Trích sách Trên Trời Và Dưới Đất [Sobre el cielo y la tierra]
Các bài thảo luận giữa hồng y Jorge Bergolio và giáo sỹ Abraham Skorka
Chương 16. Về Hôn Nhân Đồng Tính
Skorka: Tôi tin rằng cách xử trí trước vấn đề kết hôn đồng tính trước đây thiếu một phân tích chiều sâu đáng phải có. Khi thực tế cho thấy có nhiều cặp đồng tính sống chung với nhau và đáng phải có một giải pháp về mặt pháp luật cho những vấn đề của họ như tiền hưu trí, thừa kế, …vv, thì tốt nhất nên xem liệu có cần cho họ một tình trạng pháp lý mới. Tuy nhiên, xem một cặp đồng giới hệt như một cặp khác giới là chuyện hoàn toàn khác hẳn. Đây không chỉ là vấn đề niềm tin, mà là việc phải ý thức rằng chúng ta đang nói về một trong những khối kết cấu làm nền tảng cho xã hội. Về vấn đề này, các phân tích và nghiên cứu nhân học vẫn còn thiếu nhiều. Trong lúc đó, thật sự, chúng ta nên để cho các tôn giáo khác nhau lên tiếng về việc này, bởi chính các tôn giáo là những gì định hình và cưu mang nền văn hóa của chúng ta. Cần phải có những thảo luận có tổ chức trong lòng mỗi đức tin đó, cộng với sự kết hợp chặt chẽ giữa các phái trong tôn giáo, nhằm thiết lập được một loạt ý kiến hoàn thiện.
Bergoglio: Tôn giáo có quyền cho ý kiến bao lâu tôn giáo vẫn còn phục vụ cho người dân. Nếu ai đó xin tôi lời khuyên, thì tôi có quyền cho họ. Nhiều lúc, bậc thẩm quyền tôn giáo chú ý đến một số điểm nhất định trong đời sống riêng cũng như đời sống chung của người ta, là bởi họ là những người hướng dẫn cho các giáo hữu của mình. Tuy nhiên, bậc thẩm quyền đó không có quyền áp đặt bất kỳ điều gì trên đời sống riêng của bất kỳ ai. Nếu ngay cả Thiên Chúa, trong công cuộc tạo dựng, đã mạo hiểm khi cho chúng ta có sự tự do, thì tôi là ai mà có quyền can thiệp vào tự do đó? Chúng ta lên án những quấy rầy về mặt tinh thần do các thừa tác viên tôn giáo gây ra khi áp đặt những chỉ thị, hướng dẫn, và đòi buộc theo kiểu tước đoạt tự do của người khác. Thiên Chúa cho chúng ta quyền tự do để chọn phạm tội hoặc là không. Người ta phải tuyên bố rõ ràng về các giá trị, giới hạn, điều răn, nhưng không được phép có những quấy rối về mặt tinh thần và mục vụ.
Skorka: Do Thái giáo có nhiều nhánh khác nhau. Những người Do Thái chính thống cực đoan có quá nhiều luật, họ đòi hỏi những người theo đạo phải sống theo một lề lối cụ thể nhất định. Lãnh đạo của cộng đoàn nói rằng ‘việc này phải thế’ và chẳng cho người ta bàn luận gì, nên cuối cùng họ nhúng tay vào cả cuộc sống của người ta. Mặt khác, các rabbi trong những nhánh khác chỉ thể hiện vai trò của mình trong tư cách người thầy giảng dạy, và như thế là không xâm phạm gì . Tôi thì nói rằng, ‘Luật đã nói thế này, hãy cố để làm cho đúng theo truyền thống,’ nhưng chỉ thế thôi. Trong kinh Talmud có bàn về việc liệu chúng ta có được áp đặt lối sống đúng đắn lên người ta hay chỉ cố thuyết phục họ tuân theo. Tôi nghĩ rằng chúng ta nên cố thuyết phục và không được xâm phạm đời sống người khác, nó cũng giống như bậc cha mẹ nên hành xử đúng đắn và làm gương cho con mình vậy. Mà cũng có một cách để đức tin áp đặt lên người ta, nhưng sự áp đặt đó phải là qua giảng dạy chứ không phải bằng cưỡng ép và bắt buộc.
Còn bây giờ trở lại chủ đề chính, trong Do Thái giáo cấm quan hệ tình dục giữa hai người đàn ông. Những từ chính xác trong Kinh thánh là ‘đàn ông không được có quan hệ với nhau theo kiểu giống như giữa đàn ông với đàn bà’. Đó là nền tảng cho bất kỳ quan điểm nào về vấn đề này. Từ sách Sáng Thế, hình mẫu lý tưởng cho con người là sự hòa hợp giữa người đàn ông với người đàn bà. Luật Do Thái nói rõ ràng – không được phép quan hệ tình dục đồng giới. Mặt khác, tôi tôn trọng tất cả mọi người miễn là họ sống đoan trang và đừng oang oang về đời tư của mình. Còn về luật mới cho phép kết hôn đồng tính, tôi thấy nó thật vô nghĩa về mặt nhân học. Khi đọc đi đọc lại Freud và Levi-Strauss, thấy họ nhắc đến những yếu tố căn bản của cái mà chúng ta gọi là văn hóa cũng như tầm quan trọng tối thượng của đạo đức tính dục và việc cấm triệt loạn luân như là tiến trình để hướng đến sự văn minh, tôi thấy thật lo lắng không biết những thay đổi về các giá trị căn bản trong xã hội chúng ta rồi sẽ dẫn đến đâu.
Bergoglio: Tôi cũng nghĩ hệt như thế, để làm rõ hơn, tôi muốn dùng từ ‘bước lùi của nhân học’, sự suy đồi của một thiết lập đã tồn tại suốt hàng ngàn năm cũng như đã tiến lên thuận theo tự nhiên và nhân học. Năm mươi năm trước, lấy hai vợ, hay sống chung, không phải là chuyện phổ biến trong xã hội như bây giờ. Thậm chí đó còn là một tiếng xấu rõ ràng. Nhưng về sau, tất cả mọi sự đã thay đổi. Ngày nay, sống chung trước hôn nhân, cho dù là sai về mặt tôn giáo, vẫn chẳng bị xã hội chối bỏ như năm mươi năm trước. Thực tế xã hội cho thấy sống chung thực sự không mang lại sự trọn vẹn, cũng như không có sự cao cả của hôn nhân – một giá trị đã trải suốt hàng ngàn năm và đáng được bảo vệ. Bởi vậy, chúng ta cảnh báo sự hạ giá mà việc này có thể gây ra, và trước khi sửa đổi luật, người ta phải suy tính kỹ lưỡng nhiều về tất cả những gì sẽ xảy đến.
Với chúng ta, một điều nữa cũng rất quan trọng, là điều anh vừa nhắc tới – nền tảng của Luật Tự nhiên trong Kinh thánh nói về sự kết hợp giữa đàn ông và đàn bà. Luôn luôn có những người đồng tính. Đảo Lesbos được người ta biết đến vì những phụ nữ đồng tính ở đó, nhưng trong lịch sử người ta chưa bao giờ tìm cách để cho những phụ nữ đó có được tình trạng hôn nhân như người thường. Người ta chấp nhận họ hoặc không, ngưỡng mộ họ hoặc không, nhưng chưa bao giờ xem họ giống như những người khác. Chúng ta biết rằng hiện tượng đồng tính nở rộ vào những thời điểm biến động, nhưng thời này mới là lần đầu tiên xuất hiện vấn đề thừa nhận kết hôn đồng tính về mặt pháp lý, và tôi xem đây là một bước lùi nhân học và một sự suy đồi phản giá trị. Tôi nói thế bởi đây là vấn đề nằm ngoài mức độ tôn giáo, nó là vấn đề nhân học. Nếu có kết hợp giữa những người có bản chất tính dục riêng biệt, thì không được để nó ảnh hưởng đến người khác hay đến xã hội. Bây giờ, nếu sự kết hợp này được đưa vào phạm trù hôn nhân và họ được quyền nhận con nuôi, thì những đứa trẻ sẽ có thể bị ảnh hưởng theo họ. Tất cả mọi người đều cần có một người cha là đàn ông và một người mẹ là đàn bà để có thể giúp chúng hình thành nên tính cách của mình.
Skorka: Vào thời tổng thống Raul Alfonsin, khi người ta sửa luật sao cho tách rời hôn nhân dân sự với hôn nhân tôn giáo, tôi tin rằng họ đã làm đúng. Trước đó, để làm nghi lễ hôn phối cho đôi bạn, chúng tôi phải yêu cầu họ có chứng nhận hôn nhân dân sự trước đã. Tôi thấy thật vô nghĩa khi trong một xã hội dân chủ, các nghi thức dân sự và tôn giáo phải ràng buộc với nhau. Tôi muốn hai thế giới này đừng trộn lẫn vào nhau thì hơn. Tuy thế, khi nói về những luật có quan hệ với các vấn đề nhạy cảm về nhân loại như thế này, thì phải có một bàn luận tích cực hơn giữa các đức tin khác nhau và chúng ta cũng phải nghiên cứu sâu hơn về chủ đề này hơn trước đây.
Bergoglio: Tôi nhấn mạnh rằng ý kiến của chúng tôi về kết hôn giữa hai người đồng giới không dựa trên nền tảng tôn giáo, nhưng là nền tảng nhân học. Khi thị trưởng Buenos Aires, Mauricio Macri, không phản bác quyết định của thẩm phán ưng thuận ngay lập tức cho một đám cưới (đồng tính), tôi đã cảm thấy mình phải nói gì đó, tôi thấy mình có trách nhiệm phải tuyên bố chính kiến của tôi. Đó là lần đầu tiên trong suốt mười tám năm làm giám mục, tôi chỉ trích một quan chức chính phủ. Nếu bạn phân tích hai lời phát biểu của tôi, bạn sẽ thấy tôi hoàn toàn không nói về vấn đề quan hệ đồng tính cũng như không ám chỉ xúc phạm gì đến họ cả. Trong lời tuyên bố đầu tiên, tôi nói rằng chọn lựa của thẩm phán thật khiến người ta lo ngại, bởi nó cho thấy một sự thờ ơ rõ ràng đối với luật pháp, bởi điều tiên quyết là một thẩm phán không thể thay đổi Luật dân sự, nhưng bà đã làm thế. Cùng lúc đó, tôi báo động cho người dân rằng lãnh đạo chính quyền, với trách nhiệm bảo vệ luật pháp, phải cấm chỉ phán quyết trên. Macri bảo tôi rằng ông cũng tin chắc như thế, tôi tôn trọng ông ấy vì điều đó, nhưng lãnh đạo chính quyền không buộc phải đưa niềm tin cá nhân của mình vào luật. Chưa bao giờ tôi nói chuyện kiểu thiếu tôn trọng về tình dục đồng tính, nhưng đúng là tôi đã phải có hành động can thiệp và chỉ ra cho mọi người thấy vấn đề pháp lý trong việc này.
Skorka: Trong một xã hội dân chủ, tất cả mọi thứ phải được giải quyết bằng pháp luật, theo cách thảo luận chân thành, tôn trọng, và bao quát. Mỗi bên phải bàn luận trong tinh thần tìm kiếm một nền tảng chung với phía đối lập, để đạt đến một phán quyết thành công dựa trên sự nhượng bộ lẫn nhau. Có những người dấn vào tranh luận mà không cần dùng đến luật, họ viện đến ‘luật tự nhiên’, cho rằng tự bản thân tự nhiên có những luật quy định cách hành xử của nhân loại, một dòng chảy ngầm của niềm tin này là quan niệm rằng T-Chúa tự Ngài gắn luật này vào trong Công trình Tạo dựng của Ngài. Nhưng những người đồng tính cũng có đủ lẽ để nói rằng không phải T-Chúa cũng chẳng phải tự nhiên làm người đó nên như thế. Có những người thêm rằng tình yêu đồng tính còn sâu sắc hơn nữa bởi người ta trước đó đã biết về tình yêu nam nữ rồi, cho dù tình yêu đồng tính đó không phải là cách để tạo dựng gia đình. Tất cả mọi người đều biết rằng các tính cách nam và nữ có vai trò trong việc nuôi dạy con cái và cũng biết các vấn đề sẽ xuất hiện khi những hình ảnh nam nữ này bị lộn xộn.
Bergoglio: Thường thì người ta viện lẽ rằng một cặp đôi đồng tính nhận nuôi đứa trẻ vẫn tốt hơn là để nó trong cô nhi viện hay cơ sở từ thiện nào đó. Cả hai cái sau đều không phải là lựa chọn tối ưu cho con trẻ. Vấn đề là Nhà nước không làm những gì họ cần phải làm. Chỉ cần nhìn vào trường hợp của trẻ em trong một vài cơ sở từ thiện là thấy, ở đó người ta chỉ cứu vãn những gì tối thiểu mà thôi. Cần phải có một tổ chức phi chính phủ, nhà thờ, hay những dạng tổ chức khác có thể chăm sóc cho các em. Người ta phải tổ chức sao cho hợp lý thủ tục nhận con nuôi, một vấn đề không bao giờ dứt, để cho các em có thể có được một mái ấm. Không thể đem thất bại này của nhà nước để biện minh cho thất bại khác của họ được. Cần phải xác định được vấn đề tiềm ẩn ở đây. Không chỉ cần một luật hôn nhân để cho những người đồng tính có thể nhận con nuôi, chúng ta còn phải cải cách luật nhận con nuôi, vốn đang quá quan liêu và là nơi dung dưỡng tham nhũng.
Skorka: Thật sự cần thiết phải cải cách luật nhận con nuôi. Các bậc hiền triết trong kinh Talmud nói rằng nhận nuôi một đức trẻ là một hành động tối quan trọng. Bất kỳ pháp chế nào cũng cần phải tạo điều kiện nhanh gọn và hiệu quả cho việc này sau khi đã phân tích đủ các giai đoạn khác nhau trong quá trình nhận con nuôi. Trở lại vấn đề hôn nhân, có một yếu tố mà chúng ta không thể bỏ sót ngoài phương trình này, một yếu tố rất rõ ràng là: tình yêu. Có lý do để Kinh thánh dùng hình ảnh hai người đang yêu làm đại diện cho tình trạng cuối cùng của cuộc tìm kiếm T-Chúa của chúng ta. Một người theo thuyết của Aristotle sống vào thế kỷ XII và đầy lý tính như Maimonides, đã định nghĩa tình yêu giữa T-Chúa và con người bằng những cụm từ mà chúng ta dùng để mô tả sự hòa hợp giữa người đàn ông và người đàn bà. Những người đồng tính yêu một người mà họ biết rõ, một ai đó gần giống như họ. Thật dễ cho một người đàn ông hiểu một người đàn ông. Nhưng để một người đàn ông hiểu một người đàn bà thì khó hơn, bởi cô ấy hệt như một mật mã vậy. Một người đàn ông có thể hiểu một cách hoàn hảo cảm nhận của một gười đàn ông khác, cũng hệt như một người đàn bà có thể dễ dàng hiểu được những gì trong tâm trí và trên cơ thể của một người đàn bà khác. Ngược lại, để khám phá cho được một người ‘khác’ giới thật là một thách thức lớn lao.
Bergoglio: Như anh đã nói, thì một phần của cuộc hành trình lớn trong đời chính là việc giải mã lẫn nhau. Có một linh mục đã nói rằng Thiên Chúa làm cho chúng ta có nam có nữ để chúng ta yêu nhau và cần nhau. Khi giảng về hôn nhân, tôi thường nói với chú rể rằng anh ta phải làm cho cô dâu nên đàn bà hơn và tôi cũng bảo cô dâu phải làm cho chú rể nên đàn ông hơn.
J.B. Thái Hòa chuyển dịch