Những bức thư từ Kyiv: thư thứ 36 của linh mục Đa Minh Jaroslaw Krawiec từ trung tâm cuộc chiến Ukraine

86

Những bức thư từ Kyiv: thư thứ 36 của linh mục Đa Minh Jaroslaw Krawiec từ trung tâm cuộc chiến Ukraine

Thành phố Kherson. Quân đội Nga đang tăng cường bắn phá thành phố và các ngôi làng xung quanh | © Jaroslaw Krawiec

cath.ch, Bernard Halle, 2023-04-05

Linh mục Jaroslav Krawiec, tu sĩ dòng Đa Minh người Ba Lan. Linh mục ở Tu viện Mẹ Thiên Chúa, trung tâm thủ đô Kyiv. Kể từ ngày 26 tháng 2 năm 2022, linh mục gởi cho báo Công giáo Thụy Sĩ “các ghi chú từ Ukraine”.

Ngày 3 tháng 4, quân đội Ukraine tuyên bố vẫn giữ được Bakhmout, trong khi Wagner tuyên bố đã chiếm được tòa thị chính của thành phố. Kyiv thông báo chuyến đi của tổng thống Volodymyr Zelensky đến Ba Lan ngày thứ tư. Vladimir Putin đã truy tặng huy chương cho blogger quân nhân Nga bị giết trong một quán cà phê ở Saint Petersburg ngày chúa nhật 2 tháng 4.

Anh chị em thân mến,

Một bức vẽ Đức Mẹ Orléans của Kiev được thấy trên tường của một nơi trú ẩn phóng xạ trên đường phố ở Kherson. Những nơi trú ẩn xi măng nhỏ an toàn này, nằm ở các bến xe buýt, được gọi là “nơi ẩn náu” ở Ukraine. Bản gốc của bức tượng nằm trong bức tranh khảm trên mái vòm của Sophia Sobor, một trong những nhà thờ lâu đời nhất và quan trọng nhất ở Kyiv. Đức Maria, giơ hai tay lên trời trong một cử chỉ của lời cầu nguyện liên lỉ, hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa và vâng theo ý Ngài,  đã trở thành “nơi ẩn náu” cho chúng ta ngày nay.

Hình ảnh này nhắc người dân thủ đô, cũng như người dân thành phố Kherson bị bắn phá không ngừng, về lời cầu nguyện Akathist, rất phổ biến trong truyền thống phương Đông: “Lạy Nữ vương dũng cảm của Thiên binh, Mẹ có sức mạnh bất khả chiến bại, xin Mẹ cứu chúng con khỏi mọi sự dữ!”

Tôi bắt đầu viết thư này trên chuyến tàu từ Warsaw đến Kyiv.

Đường sắt đóng một vai trò rất quan trọng trong thời chiến, hai tuyến đường chính nối Kyiv với Ba Lan như hai động mạch phân phối máu từ tim đến toàn cơ thể. Từ một năm nay, với chúng tôi, các tuyến đường này là huyết mạch của tự do, an ninh và đoàn kết quốc tế. Ngày nay, tất cả mọi người đều dùng các chuyến tàu này, kể cả những nhà lãnh đạo các siêu cường thế giới.

Mỗi toa tàu là một thế giới thu nhỏ. Hành khách chủ yếu là phụ nữ, chúng ta có thể nghe các cuộc trò chuyện bằng tiếng Ukraine, tiếng Ba Lan, tiếng Nga, tiếng Anh và đôi khi bằng các ngôn ngữ khác mà tôi không biết. Với một số du khách, các thành phố như Przemyśl, Chełm hay Warsaw chỉ là điểm dừng chân khi họ sẽ đến Tây Âu, Mỹ hay Canada. Cách đây vài ngày, trên sân ga xe lửa phía Đông Warsaw, tôi thấy mọi người ôm nhau, giọng nghèn nghẹn xúc động, họ nói: “Cuối cùng rồi cũng được đoàn tụ!” Tôi đã thấy những cảnh tương tự như vậy sáng nay ở Kyiv. Chỉ khác là ở đây, phần lớn những người chờ nhận hoa là quân nhân.

“Điều gì cho chúng ta biết rằng chúng ta là người lớn? Đó không phải là tuổi tác của chúng ta, nhưng chính là trách nhiệm chúng ta đảm nhận cho chính mình và cho những người khác”. Tôi chăm chú lắng nghe bài giảng khôn ngoan trong thánh lễ Thêm Sức. Dù giám mục Romuald không nói về cuộc chiến, nhưng những lời của ngài chính xác nói lên động lực cơ bản của nhiều quân nhân Ukraine. Chính trách nhiệm với người thân yêu, với đất nước và tương lai của chính họ đã thúc đẩy nhiều người trong số họ tình nguyện lên đường phục vụ.

Khi mình phải bảo vệ chính ngôi nhà của mình, mình phải trưởng thành nhanh và có những quyết định chín chắn hơn. Trong một cuộc thảo luận tại trung tâm Câu lạc bộ PEN ở Kyiv, ông Oleksandr Mykhed đã hỏi người đồng nghiệp là nhà văn và là người lính Illarion Pavliuk: “Tại sao anh ra trận?”, người quân nhân đơn giản trả lời: “Bởi vì đó là cách duy nhất để chúng tôi bảo vệ con cái chúng tôi”. Người con trai tuổi teen của anh ngồi trong phòng cách tôi không xa. Tôi chắc chắn người con tự hào khi nghe cha mình nói như thế. Tôi cũng không ngạc nhiên khi nói chuyện với những người lính, họ thậm chí không thể tưởng tượng được cuộc sống trong thực tế toàn trị của nước Nga đương đại. Đó là lý do vì sao họ tiếp tục chiến đấu, đơn giản vì họ tin Ukraine không thể thua trong cuộc chiến này.

Lần này tôi không thể tham gia với linh mục Misha, sơ Âugutinô  và các tình nguyện viên của Nhà Thánh Máctinô trong sứ vụ nhân đạo của họ ở vùng Kherson. Vì thế tôi nghe các câu chuyện của họ qua người quen ở nhiều nơi khác nhau. Hiện tại đây là khu vực rất nguy hiểm. Người Nga bắn phá thị trấn và các làng xung quanh với cường độ ngày càng tăng. Đó là lý do tại sao đường phố vắng vào buổi chiều. Marzena, một tình nguyện viên của nhóm Warsaw Charytatywni-Freta, người đã sống ở Fastiv hơn một năm, nhắc lại cho chúng tôi một cuộc gặp gỡ đáng kinh ngạc ở một trong những ngôi làng nằm bên bờ sông Dnepr. “Chúng tôi được một gia đình người Armenia mời ăn tối. Không có cửa hàng trong khu vực, vì vậy mọi người phải ăn bất cứ thứ gì đất và nước có thể cung cấp, một kiểu trở về với thiên nhiên.”

Arzena và Stanislaw, tình nguyện viên người Ba Lan từ nhà Thánh Máctinô Porres với Ursula | © Jaroslaw Krawiec

Tại một thời điểm, một phụ nữ lớn tuổi chống nạng đi khập khiễng đến gần chúng tôi. Có người nói với bà có những người Ba Lan đến thăm làng. Bà Ursula là người Ba Lan ở Drohobych, cách đây nhiều năm bà đến thành phố xa xôi này với người chồng Nga. Bà bật khóc khi nghe lời “xin chào” bằng tiếng mẹ đẻ. Trong hơn bốn mươi năm qua, bà không có dịp nói tiếng Ba Lan. Bà đã xưng tội tuần lễ Phục sinh năm nay, vì tuổi tác và hoàn cảnh khó khăn của chiến tranh, bà nói, đây có lẽ là lần xưng tội cuối cùng của bà. Chúa biết cách tìm con chiên lạc của Ngài.

Mùa Chay là mùa mục vụ rất bận rộn với nhiều anh em chúng tôi. Các bạn tôi đi giảng ở các cộng đoàn, ở các tuần tĩnh tâm trong giáo xứ, ở các dòng tu ở Ukraine cũng như ở Ba Lan. Mùa Chay năm nay khác với Mùa Chay năm ngoái. Năm ngoái giao tranh còn ác liệt ở Kyiv, nơi các tu sĩ Dòng Đa Minh chúng tôi sống – Lviv, Chortkiv, Khmelnitsky, Kharkiv – liên tục bị ném bom. Các nhà nguyện trong nhà chúng tôi là nơi chúng tôi cử hành thánh lễ và giáo dân hầu hết là những người đến xin trú ẩn. Năm nay Tuần Thánh bắt đầu khác, theo một cách bình thường hơn, mặc dù chúng tôi vẫn còn lâu mới được bình thường. Một cách nào đó, chúng tôi đã quen với chuyện này và chúng tôi học cách để sự tàn ác của chiến tranh không hạ gục chúng tôi.

Trong bức thư trước, tôi đã nhắc đến các nghĩa trang, chúng như những đụn cát trong đó những ngày chiến tranh được đánh dấu bằng các ngôi mộ của những người lính đã ngã xuống. Nhưng có những lịch khác, những cách khác để đo thời gian. Chẳng hạn ở các phòng sinh.

Dữ liệu về thương vong của quân đội Ukraine được phân loại, kể cả các binh sĩ bị thiệt mạng. Nhưng các phương tiện truyền thông có đầy đủ thông tin về sinh nở. Trong 400 ngày chiến tranh cho đến cuối tháng 3, có 18.450 trẻ em được sinh ra ở Kiev. Trong số này, số bé trai nhiều hơn số bé gái, có 317 cặp sinh đôi và 4 cặp sinh ba. Có nhiều không? Trước chiến tranh, thủ đô Ukraine đón vài ngàn trẻ em mỗi năm. Và dù mỗi cuộc sống mới là một dấu hiệu của hy vọng, nhưng tình hình nhân khẩu học của đất nước ngày càng trở nên khó khăn. Làn sóng di cư khổng lồ, việc Nga đưa những người sống ở các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng sang Nga, thương vong dân sự và quân sự trong chiến tranh, cũng như tỷ lệ sinh thấp – tất cả những yếu tố này kết hợp lại, hậu quả đau đớn sẽ thấy rõ trong nhiều năm tới.

“Khi một điều gì đó mà tôi đã kiên nhẫn cầu nguyện từ lâu trở thành sự thật, nó luôn làm tôi cảm động nhiều hơn so với lời tôi xin được nhận lời ngay lập tức.” Những lời này là lời của một trong những lá thư của Thánh Têrêsa Bênêđictô Thánh Giá (Edith Stein). Tôi đã ghi lại khi tôi là tập sinh, nhưng nó có một lý do vì sao tôi nhớ lại câu này ngày hôm nay. Khi chiến tranh bắt đầu, tôi đã cố gắng xin làm tuyên úy tình nguyện ở một trong các bệnh viện. Vào lúc đó là không thể. Nhưng tôi vẫn còn mong muốn. Vì thế tôi rất vui khi ngày thứ bảy vừa qua, giám mục Vitaliy điện thoại cho tôi, ngài hỏi Dòng Đa Minh có ai có thể làm tuyên úy ở một trong những bệnh viện ở Kiev, họ đang cần gấp một linh mục.

Yêu cầu này là bất thường với Ukraine, vì mục vụ cho người bệnh vẫn chưa được phát triển. May mắn thay, khi chiến tranh tiến triển, đã có một phát triển tích cực và mối quan tâm ngày càng tăng của chính quyền trong việc nâng đỡ tinh thần cho các bệnh nhân dân sự và quân sự.

Vì vậy, trong vài ngày tới, chúng tôi sẽ bắt đầu một giai đoạn mới trong thánh chức chúng tôi ở Kiev. Linh mục Oleksandr sẽ là tuyên úy của bệnh viện và sẽ tham gia vào nhóm đã được thành lập gồm một linh mục chính thống giáo và một linh mục công giáo theo nghi thức Đông phương. Với tôi, đây là một khoảnh khắc khác trong đời khi tôi nhận ra, Chúa đang biến ước mơ của chúng tôi thành hiện thực, dù trong trường hợp này, thời gian chờ đợi đã kéo dài cả năm trời. Rõ ràng, trên trời, có rất nhiều lời xin khẩn cấp từ Ukraine trong những ngày này.

Xin anh chị em đừng quên cha Oleksandr trong lời cầu nguyện của anh chị em, vì mục vụ bệnh viện trong thời chiến rất khó khăn.

Dù năm nay tín hữu kitô Ukraine của truyền thống phương Đông và phương Tây không tổ chức cùng ngày, những lời này được đọc lên trong phụng vụ chính thống giáo vẫn là lời tuyên xưng đức tin chung của chúng ta: “Chúa Kitô đã sống lại từ cõi chết, bằng cái chết của mình, Người đã chiến thắng sự chết, và Người đã ban sự sống cho những kẻ ở trong mồ mả”.

Với lòng biết ơn và những lời chúc Phục sinh tốt đẹp nhất, và với những lời cầu nguyện khiêm tốn,

Jarosław Krawiec, Dòng Đa Minh.

Kiev, ngày 3 tháng 4 năm 2023

Marta An Nguyễn dịch

Những bức thư từ Kiev: thư thứ 33 của linh mục Đa Minh Jaroslav Krawiec từ trung tâm cuộc chiến Ukraine