 1864), lên án 80 ý tưởng đương thời.

Triều này là một trong những triều quan trọng nhất lịch sử, ngược với những triều mà thời gian tồn tại chỉ là giai thoại. Giáo hoàng chết yểu là Giáo hoàng Urbanô VII (1590), ngài qua đời vì bệnh sốt rét chỉ 12 ngày sau khi được bầu. Giáo hoàng Boniface VI (896) được bầu khi đã 90 tuổi và qua đời 15 ngày sau đó. Trong thời hiện đại, Giáo hoàng Gioan-Phaolô I được bầu năm 1978 chỉ sống 33 ngày sau khi được bầu, lý do cái chết của ngài vẫn còn bí ẩn.

Cái chết của Đức Urbanô VII bị cho là giai thoại, nhưng thật ra không phải vậy. Một nghiên cứu nghiêm túc của các nghiên cứu gia người Ý thực hiện và được công bố trên tạp chí Experimental and Clinical Transplantation năm 2023 cho biết ngài bị sốt rét. Bệnh sốt rét đến Rôma vào khoảng năm 450 trước Công nguyên, đã làm 21% giáo hoàng thiệt mạng từ năm 999 đến năm 1644!

Lựa chọn các tên: nhiều Giáo hoàng chọn tên Gioan, chỉ có một Giáo hoàng tên Zephyrin.

Các giáo hoàng phải lựa chọn tên, chỉ có Simon Phêrô là tên được Chúa Giêsu đặt, như phúc âm Thánh Mattêô tường thuật: “Ngươi là Phêrô, trên đá này Ta sẽ xây Giáo hội của Ta.” Các Giáo hoàng của thiên niên kỷ đầu tiên chọn tên Gioan, từ Giáo hoàng Gregory V (996-999) thì các giáo hoàng không còn dùng tên riêng, có một hệ thống được thiết lập cho các triều sắp tới.

Khi chọn tên là Lêô XIV, tiếp theo Đức Lêô XIII (1878-1903), tác giả học thuyết xã hội với thông điệp Rerum novarum (1891), Đức Lêô đã đưa dòng họ Lêô lên dòng họ có nhiều giáo hoàng ngang với dòng họ Clement, nhưng dòng họ này không còn ai là giáo hoàng sau khi Đức Clement XIV qua đời năm 1774. Clément và Lêô trước Biển Đức và Gregory (mỗi dòng họ có 15 triều), nhưng vẫn kém dòng họ Gioan: 23 triều. Giáo hoàng cuối cùng là Đức Gioan XXIII (1958-1963) kể từ thế kỷ 14.

Có một đổi mới gần đây của Đức Gioan-Phaolô I, ngài là Giáo hoàng đầu tiên có tên kép, lấy tên của Đức Gioan XXIII cấp tiến, người khởi xướng Công đồng Vatican II (1962-1965), và Đức Phaolô VI bảo thủ (1963-1978), người có thông điệp Sự sống Con người Humanae vitae (1968) phản đối biện pháp tránh thai nhân tạo. Một tìm kiếm cân bằng mà Giáo hoàng Ba Lan Gioan-Phaolô II (1978-2005) sẽ tiếp tục.

Năm 2013 khi Đức Phanxicô chọn tên Phanxicô thành Assisi, ngài đại diện cho một triều khiêm nhường, quan tâm đến người nghèo. Ngài là một trong các giáo hoàng đề xướng một dòng họ mới. Cho đến nay, ngài là giáo hoàng đầu tiên có một tên riêng kể từ giáo hoàng ngắn ngủi Landon (913-914). Đức Phanxicô là giáo hoàng không có tiền nhiệm hay kế nhiệm, cũng như các giáo hoàng Formosus (891-896), Sabinian (604-606) và một Zephyrinus khác (198-217), đặc trưng của những thế kỷ đầu tiên của thể chế này.

Các giáo hoàng đối lập: 267 và những người khác

 Bên cạnh 267 giáo hoàng được công nhận chính thức còn có các giáo hoàng bất hợp pháp: về các giáo hoàng này phải xem Niên giám Giáo hoàng do Vatican xuất bản. Người cuối cùng trong danh sách là Felix V (1438-1449), khép lại con số 37 giáo hoàng đối lập bắt đầu từ năm 217. Một cuộc xung đột về tà giáo đã dẫn đến việc bầu hai giáo hoàng năm đó, giáo hoàng chính thức Callistus I (217-222), còn  Hippolytu là giáo hoàng đối lập đầu tiên – sau đó là một giáo hoàng tử đạo được Giáo hội phong thánh.

Sự kiện chính dẫn đến sự ra đời của các giáo hoàng ly giáo xảy ra vào thế kỷ 14. Chín giáo hoàng kế vị nhau tại Avignon từ năm 1309, cho đến cuộc khủng hoảng kế vị nghiêm trọng nổ ra do cái chết của giáo hoàng Gregory XI năm 1378, và việc về lại Rôma dẫn đến Đại ly giáo phương Tây: cho đến năm 1417, có hai giáo hoàng trị vì, một ở Rôma, một ở Avignon, nơi các giáo hoàng đối lập Clement VII (1378-1394) và sau đó là Biển Đức XIII (1394-1423) được bầu. Dù cuối cùng tình trạng đã được giải quyết với cuộc bầu cử giáo hoàng Máctinô V (1417-1431), giáo hoàng Biển Đức XIII vẫn từ chối nhượng bộ.

Các cuộc phiêu lưu của giáo hoàng đối lập này không chỉ là di tích của quá khứ, nhưng đã mở ra một chương mới kể từ Công đồng Vatican II tiến hành cải cách, đã bị một số phong trào theo chủ nghĩa truyền thống ghét bỏ vì họ xem tất cả giáo hoàng được bầu sau khi Đức Piô XII qua đời năm 1958 là những người dị giáo. Thuyết trống tòa – Sedevacantism được linh mục người Mêxicô Joaquin Saenz y Arriaga (1899-1976) đưa ra năm 1971. Suy nghĩ này tác động đặc biệt đến Giáo hội kitô giáo ly giáo Palmarian của các tu sĩ dòng Carmel Thánh Nhan, được thành lập tại El Palmar de Troya (Andalusia), nơi đã bổ nhiệm các giáo hoàng đối lập kể từ năm 1978, bao gồm cả Giáo hoàng Phêrô III hiện tại. Mặc dù tổ chức này hiện đang bị cáo buộc có hành vi cực đoan theo giáo phái, nhưng nhắc chúng ta sự hiệp nhất của cộng đồng tín hữu không bao giờ được đảm bảo một cách chắc chắn.

Chết, từ nhiệm, hay bắt đầu lại: các giáo hoàng sẽ ra sao

Cái chết của Đức Phanxicô đã khép lại, ít nhất là tạm thời, câu hỏi còn bỏ ngỏ sau khi Đức Bênêđíctô XVI từ nhiệm (2005-2013). Chết trên ngai Thánh Phêrô là chuẩn mực, về hưu là ngoại lệ. Tình trạng này được quy định theo điều 332 giáo luật, chỉ xảy ra khoảng bảy đến chín lần (số lượng có thể khác nhau), lần cuối cùng là với Đức Gregory XII năm 1415, nhằm chấm dứt tình trạng hai giáo hoàng ở Avignon và ở Rôma, tạo cơ hội cho Đức Máctinô V đồng thuận.

Tình trạng của Đức Bênêđíctô XVI đã làm cho ngài thành trường hợp đặc biệt: ngài từ nhiệm năm ngài 85 tuổi, nhưng vì ngài qua đời khi ngài 95 tuổi nên ngài là giáo hoàng sống lâu nhất, hơn cả Đức Lêô XIII chết khi ngài tại nhiệm ở tuổi 93. Vì thế ngài kém xa giáo hoàng trẻ nhất trong lịch sử, Đức Bênêđictô IX (1032-1044), một số nguồn tin cho rằng lần đầu khi ngài nhậm chức là… 12 tuổi. Lần đầu tiên, vì Đức Bênêđictô IX làm giáo hoàng ba lần: năm 1032-1044, năm 1045 và năm 1047-1048. Nếu thực sự có 267 triều giáo hoàng, thì về mặt kỹ thuật Đức Lêô XIV là giáo hoàng thứ 265. Với Bênêđictô IX, ngài vô tình phát minh ra một cách mới để kết thúc triều của ngài: bắt đầu một triều mới.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Massimo Faggioli: “Việc bầu mật nghị năm 2025 cũng là một cách để đáp ứng với cuộc khủng hoảng ở Mỹ”

Sức mạnh hướng ngoại, yếu đuối và im lặng của người tín hữu kitô

Giáo hoàng và Trí tuệ nhân tạo: lương tâm đứng trước máy móc

Mười lời khuyên của Đức Phanxicô để sống đức tin trọn vẹn

Mười lời khuyên của Đức Phanxicô để sống đức tin trọn vẹn

la-croix.com, Christel Juquois, 2025-04-25

Đức Phanxicô cầu nguyện tại Đền thờ Đức Bà Cả ở Rôma, Observatoire Romain, AFP

Trong bài phát biểu tại Giáo hoàng Học viện Gregorian ngày 5 tháng 11 năm 2024, Đức Phanxicô nhấn mạnh đến tầm quan trọng của một đời sống đức tin “chân chính và sâu sắc” ngược với đức tin ngài gọi là “đức tin Coca-Cola”, loại đức tin bấm nút có liền… Theo ngài, đây là mười điều then chốt để có được đức tin chân chính.

1. Tìm Chúa ở mọi nơi

Ngày chúa nhật 20 tháng 4, vài giờ trước khi qua đời, ngài có bài giảng lễ Phục sinh cuối cùng, ngài xin giáo dân có tâm hồn sốt sắng tìm Chúa Kitô Phục sinh: “Xin anh chị em tìm kiếm Ngài trong cuộc sống hàng ngày, trên khuôn mặt của anh chị em chúng ta, tìm Ngài ở mọi nơi trừ ở ngôi mộ này.”

Để nhận ra Chúa Kitô nơi những người chúng ta gặp hằng ngày, chúng ta phải siêng năng đọc Phúc Âm. Ngài khuyên chúng ta có quyển Phúc âm bỏ túi để đọc đi đọc lại, để say mê Kinh Thánh (Kinh Truyền Tin ngày 31 tháng 10 năm 2021). Khi Phúc âm thấm sâu vào tâm hồn, Phúc âm sẽ là “tiếng nói của lương tâm” và chạm đến mọi khía cạnh của cuộc sống.

2. Cầu nguyện là hơi thở của đức tin

Mối quan hệ với Chúa Kitô phát triển qua lời cầu nguyện. Cầu nguyện nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng và đời sống hành động: “Chúng ta phải luôn nuôi dưỡng không gian nội tâm để mang lại ý nghĩa kitô giáo cho cam kết và hoạt động của chúng ta. Giáo hội không thể sống nếu không có lá phổi cầu nguyện.” (Evangelii gaudium, số 262).

Trong bài giáo lý đọc trong buổi Kinh Truyền Tin ngày 4 tháng 11 năm 2020, ngài nhấn mạnh: “Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu là bánh lái dẫn đường, là bí mật cuộc đời, là bí quyết của đời sống chúng ta: Đó là ước muốn đầu tiên trong ngày, là điều được làm lúc bình minh, trước khi thức dậy. Bằng cách lần chuỗi Mân Côi, tham dự Mạng lưới Cầu nguyện Toàn cầu, tham dự các buổi cầu nguyện trong giáo xứ.”

3. Hiểu rõ bản thân không phải là chuyện dễ dàng!

Từ tháng 8 năm 2022 đến tháng 1 năm 2023, ngài giảng một khóa giáo lý dài về khả năng phân định, giúp chúng ta đưa ra những quyết định đúng đắn. Là tu sĩ dòng Tên, ngài thấm nhuần linh đạo Thánh I-Nhã với kho tàng các bài tập Linh thao: “Phân định là việc làm quan trọng liên quan đến mọi người, vì lựa chọn là một điều thiết yếu của cuộc sống. Những lựa chọn trong cuộc đời là mối quan hệ của chúng ta với Chúa được hiện thực hóa.”

Việc đưa ra lựa chọn đòi hỏi “trí thông minh, chuyên môn và ý chí”, nhưng cũng cần có tình cảm và khả năng “bắt đúng thời điểm” trong những tình huống đôi khi không lường trước được. Phân định là khó khăn, vì khi chúng ta chọn “một cái gì đó trông có vẻ đẹp nhưng thực ra lại không đẹp”, hoặc ngược lại, “biết đó là tốt đẹp cho mình, nhưng lại không lựa chọn”.

Phân định đòi hỏi chú ý đặc biệt đến “những gì đang diễn ra trong tâm hồn chúng ta; những cảm xúc và ý tưởng, chúng ta phân định chúng đến từ đâu, chúng dẫn đi đâu”. Đó là lý do vì sao Đức Phanxicô xin “chúng ta thành thật xét mình mỗi ngày, trong đối thoại với Chúa, Đấng yêu thương chúng ta. điều này chỉ có thể làm khi chúng ta cầu nguyện (Gaudete et exsultate, số 169).

4. “Sự thật đáng giá hơn ý tưởng”

Điểm đặc trưng trong tinh thần của Đức Phanxicô là neo giữ trong thực tế, trong tính cụ thể của các tình huống: Trong Tông thư ngày 19 tháng 6 năm 2023, ngài viết nhân kỷ niệm 400 năm ngày sinh của triết gia Blaise Pascal: “Không có gì nguy hiểm hơn một ý nghĩ không có thực.”

Sự gắn bó với điều cụ thể này được thể hiện qua sự chú ý đặc biệt của ngài với những biểu hiện phổ biến của đời sống đức tin, thông qua cử chỉ, giác quan, cơ thể: thắp nến, chạm vào tượng, đi hành hương… Ngày 15 tháng 12 năm 2024, ngài nói tại Ajaccio: “Khi thể hiện đức tin bằng những cử chỉ đơn giản và ngôn ngữ tượng trưng bắt nguồn từ văn hóa người dân, từ lòng mộ đạo bình dân, chúng ta thấy được sự hiện diện cụ thể của Chúa Giêsu trong thân xác sống động của lịch sử.” Ngài ca ngợi các sinh hoạt lễ hội bình dân: “Một lòng đạo đức không lễ hội sẽ không có hương thơm, không phải lòng đạo đức đến từ một cách tự nhiên.”

5. “Nói từ trái tim, hành động từ trái tim”

Năm 2024, khi công bố Thông điệp Dilexit nos “Ngài yêu thương chúng ta”, Đức Phanxicô đã làm mọi người ngạc nhiên vì ngài dành một thông điệp cho Thánh Tâm, đối tượng một lòng tôn kính bị cho là lỗi thời. Nhưng chính trong trái tim, con người mới tìm thấy gốc rễ của mọi sức mạnh, niềm tin, đam mê và các lựa chọn khác của mình” (số 9). Vì “trái tim là nơi chân thành, nơi chúng ta không thể lừa dối và giả dối” (số 5), nơi chúng ta tìm thấy sự thống nhất của mình: “Nếu tình yêu có ở đó, con người nhận ra căn tính của mình một cách trọn vẹn và sáng tỏ” (số 21).

Đó là lý do vì sao ngài giải thích, “Thánh Tâm là nguyên lý thống nhất của thực tại, vì ‘Chúa Kitô là trái tim của thế giới’ (Đức Gioan Phaolô II, số 31). Khi đọc lại Kinh Thánh, Đức Phanxicô xin chúng ta tôn kính Thánh Tâm, nơi ngài thấy sự tổng hợp của lời Chúa: “Trong Trái Tim bị đâm thâu của Chúa Kitô, tất cả tình yêu đều được tập trung ở đó, được ghi khắc trong thân xác.” (số 101).

6. Noi gương các thánh, “mỗi người có một con đường”

Đức Phanxicô thích nói về các vị thánh, ngài nói nhiều hơn các giáo hoàng khác. Theo cách riêng của mỗi thánh, các thánh là mẫu gương cho chúng ta, các ngài khuyến khích và đồng hành với chúng ta (Gaudete et exsultate). Khi đưa ra con đường nhỏ bé của mình, Thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu cho chúng ta tự tin: “Không có con đường nào khác đưa chúng ta đến tình yêu thật sự” (Tông huấn ngày 15 tháng 10 năm 2023). Thánh Charles de Foucauld, “người anh em của mọi người, người chào đón mọi người” cho chúng ta thấy sức mạnh truyền giáo của sự dịu dàng và nhân hậu (bài giáo lý ngày 18 tháng 10 năm 2023). Thánh I-Nhã và Thánh Phanxicô Assisi cũng vậy. Đức Phanxicô khuyên chúng ta nên bắt chước sự thánh thiện của “các thánh ở nhà” (Gaudete et exsultate), các cha mẹ kiên nhẫn nuôi dạy con cái, sống tại gia và mỉm cười ngay cả trong đau khổ.

7. Khiêm nhường là con đường dẫn đến mọi đức tính

Trong nhiều bài viết, Đức Phanxicô nhắc bổn phận khiêm nhường: “Trong những trang đầu Phúc Âm, tinh thần khiêm nhường và khó nghèo là nguồn gốc của tất cả” (suy niệm ngày 22 tháng 5 năm 2024). Khiêm nhường bảo vệ chúng ta khỏi bị kiêu ngạo. Trong lần họp báo đầu tiên năm 2013, ngài nói: “Nếu một người đồng tính chân thành đi tìm Chúa, tôi là ai mà phán xét họ?” Khiêm nhường là cánh cửa dẫn đến mọi đức tính: dịu dàng, nhân từ, trong sáng.

Để có được đức tính khiêm nhường, tôi phải chấp nhận những sỉ nhục của cuộc sống, đó là lời mời gọi của Đức Phanxicô: “Nếu chúng ta không chịu đựng được một số sự sỉ nhục, nếu chúng ta không khiêm nhường, chúng ta không đi trên con đường nên thánh.” Vì vậy, ngài khuyên chúng ta nên đọc lại Các Mối Phúc Thật (Gaudete et exsultate, chương 3).

8. Chúng ta cần xây cầu, không xây những bức tường

Giáo hội không tránh khỏi cám dỗ tự bảo vệ mình. Vào đầu triều, trong một thánh lễ ở Nhà nguyện Thánh Marta, Đức Phanxicô nhấn mạnh, Giáo hội không phải là “trạm hải quan”, cho một số người nhập cảnh, một số không. Ngài nói đến trường hợp các linh mục từ chối rửa tội cho con của các cặp chưa kết hôn hoặc cha mẹ đơn thân.

Trong Thông điệp Tất cả là Anh em Fratelli tutti công bố năm 2020, ngài đề xuất “một giấc mơ mới về tình huynh đệ và tình bạn xã hội không chỉ giới hạn trong lời nói”, theo gương Thánh Phanxicô Assisi khi ngài đến thăm Vua Malik Al Kamil ở Ai Cập.

9. Mở các cánh cửa

Năm 2013, trong tông huấn đầu tiên Niềm vui Tin mừng, Evangelii Gaudium, ngài kêu gọi một Giáo hội đi ra vùng ngoại vi để gặp những người nghèo khổ nhất: “Chúng ta hãy ra đi để trao ban cho mọi người sự sống của Chúa Giêsu Kitô” (số 49). Niềm vui Tin Mừng luôn là động lực để lên đường, trao ban, ra khỏi chính mình, bước đi và gieo trồng ngày càng mới mẻ, ngày càng xa hơn” (số 21). Đến với người khác, rao giảng Phúc Âm không khác gì hoạt động xã hội. Cả hai đều là một phần không thể thiếu của đời sống tâm linh (số 78).

10. Buồn bã là không thánh thiện

Chủ đề về niềm vui xuất hiện trong mọi bài giảng của ngài. Niềm vui được giải thoát khỏi tội lỗi và loan báo Tin Mừng là niềm vui được sống trong những chuyện nhỏ nhặt bình thường của cuộc sống hằng ngày” (Evangelii Gaudium, số 4), niềm vui được sống trong gia đình, niềm vui trước hạnh phúc của người khác (Amoris Laetitia), niềm vui khi chiêm ngắm thế giới (Laudato Si’, số 12). Với Chúa Giêsu Kitô, niềm vui được sinh ra và luôn được tái sinh (Evangelii Gaudium, số 1). Niềm vui làm chúng ta mỉm cười, và tinh thần hài hước có một vai trò quan trọng. Đức Phanxicô luôn khuyên chúng ta có “tinh thần hài hước”.

Các bài giáo lý của Đức Phanxicô

 Trong mười hai năm làm giáo hoàng, trong các buổi tiếp kiến ngày thứ tư hàng tuần, Đức Phanxicô triển khai các bài giáo lý về nhiều vấn đề thần học, thiêng liêng, mục vụ, Kinh thánh. Đơn giản và dễ hiểu cho đời sống đức tin của giáo dân. Phân định, cầu nguyện, truyền giáo, các bí tích, Các Mối Phúc Thật, các bài trong Tân Ước, các suy tư về Thánh Giuse, 21 chủ đề đã được khai triển từ năm 2013 đến năm 2015 đã được đăng trên trang web Vatican tiếng Việt: https://www.vaticannews.va/vi.html.

Về các nhân vật của đời sống thiêng liêng, Đức Phanxicô đặc biệt kính mến Thánh Charles de Foucauld, Thánh Têrêxa Lisiơ, Thánh I-Nhã và bà Madeleine Delbrel.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Một buổi chiều tại mộ Carlo Acutis

Một buổi chiều tại mộ Carlo Acutis

fr.aleteia.org, Hugues Lefèvre, 2025-05-02

Cầu nguyện trước mộ của Chân phước Carlo Acutis

Năm 2024 có gần một triệu người đã đến viếng thi hài Chân phước Carlo Acutis tại Nhà thờ Đức Bà Cả Santa Maria Maggiore ở Assisi. Giáo hội dự kiến phong thánh cho Chân phước Carlo Acutis ngày 27 tháng 4, nhưng vì Đức Phanxicô qua đời nên ngày này đã được dời lại.

Bà Anna-Maria 80 tuổi, người Argentina, bà ngồi trước sân Đền thờ Đức Bà Cả, bà có vẻ mệt, bà đang lấy lại sức sau khi viếng mộ Chân phước Carlo Acutis. Trong một thời gian dài, bà thường chia sẻ nỗi đau của bà trước thi hài Chân phước Carlo Acutis qua đời năm 2006. Bà không giấu được cảm xúc: “Cậu bé đó rất gần gũi với Chúa. Cậu bé đã làm nhiều phép lạ.” Chính vì thế bà đến đồi Umbria, cách nhà bà ở Rosario hơn 11.000 cây số để xin phép lạ: “Chồng tôi bị ung thư. Nhưng con gái tôi là người tôi đau khổ nhất: cháu không thể có con.” Vì con, bà vượt Đại Tây Dương một lần nữa để cầu nguyện với Carlo Acutis: “Ở đất nước tôi, Carlo rất nổi tiếng với giới trẻ. Khi chồng tôi bị bệnh, một người bạn đã đem một ít tóc của Carlo đến nhà chúng tôi. Chúng tôi cầu nguyện trước thánh tích này.”

Lối vào Đền thờ Đức Bà Cả, nơi đặt thi thể của Carlo Acutis / Hugues Lefèvre

Không xa bà, trên quảng trường, dù trời còn lạnh, tám cô gái trẻ mặc áo thể thao màu trắng có in hình Carlo Acutis. Bảy cô gọi nhau đến chụp hình trước chân dung lớn của Chân phước Carlo Acutis. Một cô cho biết: “Chúng tôi từ London đến. Chúng tôi rất quý Carlo, nhưng chúng tôi đến đây vì Chúa Giêsu.” Các cô ngưng ngang câu chuyện khi thấy một linh mục ra khỏi nhà thờ, cô xin linh mục: “Xin cha làm phép cho chúng con các ảnh tượng này.” Cha làm phép ngay, cha người Mỹ, hướng dẫn một nhóm hành hương từ California qua. Cha nói: “Thật cảm động khi chúng tôi đến đây. Phương Tây đang mất dần động lực và chủ nghĩa thế tục đang lan rộng trên toàn thế giới. Carlo là gương mẫu của chúng tôi trong việc tôn kính Bí tích Thánh Thể.” Linh mục 40 tuổi, ánh mắt cha sáng lên khi cha nói về các thành công gần đây của các Đại hội Thánh Thể ở Hoa Kỳ: Carlo mời chúng ta kết nối lại với Thiên đàng.”

“Các bạn sẽ cảm thấy như Carlo còn sống”

Bên trong nhà thờ du khách ngạc nhiên trước sự trống vắng của nhà thờ. Đây là nhà thờ cổ Assisi. Năm 2019 hài cốt của Chân phước Carlo được đưa về đây. Một năm sau, ngôi mộ của Carlo được trưng ở đây để giáo dân hành hương đến tôn kính. Nằm trên khối đá vàng lơ lửng giữa mặt đất và bầu trời, Carlo như đang ngủ trong bộ quần áo tuổi teen: giày thể thao Nike, quần jean và áo phông polo.

Bên phải của nhà thờ, bầu khí yên lặng dù dòng người vẫn không ngừng di chuyển. Một số giáo dân hành hương quỳ xuống, dán một bức ảnh, treo một tràng hạt, dán một ý chỉ lên cửa sổ lạnh lẽo. Gần quan tài là chiếc hộp đựng ý chỉ cầu nguyện. Các em bé kéo tay cha mẹ để xin giải thích. Khách hành hương từ khắp thế giới về đây muốn chụp hình nhưng họ thất vọng: một nữ tu luôn nhắc họ tôn trọng nơi trang nghiêm này.

Hình ảnh / Hugues Lefèvre

Đột nhiên một nhóm học sinh Ý đi vào. Im lặng bị phá vỡ. Khi chúng tôi đi qua cửa sổ, một số bạn xô đẩy, một số khác mỉm cười ngượng ngùng. Một cô tuổi teen thì thầm với bạn: “Tôi không nhìn. Tôi đi đây!” Vài phút trước đó, trước khi dẫn nhóm của mình vào nhà thờ, người hướng dẫn đã chuẩn bị cho các học sinh: “Khi các em đi qua trước quan tài, các em sẽ thấy thi thể của một thiếu niên, các em sẽ có cảm tưởng Carlo còn sống. Carlo đã được hóa trang.” Em Eloi 7 tuổi, đi cùng cha mẹ cho biết: “Trông là lạ, Carlo trông giống như con búp bê.” Cha của em rất vui khi hai con của ông thấy Carlo, người trẻ cùng thời cùng tuổi với các con ông “đã chết trong hương thơm của sự thánh thiện.” Eloi hứa: “Khi về Pháp, con sẽ tìm hiểu Carlo nhiều hơn.” Eloi sẽ đọc truyện tranh về Carlo mà người cha đã mua cho em từ lâu.

Ngôi mộ của Carlo làm thay đổi dòng giao thông ở Assisi

Những đám mây đen bao phủ ngọn đồi Assisi, nhưng giáo dân hành hương và người hiếu kỳ vẫn tiếp tục về đền thờ Đức Bà Cả. Gần hiên nhà, chúng ta có thể nghe nhiều ngôn ngữ khác nhau: Hàn quốc, Ấn Độ. Người cha nói với ánh mắt sáng ngời: “Sáu người chúng tôi đến Rôma để dự Năm Thánh và Đại lễ. Bà mẹ Merry ôm đứa cháu trai lớn nhất, bà tâm sự: Tôi đến để cầu nguyện cho cháu được như Carlo Acutis.” Ông Tom cho biết, ở thành phố Kerala của ông, đời sống của Carlo được các tu sĩ Dòng Salêdiêng quảng bá.

Tom và gia đình Ấn Độ của ông / Hugues Lefèvre

Bà Marina Rosati, người đứng đầu ban truyền thông của Giáo phận Assisi cho biết: “Tại thánh địa này, chúng tôi cảm thấy như sống ngày Lễ Hiện Xuống, nhiều người nói nhiều ngôn ngữ khác nhau nhưng chúng tôi hiểu nhau! Càng ngày càng có nhiều người Nam Mỹ, Châu Á, Phi Luật Tân, Hàn quốc, Ấn Độ đến đây. Trung bình có khoảng 3.000 người đến nhà thờ này mỗi ngày. Năm ngoái, một triệu du khách đã đến đây và lễ phong thánh Carlo Acutis sẽ có nhiều người đến. Bà Rosati giải thích: “Khi dời thi thể Carlo về đây, số lượng giáo dân hành hương đã tăng lên rất nhiều. Nơi này thành nơi dừng chân bắt buộc giữa vương cung thánh đường Thánh Clara và Thánh Phanxicô. Có nhiều người đến cầu nguyện với Chân phước Carlo vì Carlo Acutis là thánh của thời đại chúng ta. Carlo là một thánh bình thường!”

Marta An Nguyễn dịch

Massimo Faggioli: “Việc bầu mật nghị năm 2025 cũng là một cách để đáp ứng với cuộc khủng hoảng ở Mỹ”

Massimo Faggioli: “Việc bầu mật nghị năm 2025 cũng là một cách để đáp ứng với cuộc khủng hoảng ở Mỹ”

monaco-hebdo.com, Raphael Brun, 2025-05-02

Giáo sư thần học lịch sử tại Đại học Villanova, chuyên gia viết khảo luận cho tạp chí công giáo độc lập Commonweal trả lời các câu hỏi của trang Monaco Hebdo về Đức Lêô / Hình ảnh © DR

Ngày 8 tháng 5 năm 2025, hồng y Robert Francis Prevost, 69 tuổi,  được bầu làm Giáo hoàng thứ 267 của Giáo hội công giáo. Giáo dân mong chờ gì ở triều của Đức Lêô?

Giáo sư Massimo Faggioli: Ngài là giáo hoàng người Mỹ đầu tiên trong lịch sử, Là tu sĩ Dòng tu khổ hạnh Augustinô, kinh nghiệm của ngài trong giáo triều, tầm nhìn của ngài về đối thoại liên tôn, cách xử lý tinh tế các trường hợp lạm dụng tình dục trong Giáo hội, các ưu tiên của ngài… được cho là Giáo hoàng hiện đại, gần gũi với những người bị loại trừ và có khả năng tạo hiệp nhất chung quanh ngài.

Việc bầu Giáo hoàng Lêô có phải là chuyện bất ngờ không?

Đây là chuyện bất ngờ vì ngài là Giáo hoàng đến từ Mỹ, phá vỡ điều cấm kỵ trong lịch sử rằng không một giáo hoàng nào là công dân của một cường quốc. Nhưng điều này không có gì đáng ngạc nhiên, vì sự nghiệp của ngài đã làm cho ngài là ứng viên sáng giá trong mật nghị, ngài được các hồng y khác biết đến và kính trọng.

Mật nghị khá ngắn, chỉ trong 24 giờ và bốn vòng phiếu: làm sao chúng ta có thể giải thích được sự nhất trí chung quanh là Đức Lêô nhanh chóng như vậy, khi nhiều người nghĩ rằng Hồng y Pietro Parolin, cựu nhân vật số hai sau Đức Phanxicô sẽ được bầu?

Trong lịch sử Giáo hội, thường rất khó khăn và phức tạp để một ngoại trưởng (tương đương với chức thủ tướng) được bầu làm người kế nhiệm Giáo hoàng. Hồng y Prevost có được sự đồng thuận của nhiều Hồng y ở các nơi khác nhau, nhất là ở Châu Mỹ la-tinh, Bắc Mỹ, các Hồng y châu Âu nói tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha.

Đức Lêô là ai?

Ngài là Giáo hoàng đến từ châu Mỹ, sinh năm 1955 ở Chicago trong một gia đình có nhiều văn hóa và sắc tộc khác nhau. Ngài học ở Mỹ, tu Dòng Thánh Augustinô, làm truyền giáo ở Châu Mỹ la-tinh. Ngài là Bề trên Tỉnh Dòng Âugustinô được Đức Phanxicô (1936-2025) bổ nhiệm làm Giám mục Peru, chịu trách nhiệm quản lý trên tầm mức quốc gia. Sau đó, Đức Phanxicô mời ngài về làm bộ trưởng Bộ Giám mục, một trong những Bộ quan trọng nhất ở Vatican. Chúng ta không biết nhiều về những gì ngài nói, ngài viết và xuất bản trước khi ngài được bầu làm giáo hoàng, nhưng sự nghiệp tôn giáo của ngài rất toàn diện, mang lại cho ngài một cái nhìn về Giáo hội, ít hồng y nào có được lúc bầu mật nghị năm 2025.

Việc ngài chọn tên Lêô XIV cho chúng ta biết gì về ngài?

Ngài cho biết ngài chọn Lêô XIV là theo Giáo hoàng Lêô XIII (1810-1903). Ngài kính trọng Giáo hoàng Lêô XIII vì nhiều lý do: là người sáng lập học thuyết xã hội Giáo hội trước sự hiện đại hóa về kinh tế và xã hội, là người tái khám phá trường phái Tôma (trường phái tư tưởng triết học-thần học theo Thánh Tôma Aquinô (1226-1274). Vào cuối thế kỷ 19, Giáo hoàng Lêô XIII đã giải quyết những thách thức của cái gọi là “Chủ nghĩa Công giáo Mỹ”. Ba khía cạnh này đặc biệt quan trọng với người công giáo Hoa Kỳ, còn quan trọng hơn so với Châu Âu.

Giáo sư làm việc tại Đại học Villanova, Philadelphia, bang Pennsylvania, nơi Đức Leo XIV theo học toán và triết học vào những năm 1970: giáo sư nhớ gì về ngài?

Tất cả những ai theo Dòng Augustinô ở Villanova đều biết rõ ngài, ngài là anh hùng địa phương ngay cả trước khi được bầu làm giáo hoàng. Dòng Augustinô có nhiều quan hệ với Giáo hội địa phương Philadelphia, đặc biệt Dòng quản lý một số giáo xứ, không chỉ riêng trường đại học. Cuộc bầu cử này ở thời điểm rất quan trọng trong lịch sử các trường đại học Công giáo ở Mỹ, các trường đang trải qua cuộc khủng hoảng bản sắc, kèm theo đó là khủng hoảng tài chính: “Việc bầu một Giáo hoàng ở Mỹ đã trở nên khả thi nhờ nhiệm kỳ Tổng thống Donald Trump, ông muốn có một giáo hoàng khác. Nhưng ông đã phá vỡ nhiều điều cấm kỵ trong quan hệ quốc tế, vì thế ông đã giúp việc dỡ bỏ điều cấm kỵ này trở nên dễ dàng hơn.”

Việc lựa chọn một Giáo hoàng Bắc Mỹ trong bối cảnh nước Mỹ đang ở trong giai đoạn biến động lớn không phải là ngẫu nhiên: mục tiêu của Vatican theo đuổi là gì?

Việc bầu một Giáo hoàng Mỹ trở nên khả thi hơn nhờ nhiệm kỳ của Tổng thống Trump, ông muốn có một giáo hoàng khác. Nhưng ông đã phá vỡ nhiều điều cấm kỵ trong quan hệ quốc tế, vì thế ông đã làm cho việc dỡ bỏ này trở nên dễ dàng hơn. Theo một số cách, việc bầu một Giáo hoàng Mỹ phản ánh sự suy yếu của Mỹ với tư cách là siêu cường duy nhất trên thế giới. Chắc chắn nguồn gốc của ngài sẽ có vai trò trong việc đánh giá các lựa chọn chính sách đối ngoại của Vatican sẽ đưa ra. Nhưng mật nghị năm 2025 cũng là một phản ứng trước cuộc khủng hoảng của nước Mỹ.

Hồng y Prevost đã nhiều lần chỉ trích Donald Trump, đặc biệt trong việc ông trục xuất hàng loạt người di cư: liệu quan hệ giữa hai người có thành khó khăn hơn không?

Mối quan hệ trở nên khó vì có một khoảng cách lớn giữa giáo lý của Giáo hội và chính sách nhập cư của Tổng thống Trump, đó là vấn đề trọng tâm của Tổng thống Trump. Nhưng tôi nghĩ quan hệ này mang tính thể chế nhiều hơn so với thời Đức Phanxicô. Nhưng phần lớn phụ thuộc vào tính khí của ông Trump. Nhưng tôi nghĩ ông đã hiểu ông sẽ không thể bác bỏ Đức Lêô khi nói ngài là một giáo hoàng không hiểu hoặc không yêu nước Mỹ.

Trước sự chia rẽ của Giáo hội công giáo Mỹ, Đức Lêô có thể có được sự hiệp nhất trong Giáo hội không?

Là thần học gia Dòng Âugustinô, ngài rất xem trọng tính hiệp nhất của Giáo hội và tầm quan trọng của sự hiệp nhất này với chính Giáo hội và thế giới. Giáo hội Công giáo có chia rẽ, nhưng chia rẽ này rõ rệt hơn ở Hoa Kỳ so với phần còn lại của thế giới. Theo nghĩa này, việc bầu một Giáo hoàng người Mỹ có thể làm rõ hơn việc có nhiều chia rẽ khác nhau trong Giáo hội: một số về mặt sinh lý, một số khác về mặt bệnh lý.

Phản đối mạnh mẽ xu hướng truyền thống và dân tộc chủ nghĩa của Giáo hội, đặc biệt với Phó Tổng thống J. D. Vance, ông trở lại đạo công giáo năm 2019, Đức Lêô sẽ giải quyết đối kháng này như thế nào?

Khi là hồng y, ngài đã lên tiếng phản đối một số khía cạnh trong thần học công giáo của ông J.D. Vance và ủng hộ các chính sách của chính quyền Trump. Nhưng không nên mong chờ ngài sẽ phản đối chủ nghĩa Trump về mặt chính trị. Tôi nghĩ, triều Đức Phanxicô có mối quan hệ biện chứng hơn, nhưng ít xung đột hơn với các trào lưu truyền thống. Điều này sẽ rất quan trọng, đặc biệt liên quan đến vấn đề phụng vụ và cái gọi là “Thánh lễ la-tinh” tại Mỹ.

Giáo sư ấn tượng điều gì nhất trong bài phát biểu đầu tiên của Đức Lêô ở ban-công Đền thờ Thánh Phêrô ngày 11 tháng 5 năm 2025?

Tôi rất ấn tượng khi nghe ngài nhắc đến Thánh Augustinô vì đó là bài phát biểu đã được chuẩn bị trước, điều chưa từng có ở các giáo hoàng tiền nhiệm của ngài. Tôi cũng ngạc nhiên khi thấy ngài rất xúc động và không nói tiếng Anh.

Về cuộc chiến ở Ukraine, Đức Phanxicô kêu gọi có hòa bình nhanh chóng, đôi khi ngài đặt kẻ xâm lược và kẻ bị tấn công ngang hàng: còn Đức Lêô đánh dấu sự khác biệt của ngài khi ngài kêu gọi “một hòa bình đích thực, công bằng và lâu dài” giữa Nga và Ukraine?

Tôi nghĩ có khác biệt giữa cách hai Giáo hoàng khi họ nhìn vấn đề này. Thánh Augustinô là một trong những tư tưởng gia quan trọng nhất về học thuyết “chiến tranh chính nghĩa” và tôi nghĩ điều này sẽ ảnh hưởng đến cách ngài nhìn các vấn đề quốc tế. Ngài đưa ra sự cân bằng tốt hơn trong lập trường của Vatican giữa sự gần gũi về mặt lịch sử với phương Tây và sự nhạy cảm về “phía Nam bán cầu” của một Giáo hội đang ngày càng tiến gần đến Châu Á và Châu Phi hơn. Liên quan đến Đức Phanxicô có thể sẽ có sự thay đổi, đặc biệt là trong mối quan hệ với Nga, do đó là với Ukraine. Hiện tại, có vẻ như khoảng cách giữa Vatican và Điện Kremlin ngày càng xa dù Tổng thống Trump muốn gần với Putin.

Người dân Hoa Kỳ đang hướng tới thời điểm mới này với niềm hy vọng lớn lao.

Trong thánh lễ đầu tiên tại Nhà nguyện Sistine ngày 9 tháng 5, Đức Lêô buồn vì giáo dân bây giờ không còn đức tin, họ thích “những chuyện trước mắt như công nghệ, tiền bạc, thành công, quyền lực, thú vui”: điều này có làm giáo sư ngạc nhiên không?

Tôi không ngạc nhiên vì Giáo hội công giáo, nhất là ở Mỹ là một trong những tiếng nói hiếm hoi cự lại mô hình kỹ trị, xu hướng tự do và cá nhân chủ nghĩa. Trong sự phản đối này, vai trò của tư tưởng Thánh Augustinô là cơ bản, ở cánh hữu cũng như ở cánh tả của quang phổ thần học và chính trị.

Những vấn đề chính mà Đức Lêô sẽ phải giải quyết ngay lập tức là vấn đề nào?

Các vấn đề quốc tế và hòa bình, đặc biệt ở mặt trận đối ngoại. Về nội bộ, chúng ta sẽ xem ngài bổ nhiệm những chức vụ nào đầu tiên và từ đó, chúng ta sẽ hiểu được những ưu tiên của ngài. Ngày nay “Công giáo toàn cầu” rất phức tạp và khó quản lý, vì có nhiều tình trạng khẩn cấp khác nhau trên thế giới.

Tháng 3 năm 2025, Đức Phanxicô quyết định kéo dài công việc của Thượng Hội đồng về tính đồng nghị, suy tư về một Giáo hội bao gồm hơn cho đến năm 2028: chúng ta mong chờ gì ở Đức Lêô trong nhiệm vụ này?

Đức Lêô cho thấy ngài trung thành với Công đồng Vatican II và Thượng Hội đồng về tính đồng nghị, thành quả của Công đồng Vatican II. Theo nghĩa này, đây là con đường ngài sẽ tiếp tục, nhưng chúng ta chưa biết ngài sẽ tiếp tục như thế nào. Đồng nghị là một trong những lý do các hồng y bầu ngài.

Là thần học gia Dòng Âugustinô, ngài rất xem trọng tính hiệp nhất của Giáo hội và tầm quan trọng của sự hiệp nhất này với chính Giáo hội và thế giới. Giáo hội Công giáo có những chia rẽ, nhưng chia rẽ này rõ rệt hơn ở Hoa Kỳ so với phần còn lại của thế giới. Cũng có những vấn đề khác gây chia rẽ, nhưng đáng chú ý là các vấn đề về phụng vụ với thánh lễ được cử hành theo nghi thức cũ hay mới, và cũng có vấn đề về việc chúc phúc cho các cặp đồng tính, được Đức Phanxicô cho phép, hay việc rước lễ cho những người đã ly dị và tái hôn: Đức Lêô có thể đưa ra lập trường nào về những vấn đề nhạy cảm này?

Tôi nghĩ chúng ta có thể mong chờ Đức Lêô sẽ có nhiều lập trường trung hòa hơn so với các biện pháp đột ngột Đức Phanxicô làm. Công việc còn lại phải làm là làm các văn bản và tài liệu huấn quyền, sách giáo lý, một số đã được Đức Phanxicô quyết định, nhưng vẫn chưa có hệ thống giáo lý đầy đủ.

Đức Lêô sẽ giải quyết vấn đề bạo lực tình dục trong Giáo hội như thế nào?

Tôi nghĩ với kinh nghiệm giám mục của ngài ở Peru và sự gần gũi của ngài với Giáo hội Hoa Kỳ sẽ là nền tảng cho sự nhạy cảm về vấn đề này và sẽ là tâm điểm của mọi chú ý. Một trong những câu hỏi là vai trò của Ủy ban Giáo hoàng Bảo vệ Trẻ vị thành niên trong Giáo triều La-mã.

“Cuộc bầu cử này là thời điểm rất quan trọng trong lịch sử các trường đại học Công giáo tại Hoa Kỳ, nơi đang trải qua cuộc khủng hoảng bản sắc và thường kèm theo cuộc khủng hoảng tài chính.” Giáo sư Massimo Faggioli khoa thần học lịch sử tại Đại học Villanova, chuyên gia viết khảo luận cho tạp chí Công giáo độc lập Commonweal. 

Đức Lêô đang phải đối diện với cách xử lý các vụ lạm dụng tình dục trong Giáo hội Mỹ, đặc biệt qua các tranh cãi của một số trường hợp liên quan đến các giáo sĩ, dù ở Chicago hay ở Peru: liệu điều này có thể làm ngài suy yếu không?

Theo những gì đã được biết cho đến nay, cách ngài xử lý ở Peru đã góp phần giải quyết vụ bê bối Sodalitium Christianae Vitae (SCV), (một giáo đoàn thế tục cực kỳ bảo thủ ở Peru) dẫn đến quyết định giải tán dần dần và hiếm hoi của Vatican (Đức Phanxicô thực hiện năm 2025). Với tư cách là Bộ trưởng Bộ Giám mục, ngài có nhiều kinh nghiệm trong lãnh vực này.

Ở phương Tây, giáo dân ít đến nhà thờ và ơn gọi suy giảm: làm sao Đức Lêô có thể đảo ngược hai xu hướng xuống dốc mạnh mẽ đã tồn tại nhiều năm?

Hãy còn quá sớm để nói. Nhưng chắc chắn, kể từ năm 1980, chúng ta chưa có giáo hoàng nào trẻ như vậy. Và điều này tác động mạnh đến Giáo hội, đặc biệt là ở châu Mỹ, nơi quá trình thế tục hóa dường như đã chậm lại.

“Trong số những vấn đề cấp bách nhất mà Đức Lêô cần giải quyết, tôi muốn nói đến vai trò phụ nữ trong Giáo hội công giáo, không chỉ ở các vị trí lãnh đạo, mà còn trong sứ mệnh và chức thánh. Ở một số quốc gia, Giáo hội công giáo đã mất toàn bộ nhiều thế hệ phụ nữ, họ dứt khoát ra khỏi Giáo hội.” Giáo sư Massimo Faggioli

Đối thoại liên tôn, đặc biệt với hồi giáo, là chủ đề quan trọng: Đức Lêô sẽ giải quyết vấn đề này như thế nào với người công giáo sống ở các quốc gia có đa số người dân theo đạo hồi?

Kể từ ngày 7 tháng 10 năm 2023, mối quan hệ giữa Vatican và thế giới Do Thái đã căng thẳng với vấn đề Gaza. Phái đoàn cấp thấp của chính phủ Israel cử tới dự tang lễ của Đức Phanxicô là dấu hiệu rõ ràng cho thấy điều này. Mặt khác, phái đoàn Israel dự thánh lễ đầu triều của Đức Lêô có các cấp bậc cao cấp do Tổng thống Israel, Isaac Herzog dẫn đầu. Một giáo hoàng người Mỹ cho phép có một loại liên hệ khác biệt và rộng hơn giữa Vatican và thế giới Do Thái. Và một giáo hoàng mang “tính thể chế” như Đức Lêô sẽ có thể có những quan hệ ít dựa trên quen biết cá nhân, và liên tục hơn ở cấp độ thể chế.

Năm 2018, một thỏa thuận với Trung Quốc cho phép Bắc Kinh đồng bổ nhiệm các giám mục, một số người cho đây là điều làm suy yếu quyền lực Vatican: Đức Lêô sẽ ở vị trí nào trong vấn đề gây chia rẽ  này?

Là giáo hoàng đầu tiên đến từ Hoa Kỳ và là cựu Bộ trưởng Bộ Giám mục, ngài có nhiều hiểu biết trực tiếp về vấn đề Trung Quốc. Thỏa thuận năm 2018 chắc chắn là thành tựu ngoại giao quan trọng nhất của Đức Phanxicô nhưng nhiều tiếng nói quan trọng trong Giáo hội, cũng như trong giới chính trị, đặc biệt ở Hoa Kỳ phản đối. Vấn đề này phần lớn phụ thuộc vào thiện chí của chính phủ Trung Quốc. Chúng ta cũng cần xem vai trò của ngoại giao Vatican và của Hồng y Parolin trong triều Đức Lêô.

Đức Lêô nhìn nhận Monaco, nước có quốc giáo là công giáo như thế nào?

Tôi không biết ngài nhìn nhận như thế nào, nhưng tôi nghĩ ngài rất chú trọng đến các mối quan hệ thể chế, vì vậy tôi không hiểu vì sao ngài chưa nghĩ đến việc đi thăm… Có nhiều quốc gia lấy công giáo làm quốc giáo.

Giáo sư nghĩ chuyến đi của Đức Lêô đến Monaco là khả thi không?

Đức Phanxicô có xu hướng tập trung các chuyến đi của ngài đến các  quốc gia không theo công giáo hoặc các quốc gia mà người công giáo là thiểu số. Có thể Đức Lêô nghĩ đến một “bản đồ thế giới” khác. Nhìn chung, chúng ta vẫn chưa biết Châu Âu đóng vai trò gì trong tầm nhìn của Đức Lêô.

Ngày nay, Đức Lêô sẽ phải giải quyết những vấn đề cấp bách nào?

Trong số những vấn đề cấp bách nhất ngài phải giải quyết, tôi chỉ nghĩ đến một vấn đề: vai trò của phụ nữ trong Giáo hội công giáo, không chỉ ở các vị trí lãnh đạo mà còn trong sứ mệnh và mục vụ. Ở một số quốc gia, Giáo hội Công giáo đã mất đi nhiều thế hệ phụ nữ, họ quyết định rời bỏ Giáo hội.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Hai ngàn năm lịch sử triều các giáo hoàng được kể trong năm giai thoại

Sức mạnh hướng ngoại, yếu đuối và im lặng của người tín hữu kitô

Giáo hoàng và Trí tuệ nhân tạo: lương tâm đứng trước máy móc

Ủng hộ hay phản đối Đức Phanxicô? Đức Lêô biết cách hành động, ngài đã học ở trường các Giáo phụ

Ủng hộ hay phản đối Đức Phanxicô? Đức Lêô biết cách hành động, ngài đã học ở trường các Giáo phụ

belgicatho.be, , 2025-05-02, Giáo sư Lugaresi, chuyên gia về các Giáo phụ.

Giáo sư Lugaresi là chuyên gia về các Giáo phụ, Giáo sư hiểu tư tưởng Thánh Augustinô một cách sâu sắc hiếm có. Cũng như Đức Lêô, giáo sư thường trích dẫn tư tưởng các Giáo phụ, bắt đầu từ “người ông” Âugustinô. Theo Giáo sư Lugaresi, chính sự quen thuộc này của Đức Lêô với “truyền thống” kitô giáo vĩ đại là chìa khóa chính để hiểu cách ngài thực hiện chức vụ người kế vị Thánh Phêrô, không chỉ theo bước chân Đức Phanxicô mà còn theo toàn bộ lịch sử Giáo hội, qua đó ngài đưa “mọi thứ trở về với chân lý ban đầu”.

Bài viết này chỉ là bản tóm tắt của nguyên bản được đăng trên blog “Vanitas ludus omnis” của Giáo sư Lugaresi.

Bức tranh của danh họa Bernini minh họa bục giảng của Thánh Phêrô với các Giáo phụ Ambrose, Augustine, Athanasius và John Chrysostom ở Đền thờ Thánh Phêrô.

Về việc áp dụng đúng đắn truyền thống. Một lưu ý về “phong cách” của Đức Lêô XIV.  Leonardo Lugaresi

Trong hầu hết các phân tích của nhiều quan sát viên về những bước đầu của triều Đức Lêô, cho đến nay việc dùng các điểm liên tục và gián đoạn vẫn chiếm hàng đầu khi so sánh triều của ngài với triều của Đức Phanxicô.

Nhưng theo tôi, tiêu chuẩn này có vẻ không đủ để hiểu ý nghĩa của những gì đang diễn ra trong Giáo hội, nó không giúp chúng ta hiểu các phong cách trong tư tưởng và quản lý của Đức Lêô, đang lộ lên rõ ràng, đặc biệt ở cấp độ phương pháp.

Trong các can thiệp đầu tiên của ngài, việc ngài liên tục nhắc đến truyền thống của Giáo hội qua các tác giả vĩ đại làm chứng cho truyền thống: từ Ignatius thành Antioch đến Ephrem người Syria, Isaac thành Nineveh, Simeon tân thần học gia, đến Biển Đức thành Nursia, Lêô Cả, và dĩ nhiên là với “người ông Âugustinô”. Tài liệu tham khảo ngắn gọn nhưng không mang tính hình thức, tất cả đều liên quan đến các chủ đề Đức Lêô đề cập. Các tài liệu tham khảo về giáo phụ thường đi kèm với các tài liệu tham khảo về giáo huấn của các giáo hoàng hiện đại, đặc biệt của Đức Lêô XIII và Đức Phanxicô.

Chính xác đây là yếu tố tôi muốn lưu ý. Chúng ta có thể dễ dàng diễn giải điều này như bằng chứng cho sự liên tục đáng kể của hai giáo hoàng, nhưng chỉ mới phân biệt các khác biệt bề ngoài về tính tình; hoặc ngược lại, như một tư thế hoàn toàn mang tính chiến thuật và công cụ nhằm ngăn chặn hoặc xoa dịu những phản ứng thù nghịch tiềm tàng với một giáo hoàng muốn khởi xướng một đoạn tuyệt đáng kể với cái gọi là “Giáo hội Phanxicô”.

Tôi nghĩ cả hai cách tiếp cận này đều sai. Những gì Đức Lêô thể hiện trong từng lời nói, từng hành động trong những tuần đầu tiên là quan niệm đích thực về truyền thống công giáo. Theo tôi, có vẻ như cả những người “truyền thống và tiến bộ” ngày nay đều có cùng một hiểu lầm phổ biến: liên kết truyền thống với quá khứ, dù với mục đích bảo tồn và tái đề xuất quá khứ này hay ngược lại, với mục đích từ chối và vượt qua truyền thống một cách dứt khoát.

Trên thực tế, truyền thống, hiểu theo nghĩa công giáo đích thực, không chỉ định một đối tượng mà là một quá trình, thậm chí là một quan hệ. Nó đề cập đến mối quan hệ trao truyền, hay đúng hơn là mối quan hệ ban tặng, về cơ bản bao gồm các tác nhân còn sống (người tặng và người nhận) và các tương tác qua lại vượt ngoài thời gian.

Theo nghĩa này, truyền thống vẫn còn tồn tại: truyền thống thuộc về hiện tại, không phải quá khứ, vì truyền thống đang diễn ra ngày hôm nay. Chính xác vì truyền thống còn sống nên truyền thống có thẩm quyền và sức mạnh để đòi hỏi sự tuân thủ trong hiện tại. Truyền thống nằm ở trọng tâm đức tin, mang đến khía cạnh thiết yếu, nếu không có truyền thống sẽ không còn kitô giáo. Thật vậy, về bản chất, đức tin kitô giáo luôn là lời đáp trả cho tiếng gọi đến từ Thiên Chúa, Đấng đầu tiên mặc khải chính mình cho chúng ta. Đó là đức tin của các tổ phụ Abraham, Môsê, của các tiên tri, của các tông đồ trên đó đức tin của chúng ta được xây dựng.

Theo nghĩa này, lời của Giáo hội chỉ có thể là lời được chấp nhận, và do đó về bản chất là “truyền thống”. Vì đã được đón nhận, lời này phải được bảo tồn và truyền lại cho người khác một cách trung thực, theo các phương thức mà Thánh Phaolô đã nêu rõ vào buổi bình minh của lịch sử kitô giáo: “Trước hết, tôi đã truyền lại cho anh em điều này, điều mà chính tôi đã nhận được” (1 Cr 15:3). Việc định nghĩa lời của Giáo hội là lời được tiếp nhận có nghĩa khẳng định Giáo hội, kể cả Giáo hoàng không có quyền lực gì với Lời này: Giáo hội phục vụ chứ không sử dụng lời này. Vì thế không thể xử lý Lời theo cách chúng ta thấy phù hợp, làm cho Lời phù hợp hơn với tâm lý và kỳ vọng của xã hội đương đại, theo nghĩa chúng ta hiểu.

Tuy nhiên, có một khía cạnh khác cần được nêu bật để đánh giá tốt hơn bản chất công giáo của một quan niệm như vậy: Lời Chúa, mà mỗi chúng ta đáp lại một cách cá nhân, không đến với chúng ta qua mặc khải trực tiếp và cá nhân (như sự soi sáng nội tâm ‘sola Scriptura’ của quan niệm Tin lành), nhưng được truyền cho chúng ta qua các vị “tử đạo”, các nhân chứng tin cậy, không bị gián đoạn và do đó đến với chúng ta một cách phong phú, được sống với tất cả những đáp trả đã được nhận trong suốt lịch sử kitô giáo. Như Đức Joseph Ratzinger đã viết rất chính xác khi ngài đề cập đến vai trò của các Giáo phụ trong thần học đương đại: “Chỉ vì Lời đã tìm được đáp ứng nên Lời vẫn như vậy và hiệu quả. Bản chất của Lời là thực tại của mối quan hệ, Lời tồn tại không chỉ khi không còn ai công bố,  không còn ai lắng nghe. Đó là lý do vì sao chúng ta không thể đọc và lắng nghe Lời mà không nghĩ đến phản hồi đầu tiên: Lời đã được nhận, được cấu thành nên sự vĩnh cửu của nó.”

Đây là lý do trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Giáo hội không bao giờ có thể phá vỡ truyền thống hoặc bỏ qua truyền thống: “Giáo hội luôn bước theo các Giáo phụ và tất cả những người đi trước trong đức tin, đã truyền đức tin cho chúng ta qua Kinh thánh, qua Sách Khải huyền. Vì thế truyền thống có một thẩm quyền mà không ai trong Giáo hội có thể thoát khỏi: ngay cả Giáo hoàng cũng không thoát khỏi. Vì vậy, Giáo hội duy nhất chúng ta biết là Giáo hội của Chúa Kitô, và danh xưng duy nhất thuộc về Giáo hội là Giáo hội ‘tông truyền’dựa trên nền tảng truyền thống, vốn phải được chấp nhận và hiểu một cách toàn bộ.”

Điều này có nghĩa – dù người theo chủ nghĩa truyền thống có thích hay không – ngay cả Công đồng Vatican II và các triều giáo hoàng sau đó đều thuộc về truyền thống.

Dĩ nhiên lịch sử Giáo hội, xét về khía cạnh con người đầy cả sai lầm và các hành vi sai trái; không khoan nhượng, chúng ta cần phải phân định vấn đề này. Nhân cơ hội này, tôi muốn nhấn mạnh một khía cạnh tôi đặc biệt ấn tượng trong các hành động đầu tiên của Đức Lêô: “Chrêsis” hay “thực hành tốt” mà các Giáo phụ đã đề cập đến.

Ở đây chúng ta ghi công học giả Christian Gnilka (1935–2025) vừa qua đời, học giả đã đưa ra khái niệm này trong cách tiếp cận của các Giáo phụ áp dụng với văn hóa thế tục, văn hóa “của cải thế giới”. “Chrêsis” là thái độ đi ra khỏi tình trạng phân cực hiện nay, giữa bao gồm và loại trừ, vì bảo vệ chúng ta khỏi cả sự chấp nhận mà không phán đoán (sau đó thoái hóa thành phục tùng) và khỏi sự từ chối trên nguyên tắc (sau đó thoái hóa thành chủ nghĩa bè phái), nhưng “Chrêsis” hướng đến việc đi ra ngoài để gặp gỡ người khác trong mọi dịp, “phân định giá trị của mọi thứ, giữ chặt điều gì là tốt”, theo thư Thánh Phaolô gởi tín hữu Têsalônica (1 Th 5:21): quan tâm đến mọi thứ, tham gia với mọi người, nhưng trong mọi thứ phải phân biệt điều gì là tốt, đẹp và chân thực và điều gì không đúng với tiêu chuẩn này. Dựa trên tiêu chuẩn nào? Tiêu chuẩn duy nhất người tín hữu kitô có thể có: điều mà Thánh Phaolô gọi là “noûs”, tư tưởng về Chúa Kitô (1 Cr 2:16).

Đưa mọi thứ về với chân lý ban đầu: đó là “thực hành tốt”, “Chrêsis” mà các Giáo phụ nói đến, và Thánh Phaolô đã nói trong sách Công vụ: “Đấng quý vị không biết mà vẫn tôn thờ, thì tôi xin rao giảng cho quý vị” (Cv 17:23). Đó là cách sứ mệnh thành “muối, đất và ánh sáng” được Chúa Kitô giao cho các môn đệ thực hiện ở thế gian, không chỉ áp dụng trong mối quan hệ với thế gian mà theo một nghĩa nào đó với chính Giáo hội trong nhân bản tính của con người. Thật vậy, mọi thứ thuộc về con người đều phải được thanh tẩy, sửa chữa và đặt lại đúng vị trí: đưa trở lại với chân lý của chương trình hoạch định của Thiên Chúa. Đây chính là nguồn gốc của nguyên tắc “ecclesia semper reformanda, Giáo hội luôn cải cách”, không phải thích nghi vĩnh viễn cho thời điểm đó.

Về cơ bản, sứ mệnh của ngai Thánh Phêrô là bảo vệ chân lý đức tin và sự hiệp nhất của dân Chúa. Một hiểu lầm phổ biến trong những năm gần đây là Giáo hoàng phải “đưa ra các tiến trình thay đổi mà không ai biết phải đi theo hướng nào: chúng ta nghĩ đến tất cả những phản hồi mơ hồ về “tính đồng nghị”. Nhưng ngày nay có một sai lầm cho rằng trách nhiệm này là của Giáo hoàng. Nếu được phép dự đoán, tôi nghĩ điều này sẽ không xảy ra. Ngược lại, chúng ta có thể chờ Đức Lêô có những sửa đổi rõ ràng hơn hoặc chính thức rút lại một số khía cạnh mơ hồ, khó hiểu và trong một vài trường hợp là do có vấn đề với triều giáo hoàng trước hơn là “cách sử dụng tốt” mà tôi có thể nói, “đặt chúng vào đúng vị trí của chúng”.

Kinh nghiệm trong những tuần đầu tiên của triều Đức Lêô cho chúng ta cảm nhận an toàn. Không giống như tiền nhiệm của ngài, chúng ta không phải lo Đức Lêô là giáo hoàng “muốn làm gì thì làm”. Ngài đã làm rõ điều này ngay từ đầu khi ngài trích dẫn Thánh I-Nhã (ngài lặp lại các suy tư của Đức Bênêđíctô XVI đã làm) mô tả “một cam kết ai trong Giáo hội cũng phải làm: xóa mình để Chúa Kitô hiện hữu, làm cho mình trở nên nhỏ bé để Chúa Kitô được biết đến, được tôn vinh, cống hiến hết mình không tính toán để không ai không có cơ hội biết Chúa Kitô và yêu mến Ngài”. Theo nghĩa này, tôi mạnh dạn nghĩ phong cách của Đức Lêô sẽ mang tính Ratzinger và các Giáo phụ.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Giáo hoàng và Trí tuệ nhân tạo: lương tâm đứng trước máy móc

Giáo hoàng và Trí tuệ nhân tạo: lương tâm đứng trước máy móc

laprovence.com, Pierre Grand-Dufay, Nhà văn, diễn giả, chủ tịch Tổ chức Tertium

Trong một thế giới mà trí tuệ nhân tạo tiến bộ nhanh hơn ý thức tập thể, một tiếng nói có thẩm quyền đặc biệt vang lên: tiếng nói của Giáo hoàng Lêô XIV. Khi các quý ông khổng lồ công nghệ định hình quan hệ của chúng ta với cảm xúc và ngôn ngữ, khi Trí tuệ nhân tạo uốn nắn sự thật, ký ức có thể bị sai lệch và đồng cảm thành mô phỏng, thì Giáo hội công giáo là tiếng nói có sức mạnh đạo đức duy nhất, có khả năng vạch ra một ranh giới báo động.

Pierre Grand-Dufay, Nhà văn, diễn giả, chủ tịch Tổ chức Tertium / ẢNH DR

Không phải vì sự tiến bộ mà vì con người

Được bầu ngày 8 tháng 5 năm 2025, Đức Lêô XIV là hiện thân của một tổng hợp hiếm có, của một truyền thống kiên quyết sáng suốt trước những thách thức đương đại. Bên cạnh ngài là thần học gia Dòng Phanxicô Paolo Benanti, giáo sư đạo đức sinh học tại Rôma, một trong các tư tưởng gia có ảnh hưởng nhất về trí tuệ nhân tạo.

Là cố vấn cho Vatican và chính phủ Ý, ông kết hợp với Giáo hoàng Lêô: một kết hợp chưa từng có giữa một Giáo hoàng và một nhà khoa học, cùng làm việc để bảo vệ nhân loại trước sự quá mức của công nghệ phi nhân tính.

Vì sao Giáo hội công giáo lại có thẩm quyền can thiệp vào các cuộc tranh luận về AI? Vì không có tổ chức toàn cầu nào có chính danh về mặt tinh thần, độc lập về kinh tế và gắn kết nhân học để đặt ra câu hỏi thiết yếu: giá trị của một trí thông minh phớt lờ sự yếu đuối, lòng trắc ẩn hay sự tha thứ là giá trị nào? Vì cho đến nay vẫn chưa có cơ quan toàn cầu nào thực sự có khả năng đảm bảo tính nhân đạo của trí tuệ nhân tạo. Hoa Kỳ và Châu Á có cách tiếp cận vì lợi ích công nghiệp hoặc chính trị của họ.

Một xét mình mới về phẩm giá con người

Về phần mình, Châu Âu đã khởi xướng với việc điều chỉnh Đạo luật AI được thông qua năm 2024, áp đặt tính minh bạch, bảo mật và các nghĩa vụ được phân loại theo mức độ rủi ro, một tiến bộ đáng chú ý, nhưng vẫn là một khuôn khổ hoàn toàn mang tính kỹ thuật, vẫn còn câu hỏi chưa được giải quyết về việc: con người dùng máy móc để nói, để thao túng, để tạo kiến thức nhưng không có lương tâm.

Vatican chờ đến khi có Giáo hoàng Lêô mới giải quyết vấn đề này? Ngay từ năm 2020, Tòa thánh đã phát động Lời kêu gọi Rôma về Đạo đức AI ký kết với IBM Microsoft, dựa trên sáu nguyên tắc: minh bạch, bao gồm, trách nhiệm giải trình, công bằng, đáng tin cậy và bảo mật.

Kể từ đó, Giáo hoàng Học viện về Sự sống vẫn tiếp tục công việc kêu gọi các nhà quản trị AI trên toàn cầu hành động. Giáo hội, trong tính lịch sử đặc thù của mình, không chịu sự chi phối của dư luận cũng như thị trường, vì thế Giáo hội có thể là tác nhân cuối cùng có khả năng đặt ra giới hạn và có tác động với luật pháp quốc tế, qua đó Giáo hội đóng vai trò trung gian giữa các dân tộc và các cường quốc kinh tế.

 Lêô I và Attila

Nếu Đức Phanxicô đã nhấn mạnh đến tính cấp thiết của khuôn khổ đạo đức cho công nghệ, đặc biệt tại G7 năm 2024 hoặc trong bức thư Antiqua et Nova, thì Đức Lêô XIV có thể là người hoàn toàn đảm nhận quy mô nhân học của cú sốc sắp tới. Một tương đồng lịch sử: cũng như Đức Lêô XIII năm 1891 đã đặt nền móng cho học thuyết xã hội trong Thông điệp Rerum Novarum để đối phó với những biến động của thời đại công nghiệp, Đức Lêô XIV cũng đã thấy ở AI một thử thách mới về phẩm giá con người, thậm chí còn thâm độc hơn, bởi vì lần này, không còn con người biến đổi vật chất nữa: nhưng máy móc bắt đầu định hình tư duy.

Nhưng làm sao chúng ta có thể lên tiếng trong một thế giới giao phó quyền phán quyết cho các thuật toán? Có lẽ chúng ta nên nhớ đây không phải là lần đầu tiên một Giáo hoàng đứng ở vị trí không ai dám tin vào sức mạnh của con người bình thường. Năm 452, Đức Lêô I, không có quân đội hay tường thành, đã chặn đứng Attila tại cổng Rôma. Năm 590, Đức Gregory I, trong tình trạng hỗn loạn và bệnh dịch, đã biến chế độ giáo hoàng thành trụ cột của một thế giới đang sụp đổ. Năm 1979, chỉ bằng một lời nói, Đức Gioan-Phaolô II đã phá vỡ được đế chế Liên Xô vốn đã bị cô lập.

Vậy, khi đối diện với đế chế vô hình của các thuật toán, vì sao tiếng nói đơn độc, chậm rãi, đạo đức lại không thể tác động đến quỹ đạo của AI, tác động đến các quy định về đạo đức, góp phần bảo vệ con người khỏi sự lỗi thời của chính họ?

Marta An Nguyễn dịch

Hai ngàn năm lịch sử triều các giáo hoàng được kể trong năm giai thoại

Massimo Faggioli: “Việc bầu mật nghị năm 2025 cũng là một cách để đáp ứng với cuộc khủng hoảng ở Mỹ”

Sức mạnh hướng ngoại, yếu đuối và im lặng của người tín hữu kitô

Sức mạnh hướng ngoại, yếu đuối và im lặng của người tín hữu kitô

Sức mạnh hướng ngoại, yếu đuối và im lặng của người tín hữu kitô

osservatoreromano.va, Andrea Monda, 2025-05-31

Niềm vui của Thiên Chúa là động lực thúc đẩy hành động của người tín hữu kitô, của sự hoán cải truyền giáo của họ.

Trong bài giảng sâu đậm và phong phú qua hình ảnh và ý tưởng, Đức Lêô nhấn mạnh đến “niềm vui thầm lặng”: Thiên Chúa không mệt mỏi khi quy tụ con cái Ngài trong sự hiệp nhất năng động dù mọi người khác biệt nhau: “Đây không phải chuyện tùy hứng, nhưng là làn gió nhẹ đã mang lại hy vọng cho tiên tri Elisa khi ngài nản lòng (1 V: 19:12). Niềm vui của Thiên Chúa không ồn ào, niềm vui này thay đổi lịch sử và đưa chúng ta đến gần nhau hơn.” Đức Lêô nhắc lại hình ảnh biến hình trên núi Horeb, hình ảnh ngài phát biểu trước các hồng y khi ngài được bầu: “Chúng ta là thừa tác viên trung thành trong kế hoạch cứu độ của Chúa, chúng ta lắng nghe Ngài không trong tiếng sấm vang rền, trong động đất nhưng trong tiếng thì thầm như làn gió nhẹ, trong tiếng nói lặng lẽ của im lặng. Đây là cuộc hẹn quan trọng không thể bỏ lỡ, chúng ta giáo dục và đồng hành với Dân thánh đã được giao cho chúng ta.” Ngài cũng nhắc lại điều này ngày 12 tháng 5 trong buổi tiếp kiến đầu tiên dành cho các nhà báo: “Chúng ta không cần giao tiếp mạnh mẽ, dữ dội, nhưng một giao tiếp có khả năng lắng nghe, nghe tiếng nói của những người yếu đuối không có tiếng nói. Chúng ta cùng nhau giải trừ vũ khí bằng lời nói, chúng ta góp phần giải trừ vũ khí trên Trái Đất. Một phương thức giao tiếp cởi mở và giải trừ vũ khí cho chúng ta một cái nhìn khác về thế giới và hành động phù hợp với phẩm giá con người.”

Đức Lêô chọn con đường im lặng, kín đáo, con đường nghịch lý của yếu đuối. Với Giáo hội, con đường này không chỉ hiện thực hóa trong hành động truyền thông mà còn trong thực tế của đời sống, vì Giáo hội tồn tại khi cùng truyền thông hành động. Đó là liên kết chặt chẽ với trái đất, mà theo ý Chúa, Giáo hội là nhịp cầu giữa đất và trời. Đức Lêô đã nói trong lời chào đầu tiên khi ngài được bầu: “Tay trong tay, chúng ta hiệp nhất với Chúa và cùng nhau tiến về phía trước! Chúng ta là môn đệ của Chúa Kitô. Ngài đi trước chúng ta. Thế giới cần ánh sáng. Nhân loại cần Thiên Chúa như cây cầu, cần được Thiên Chúa và tình yêu của Ngài chạm đến.” Khi nói chuyện với các linh mục, Đức Lêô trở lại chủ đề liên kết với trái đất: “Là người của Chúa, là dân của Chúa, là tôi tớ Chúa ràng buộc chúng ta với trái đất: không phải với một thế giới lý tưởng, nhưng với thế giới thực. Giống như Chúa Giêsu, những người Chúa Cha đặt trên con đường của các con là những con người bằng xương bằng thịt.” Đức Lêô nhấn mạnh: “Chúng con không nên xem việc được chịu chức là một đặc ân, nhưng là một ơn cho người khác theo cách ‘hướng ngoại’ để tránh nguy cơ Đức Phanxicô đã nhiều lần cảnh báo về nguy cơ tự tham chiếu dập tắt ngọn lửa của sứ mệnh. Giáo hội là hướng ngoại, giống như cuộc đời, cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu: tất cả là hướng ngoại.”

Các linh mục yếu đuối nhưng mạnh mẽ trong việc “hướng ngoại”, trong cởi mở, chào đón, là món quà cho nhau. Đó là sức mạnh, là quyền năng của người tín hữu mà Chúa Giêsu đã ban cho họ quyền năng để trở thành con cái Chúa. Xin anh em đừng tìm bất kỳ quyền năng nào khác! Đây là nghịch lý của Giáo hội và của các thừa tác viên Giáo hội, những người không bao giờ là chủ nhân, họ luôn là người bảo vệ sứ mệnh của Chúa Giêsu: “Đấng đã Phục sinh, Đấng đang sống và đi trước chúng ta. Không ai trong chúng ta được gọi đến để thay thế anh ấy. Ngày Lễ Thăng Thiên dạy chúng ta về sự hiện diện vô hình của Chúa, Đấng tin tưởng chúng ta, Đấng dành chỗ cho chúng ta.” Thiên Chúa không chiếm giữ không gian, Ngài rút lui, Ngài tạo ra thế giới và các thụ tạo. Người tín hữu kitô được mời gọi để thực hành đức khiêm nhường, nhường chỗ cho người khác, cho mọi thụ tạo để Đấng Phục sinh gần gũi họ, đến thăm họ và làm cho họ kinh ngạc. Dân của Chúa đông hơn chúng ta thấy. Chúng ta không nên ấn định ranh giới cho họ.

Đó là quyền lực yếu của Giáo hội, không lý luận theo logic quyền lực thế gian; Đức Lêô trích dẫn thư Thánh Phaolô: “Để chúng ta không nhìn người khác theo cách của con người nữa. Trước mắt chúng ta mọi thứ như tan vỡ và mất mát thì giờ đây lại xuất hiện như những dấu hiệu hòa giải” (2 Cr 5:16).

Sức mạnh trống rỗng, trần trụi, bị thương tích này là sức mạnh vĩ đại nhất trong mọi sức mạnh vì nó bắt nguồn từ việc thuộc về Thiên Chúa: “Anh chị em thân mến, thực ra tình yêu Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta. Đó là một sở hữu giải phóng, giúp chúng ta không chiếm hữu bất kỳ ai. Để giải phóng, không phải để sở hữu. Chúng ta thuộc về Chúa: không có tài sản nào lớn hơn để quý trọng và chia sẻ. Đó là của cải duy nhất khi được chia sẻ sẽ tăng lên.” Và đúng như vậy: chúng ta thực sự làm chủ một cái gì đó khi chúng ta có đủ sức mạnh để mất nó và dùng nó để chia sẻ, để phục vụ người khác, để nhân nó lên. Một sức mạnh không ồn ào nhưng không thất bại.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Massimo Faggioli: “Việc bầu mật nghị năm 2025 cũng là một cách để đáp ứng với cuộc khủng hoảng ở Mỹ”

Giáo hoàng và Trí tuệ nhân tạo: lương tâm đứng trước máy móc

Hai ngàn năm lịch sử triều các giáo hoàng được kể trong năm giai thoại

 

Chi phí ở Nhà Thánh Marta quá cao, Đức Lêô sẽ về Dinh Tông tòa ở  

Chi phí ở Nhà Thánh Marta quá cao, Đức Lêô sẽ về Dinh Tông tòa ở

iltempo.it, Francesco Capozza trên Il Tempo, 2025-05-25

Chi phí ở Nhà Thánh Marta quá cao, 200.000 âu kim mỗi tháng, nên Đức Lêô sẽ về Dinh Tông tòa ở. Phần lớn các bước đầu tiên của ngài đã đáp ứng mong chờ của các hồng y. Chắc chắn các hồng y đi tìm một mục tử nhân lành, có thể cân bằng hình thức quản trị đã mang tính độc đoán, làm giáo dân và giáo sĩ không ổn định qua các việc làm bị cho là quá táo bạo của Đức Phanxicô.

Nhân từ nhưng kiên quyết, Đức Lêô mang lại phẩm giá vốn có của Giáo hoàng qua các hành vi nhỏ nhưng có ý nghĩa: ngài chấp nhận để giáo dân hôn tay như một hình thức tôn kính, nhưng không may cho ai xin chụp selfie, ngài không cho chụp, Đức Bergoglio thường cho chụp. Hình thức bên ngoài của ngài trở lại đúng chuẩn của người kế nhiệm Thánh Phêrô: trang phục trang trọng và phù hợp: áo rochet áo mozetta đỏ bên ngoài áo dòng và mang nhẫn ngư ông ngài nhận chúa nhật tuần trước. Hơn nữa, kể từ buổi tối được bầu, ngài không ở Nhà Thánh Marta, ngài tạm ở căn hộ của Hồng y ở Cung điện Thánh bộ.

Ngài bỏ niêm căn hộ của giáo hoàng tại tầng ba Dinh Tông tòa để xem phòng các tiền nhiệm của ngài đã sống từ năm 1870 đến năm 2013, ngài dự định dọn về đây khi sửa xong.

Trong 12 năm ở Nhà Thánh Marta, Đức Phanxicô đã tạo thêm các vấn đề về trật tự công cộng, an ninh cũng như kinh tế. Căn phòng “50 mét vuông” ngài ở Nhà Thánh Marta dành cho các hồng y trong thời kỳ mật nghị dần dần thành nhiều phòng cho đến khi chiếm toàn bộ tầng hai. Một nhà bếp, một phòng khách, một nhà nguyện riêng, một số phòng dành cho các cộng sự thân cận đã được làm trong những năm gần đây, nên nơi ở của ngài rộng hơn nhiều so với căn hộ ở Dinh Tông tòa. Tất cả đòi hỏi nhiều công việc, từ bảo trì đến tăng gấp đôi bảo vệ an ninh, thêm hiến binh, thêm cận vệ Thụy Sĩ so với trước đây. Chi phí hoạt động không ít, tăng theo từng năm, cho đến con số khổng lồ gần 200.000 âu kim mỗi tháng trong giai đoạn cuối triều của ngài. Vì thế Đức Lêô có quyết định hợp lý: sống nơi các giáo hoàng đã sống và Nhà Thánh Marta vẫn là nhà dành cho các hồng y.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Phục sinh: siêu tuyến truyện tối hậu

Phục sinh: siêu tuyến truyện tối hậu

Ronald Rolheiser, 2025-04-14

Vài năm trước, khi đang trình bày ở một hội nghị tại trường của chúng tôi, linh mục trẻ Pierre-Olivier Tremblay đến từ Québec đã chia sẻ một câu chuyện.

Tôi đã có vài năm làm việc với người trẻ và tôi để ý thấy một điều nơi nhiều người trẻ. Đó là họ trẻ trung và tràn đầy năng lượng, ước mơ, hy vọng và sinh lực, làm cho chúng ta thấy ở gần họ thật tuyệt. Tuy nhiều sinh lực, nhưng ít người tỏa ra họ có nhiều hy vọng. Họ thiếu hy vọng vì họ thiếu một siêu tuyến truyện. Họ chỉ có những câu chuyện riêng, và khi mọi chuyện tốt đẹp thì sinh lực và tinh thần của họ được nâng cao, nhưng khi họ gặp chuyện bất ổn (chia tay người yêu, người thân qua đời, mắc bệnh nặng) họ chẳng có gì để bám víu vì họ không nhận thức đời mình trong bối cảnh của một câu chuyện lớn hơn, một siêu tuyến truyện. Họ chỉ nhận thức bản thân trong những câu chuyện cá nhân riêng của họ – nó không bao giờ là căn cứ cho hy vọng.

Một siêu tuyến truyện, một câu chuyện lớn hơn mà chúng ta cần hiểu câu chuyện của mình ở trong đó, là gì? Và làm thế nào nó là nền tảng cho hy vọng?

Tôi có một ví dụ: Linh mục Pierre Teilhard de Chardin vừa là nhà khoa học tầm mức thế giới, vừa là nhà thần nghiệm kitô giáo. Là nhà khoa học và là người của đức tin, ngài dự định trình bày rõ ràng một tổng hợp thần học sẽ đưa dự định thần thiêng trong sự tiến hóa của vũ trụ và dự định thần thiêng trong việc Thiên Chúa nhập thể trong Chúa Giêsu Kitô vào trong một thị kiến hòa hợp.

Và ngài đã trình bày rõ ràng một thị kiến, trong đó một tín hữu kitô có thể bao hàm hòa hợp các thuyết khoa học về nguồn gốc của vũ trụ, sự tiến hóa trong 15 triệu năm, mục đích và vai trò của Chúa Kitô trong lịch sử, cách lịch sử vũ trụ và lịch sử đức tin cuối cùng sẽ lên đến cực điểm (Thư Thánh Phaolô gởi tín hữu Êphêsô) lúc thời gian đến hồi viên mãn, khi Thiên Chúa, qua Chúa Kitô đưa tất cả mọi sự nên một với Ngài. Vào ngày đó, sự thiện sẽ thắng sự dữ, tình yêu sẽ thắng chia rẽ, hòa bình sẽ thắng hỗn loạn, vị tha sẽ thắng ích kỷ, trìu mến sẽ thắng bạo tàn, và tha thứ sẽ thắng báo thù.

Khi Linh mục trình bày thị kiến này ở một hội thảo, một đồng nghiệp đã thách thức ngài: “Cha tin rằng sự thiện cuối cùng sẽ thắng sự dữ, vậy nếu chúng ta cho trái đất nổ tung bằng bom nguyên tử, thì thị kiến của cha sẽ như thế nào?” Linh mục Teilhard trả lời: “Nếu chúng ta cho trái đất nổ tung bằng bom nguyên tử, thì sẽ là bước lùi hai triệu năm, nhưng sự thiện sẽ thắng sự dữ, không phải vì tôi ước mong như vậy, nhưng vì Thiên Chúa đã hứa như vậy, và trong sự kiện phục sinh, Thiên Chúa đã cho thấy Ngài có quyền năng để thực hiện lời hứa đó.”

Linh mục nói đúng. Ngoại trừ sự phục sinh, chúng ta chẳng có một bảo đảm nào cho bất cứ chuyện gì. Dối trá, bất công, bạo lực có vẻ cuối cùng sẽ chiến thắng. Hỗn loạn, bạo tàn và cái chết có lẽ sẽ nắm quyền định đoạt. Vào ngày Chúa Giêsu chết, mọi chuyện rõ ràng có vẻ như thế.

Tuy nhiên, sự phục sinh của Chúa Giêsu là lời định đoạt của Thiên Chúa về chuyện này. Trong sự phục sinh, Thiên Chúa bảo đảm với chúng ta dù có thế nào đi chăng nữa, cho dù sự dữ có vẻ chiếm ưu thế đến đâu đi nữa, cho dù đôi khi sự ngây thơ, tốt lành và trìu mến có vẻ bất lực thế nào đi nữa, cho dù thế gian đóng đinh Chúa Kitô bao nhiêu lần đi nữa, cho dù chúng ta cho nổ tung thế giới bằng bom nguyên tử bao nhiêu lần đi nữa, cho dù mọi chuyện có vô vọng đến thế nào đi nữa, thì cái kết câu chuyện của chúng ta đã được viết sẵn và đó là cái kết có hậu, một cái kết ngất ngây.

Sự phục sinh của Chúa Giêsu bảo đảm với chúng ta (như lời của  Julian thành Norwich): “Đến cuối cùng, tất cả sẽ tốt đẹp, và tất cả sẽ tốt đẹp, và mọi hiện sinh sẽ tốt đẹp”.

Sự phục sinh, là khi Thiên Chúa để Chúa Giêsu chịu đóng đinh trỗi dậy theo một cách có thật, hoàn vũ và hữu hình, chứ không chỉ là một đảo chiều trong ý thức của các môn đệ Chúa Giêsu, đó chính là nền tảng không những chỉ mang lại hy vọng cho chúng ta mà còn cho đức tin của chúng ta. Như thánh Phaolô nói, nếu không có phục sinh thì chúng ta là những kẻ ngu muội nhất. Nhưng nếu Chúa Giêsu đã phục sinh, thì mọi điều chúng ta tin và mọi điều chúng ta hy vọng, cùng chiến thắng vĩnh viễn của sự thiện, tình yêu, hiệp nhất, trìu mến và niềm vui trên tất cả những gì đã đàn áp, đều được bảo đảm. Sự phục sinh của Chúa Giêsu, chỉ một điều này thôi, chính là nền tảng cho mọi hy vọng, cả cho chúng ta và cho vũ trụ.

Sự phục sinh là siêu tuyến truyện tối hậu. Đây là câu chuyện lớn hơn, chúng ta cần đặt câu chuyện cá nhân của mình vào trong đó. Khi Pierre-Olivier Tremblay (bây giờ là giám mục ở Québec) nhận xét nơi những người trẻ cùng làm việc với ngài, họ có một sinh lực rất mạnh, nhưng lại ít hy vọng, vì họ thiếu một siêu tuyến truyện để đặt câu chuyện riêng của họ vào, siêu tuyến truyện linh mục nói đến là tuyến truyện về Chúa Giêsu phục sinh từ cõi chết.

Dù già hay trẻ, những câu chuyện cá nhân riêng của chúng ta đều không đủ. Chúng ta cần hiểu mình (và hiểu vũ trụ) bên trong siêu tuyến truyện phục sinh.

J.B. Thái Hòa dịch

Một lời cảnh tỉnh cần thiết

Nhìn thấy mùa xuân và lễ Phục Sinh

 

Nhìn thấy mùa xuân và lễ Phục Sinh

Nhìn thấy mùa xuân và lễ Phục Sinh

Ronald Rolheiser, 2025-04-21

Ở tuổi hai mấy, tôi đã học một năm ở Đại học San Francisco. Lúc đó, tôi vừa chịu chức và đang học thạc sĩ thần học. Chúa nhật Phục sinh năm đó là một ngày xuân nắng rực rỡ cực đẹp, nhưng tâm trạng tôi lại không vui. Tôi đang ở rất xa quê nhà, xa gia đình và cộng đồng của tôi, tôi nhớ nhà và cô độc. Hầu hết các bạn thân của tôi, các sinh viên thạc sĩ thần học đều đã về nhà mừng lễ Phục sinh với gia đình. Tôi nhớ nhà và cô đơn, hơn thế nữa, tôi còn có bị nhức nhối và ám ảnh bẩm tại của tuổi trẻ, cùng với những khắc khoải tuổi trẻ. Tâm trạng của tôi chẳng ăn nhập gì với mùa xuân và lễ Phục sinh.

Chiều hôm đó, tôi đi dạo trong bầu khí mùa xuân, dưới ánh mặt trời, và với sự thật là lễ Phục sinh không làm tôi vui lên mấy, lại còn làm xúc tác cho một cảm thức cô đơn sâu đậm hơn. Nhưng đi dạo cũng có nhiều kiểu. Như nhà văn Leonard Cohen nói, cái gì cũng có những kẽ hở, và qua đó ánh sáng len vào. Tôi cần một chút thức tỉnh và cuối cùng tôi đã có được. Ở cổng vào công viên, tôi thấy một người mù ăn xin, ông để tấm bảng: Đang mùa xuân mà tôi bị mù! Sự mỉa mai này cũng đúng với tôi. Tôi cũng đang mù như ông! Vì trong mắt tôi, cảnh vật hôm nay cũng chẳng khác gì ngày Thứ sáu Tuần thánh, trời như đang mưa và lạnh lẽo. Tôi đã phí phạm ngày xuân đầy nắng và ngày lễ Phục sinh.

Sau này khi hồi tưởng tôi mới nhận ra đó là khoảnh khắc ân sủng, nhưng lúc đó, nó không thay đổi được tâm trạng của tôi. Tôi tiếp tục đi dạo trong khắc khoải, cuối cùng tôi về nhà ăn tối. Trong năm học đó, tôi là tuyên úy sống tại chỗ trong một tu viện có nhà lưu trú cho thanh niên, và luật của nhà là tuyên úy ăn một mình trong phòng ăn riêng. Cho nên, dù không đúng với toa bác sĩ khuyên cho một thanh niên khắc khoải và nhớ nhà, tôi đã ăn bữa tối chúa nhật Phục sinh một mình.

Nhưng sự phục sinh đã đến với tôi ngày chúa nhật Phục sinh đó, dù có hơi muộn. Tôi và hai sinh viên cao học khác hẹn gặp nhau ở biển ban tối, đốt lửa và ăn mừng đêm Phục sinh theo kiểu của chúng tôi. Thế là khi trời chập tối, tôi đi xe buýt đến biển và gặp các bạn (một nữ tu và một linh mục). Chúng tôi đốt lửa trại (thời đó vẫn còn hợp pháp), ngồi đó trong vài tiếng, và cuối cùng thú nhận với nhau mình đã có ngày lễ Phục sinh thảm não. Ngọn lửa đã đem lại cho chúng tôi phúc lành mà ngọn lửa đêm Vọng Phục sinh hôm trước chưa làm được. Tôi đã phá vỡ lời nguyền khắc khoải và tự quy vốn đã bịt mắt tôi khỏi tất cả những gì nằm ngoài bản thân. Khi chúng tôi ngồi nhìn ngọn lửa và nói đủ chuyện trên trời dưới đất, tâm trạng của tôi bắt đầu thay đổi, khắc khoải lắng xuống, nặng nề được cất đi. Tôi bắt đầu cảm nhận mùa xuân và lễ Phục sinh.

Trong trình thuật phục sinh, thánh Gioan kể câu chuyện của người môn đệ yêu dấu, vào buổi sáng ngày Phục sinh đã chạy đến mộ Chúa Giêsu và hé nhìn vào đó. Ngài thấy mộ trống không, áo quần được xếp gọn gàng. Nhưng vì ngài là một môn đệ nhìn bằng đôi mắt yêu thương, nên ngài hiểu ý nghĩa chuyện này, ngài nắm bắt được thực tế của sự phục sinh và biết rằng Chúa Giêsu đã sống lại. Ngài đã thấy mùa xuân. Ngài đã hiểu được bằng chính mắt mình.

Thánh Hugo St. Victor có câu nói trứ danh: Tình yêu là đôi mắt. Khi nhìn bằng tình yêu, chúng ta không chỉ nhìn thẳng và rõ ràng, mà còn thấy được chiều sâu và ý nghĩa. Nói ngược lại cũng đúng. Sau khi Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, có người thấy được Ngài và có người không thấy được Ngài, cũng đều có lý do cả. Tình yêu là đôi mắt. Những ai tìm kiếm sự sống qua đôi mắt tình yêu, như bà Maria Mácđala tìm Chúa Giêsu trong vườn và sáng ngày Phục sinh, họ thấy mùa xuân và sự phục sinh. Bất kỳ dạng đôi mắt nào khác đều mù lòa trước mùa xuân.

Khi tôi đi dạo chiều lễ Phục sinh năm đó ở San Francisco, tôi không phải là bà Maria Mácđala đi tìm Chúa Giêsu trong vườn, cũng không phải người môn đệ yêu dấu được thôi thúc bởi tình yêu để chạy đến nhìn vào mộ Chúa Giêsu. Trong sự khắc khoải tuổi trẻ của tôi, hầu như tôi chỉ đi tìm tôi, hầu như tôi chỉ gặp cái tôi âu lo của tôi. Và đó là mù lòa. Khi bị kẹt trong bản thân, chúng ta mù lòa, chúng ta không thấy mùa xuân lẫn sự phục sinh. Tôi đã học được bài học đó, không phải trong nhà thờ hay lớp học, mà trong một ngày chúa nhật Phục sinh khắc khoải và cô đơn ở San Francisco, khi tôi gặp người ăn xin mù, rồi về nhà ăn bữa tối lễ Phục sinh một mình.

J.B. Thái Hòa dịch

Một lời cảnh tỉnh cần thiết

Phục sinh: siêu tuyến truyện tối hậu

Bài mới nhất