lemonde.fr, Marieta Frías (Viện Cervantes, Paris), 2025-10-12
“Tôi ghen tị với những người có đức tin trong máu huyết”: Javier Cercas, tiểu thuyết gia chống giáo sĩ, nói chuyện với Tổng Giám mục Celestino Migliore, đại sứ Vatican tại Paris
Vô thần và không ưa tôn giáo, năm 2023, Vatican mời nhà văn Tây Ban Nha Javier Cercas tháp tùng Đức Phanxicô đi Mông Cổ. Từ kinh nghiệm này, ông viết tác phẩm “Kẻ điên của Chúa ở tận cùng thế giới”, một tác phẩm vừa có tính chất du ký, vừa có hơi hướng tâm linh ly kỳ, được nhà xuất bản Actes Sud ấn hành gần đây. Tại Viện Cervantes, Paris, cuộc trò chuyện sôi nổi của ông với Tổng Giám mục Celestino Migliore, Sứ thần Tòa Thánh tại Pháp từ năm 2020, diễn ra ngày 8 tháng 9.
Tác giả tự nhận mình là “người vô thần, chống giáo sĩ, theo chủ nghĩa thế tục hiếu chiến và duy lý ngoan cố”, ông đã mất đức tin khi còn là thiếu niên. Ông viết quyển tiểu thuyết Kẻ điên của Chúa ở tận cùng thế giới, một tác phẩm tâm linh ly kỳ về chuyến đi Mông Cổ năm 2023 với Đức Phanxicô, theo lời mời của ngài. Giữa “kẻ điên của Chúa” – Giáo hoàng Argentina – và “kẻ điên không có Chúa” – nhà văn Tây Ban Nha – có hai điểm chung: tình yêu văn chương và những câu hỏi – hay câu trả lời – về mầu nhiệm phục sinh của thân xác và cuộc sống đời đời.
Trong chuyến đi Mông Cổ với Đức Phanxicô, ông đã gặp nhiều nhân vật tôn giáo và Công giáo. Liệu từ một người không tin Chúa như ông, ông có trở nên kitô hữu hơn một chút không?
Tác giả Javier Cercas: Quyển sách là cuộc phiêu lưu phi thường, nó đã hoàn toàn thay đổi cuộc đời tôi. Mông Cổ là xứ sở rất kỳ lạ, nhưng tôi nghĩ Vatican còn kỳ lạ hơn! Tôi theo đạo công giáo cho đến năm 14 tuổi, rồi tôi trở thành người vô thần. Cá nhân tôi xem đức tin là một loại trực giác thi ca, cho phép mình nhận ra ý nghĩa mà người khác không thấy. Nhưng Đức Phanxicô lại nghĩ đức tin là một ơn. Tôi nghĩ hai quan điểm này không mâu thuẫn nhau, nhưng bổ sung cho nhau.
Tuy nhiên, đức tin không thể bị quyết định và không phải là vấn đề của ý chí. Tôi ghen tị với những người có đức tin ăn sâu vào bản chất, như mẹ tôi hay các nhà truyền giáo tôi gặp. Đức tin mang lại cho họ sức mạnh và một tinh thần thanh thản. Nhưng, dù tôi muốn lấy lại đức tin, tôi không biết cách nào để lấy lại. Vì có đức tin khó hơn nhiều so với việc không có đức tin, nên tôi vẫn là người vô thần!
Có phải vì Tòa Thánh muốn nói chuyện với mọi người theo một cách khác nên đã mời một nhà văn vô thần?
Tổng Giám mục Migliore: Dù có thái độ chống giáo sĩ, nhưng trong quyển sách, tác giả Javier Cercas nhận thấy người Phương Tây vẫn thấm nhuần di sản văn hóa của Giáo hội Công giáo, dù họ có thích hay không. Vatican muốn chọn một người không cùng chung giáo phái, nhưng lại tiếp cận Giáo hội với một tâm trí thấu hiểu. Thật sai lầm khi nghĩ rằng ngày nay Giáo hội không còn hấp dẫn ai: rất nhiều triết gia, nhà văn, nghệ sĩ và những người bình thường tìm đến Phúc âm vì họ tìm thấy câu trả lời cho những câu hỏi thường ngày của họ ở đó – sinh, tử, đau khổ, tình bạn, công việc, v.v.
Vấn đề là, trong những thế kỷ gần đây, Giáo hội có thể đã nghĩ mình nắm giữ chân lý, và xa lánh đối thoại với xã hội. Điều quan trọng là chúng ta phải kết nối lại với văn hóa ngày nay, vì, mặc dù tinh thần Công giáo đã thấm nhuần trong xã hội, nhưng nhiều người không còn biết Công giáo là gì nữa. Vì thế chúng ta cần đối thoại để hiểu nhau.
Javier Cercas, ông nói các nhà truyền giáo ông gặp ở Mông Cổ đã có ảnh hưởng sâu đậm trên ông. Vì sao?
Javier Cercas: Dù là tín hữu kitô, người có đức tin hay người vô thần, tôi nghĩ không thể không ngưỡng mộ những người “điên cuồng vì Chúa”. Đức Phanxicô thậm chí còn nói về một Giáo hội truyền giáo. Theo tôi, lời của ngài mang tính cách mạng theo nghĩa ngài mời gọi Giáo hội đưa Chúa Giêsu Kitô ra khỏi phòng thánh, đặt Chúa Giêsu Kitô vào trung tâm thế giới. Trở về với Kitô giáo của Chúa Kitô, với các sách Phúc Âm, là điều Đức Phanxicô muốn làm. Người nghèo, các cô gái mại dâm ở chung quanh Chúa Giêsu Kitô; Ngài bị đóng đinh vì Ngài là người nguy hiểm, người đã nói: “Ta đến không mang lại hòa bình, nhưng mang gươm giáo.”
Tuy nhiên, ở Rôma và Tây Ban Nha, những gì chúng ta thấy không phải là Kitô giáo cách mạng như chúng ta biết, nhưng một Công giáo gắn chặt với quyền lực và giới giàu có. Đức Phanxicô muốn Giáo hội trở về nguồn gốc của nó. Liệu ngài có thành công trong cuộc cách mạng này không?
Tổng Giám mục Celestino Migliore: Không, ý tưởng cho rằng một giáo hoàng nắm giữ quyền lực tuyệt đối thật nực cười. Có lẽ chúng ta không cần một giáo hoàng, mà là 20 giáo hoàng để mang lại cuộc cách mạng!
Thậm chí một số người còn kêu gọi Giáo hội tìm lại tinh thần của thời kỳ hầm mộ. Ngài nghĩ gì về điều này?
Tổng Giám mục Celestino Migliore: Theo một số báo, chúng ta có cảm tưởng Giáo hội đang ở bờ vực sụp đổ. Nhưng khi đến các nơi thờ phượng, chúng ta nhận ra có một cơn khát thiêng liêng: năm nay tại Pháp có hơn 18.000 tân tòng xin rửa tội, một số hoàn toàn không có tôn giáo nào. Để mang lại cuộc cách mạng, tốt hơn nên có giáo dân hơn là có giáo hoàng, và làm sao để các tín hữu tin chắc cần phải trở về với Phúc âm để sống. Ở Pháp, Giáo hội đang chuyển từ hướng dẫn sang nuôi dưỡng: có rất nhiều sáng kiến cho những ai muốn tin, đặc biệt là trong giới trẻ, nhằm khuyến khích một đức tin thực tế, giúp ích cho mọi người. Tôi thực sự lạc quan về tương lai của Giáo hội, một Giáo hội đặc biệt sáng tạo và can đảm ở Pháp, bất chấp những vụ bê bối.
Javier Cercas: Các nhà truyền giáo tôi gặp đại diện cho sự trở lại với Kitô giáo của Chúa Kitô. Họ chính xác noi theo những gì Chúa Giêsu đã làm với các tông đồ đầu tiên của Ngài: từ bỏ tất cả và đi đến tận cùng trái đất. Ở đó họ không gây chiến, họ giúp đỡ người bệnh, người già, phụ nữ bị lạm dụng, và chỉ có vậy. Đó là một Kitô giáo rất cấp tiến. Nhưng dù Giáo hội đã tồn tại qua mọi đế chế trong 2.000 năm, tôi không lạc quan như Tổng Giám mục Migliore: ngày nay, ít người có tầm nhìn như vậy về Công giáo.
Tổng Giám mục Celestino Migliore: Tôi muốn cấp tiến hơn một chút so với ông. Tầm nhìn của ông hơi thiên về giáo sĩ. Tất cả chúng ta đang chờ đợi điều gì ở đây để mang đến cuộc cách mạng này? Là tín hữu kitô, tất cả chúng ta đều được kêu gọi để thành nhà truyền giáo.
Giáo hội ngày nay tạo ấn tượng họ nói chuyện nhiều hơn với giới trẻ, chẳng hạn qua việc phong thánh cho Carlo Acutis, người có biệt danh “lập trình viên của Giáo hội”. Liệu ngôn ngữ của Giáo hội đã lỗi thời chưa?
Javier Cercas: Tôi nghĩ ngôn ngữ của Giáo hội đã lỗi thời. Quyển sách mới nhất của Đức Phanxicô, Chào đón Thơ ca! (Vive la poésie!, Ares) mời gọi chúng ta tôn vinh ngôn ngữ, nhưng thực tế phức tạp hơn. Chúa Kitô mang tính cách mạng vì lời của Ngài rất mạnh và mới mẻ. Nhưng, ngoài việc lỗi thời, đó còn là một ngôn ngữ khó hiểu, không ai hiểu được. Ví dụ khái niệm về tính công đồng… Có lẽ, để diễn đạt ý tưởng chuyển từ Giáo hội chiều dọc sang chiều ngang, tốt hơn nên nói về “dân chủ hóa” thể chế, theo nghĩa từ nguyên của nó: tính công đồng là quyền năng của dân Chúa. Trong Sách Công vụ Tông đồ, các môn đệ của Chúa Giêsu đã gặp nhau để thảo luận các vấn đề. Vậy tại sao không nói và lắng nghe?
Tổng Giám mục Celestino Migliore: Giống như phần lớn từ vựng của chúng ta, thuật ngữ “công nghị” (synodality) bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, diễn tả ý tưởng cùng nhau bước đi. Nó không nhằm mục đích đặt Giáo hội vào mô hình dân chủ nghị viện, nhưng đúng hơn là ở trong tình trạng huynh đệ và lắng nghe nhau. Tôi nghĩ giáo dân không nên đòi hỏi được giáo sĩ hóa, về phần các linh mục, họ sẽ được hưởng lợi từ việc thế tục hóa.
Javier Cercas, ông cho rằng các nhà báo phỏng vấn Giáo hoàng chỉ quan tâm đến các vấn đề chính trị, còn chiều kích tôn giáo thường bị bỏ qua…
Javier Cercas: Đúng vậy, điều này làm tôi vô cùng ngạc nhiên. Chủ đề chính trong quyển sách của tôi là liệu mẹ tôi có gặp lại cha tôi sau khi chết hay không, nói cách khác, đây là câu hỏi về sự phục sinh của thân xác. Theo quan điểm của tôi, đây là bí ẩn cốt lõi của Kitô giáo và nền văn minh chúng ta: sự sống đời đời. Mẹ tôi, một tín hữu mộ đạo, bà tin chắc bà sẽ đoàn tụ với cha tôi sau khi chết. Khi tôi đến Vatican, tôi nói tôi muốn thảo luận vấn đề này với Giáo hoàng, ai cũng sững sờ nhìn tôi: “Chưa bao giờ có ai hỏi ngài điều này cả!” Nhưng đồng thời, điều này cũng dễ hiểu: chúng ta hình dung một nhà báo nói với tổng biên tập của ông, ông muốn viết một bài về sự phục sinh của thân xác… Nhưng đó lại là bản chất của Kitô giáo. Ngày nay, Giáo hội không còn nắm giữ quyền lực chính trị như trước nữa. Giáo hoàng trước hết và trên hết là nhà lãnh đạo tinh thần, chứ không phải nhà lãnh đạo chính trị. Không muốn hạ thấp chiều kích chính trị của Giáo hội, tôi muốn nói thêm về chiều kích tinh thần của Giáo hội. Và Giáo hoàng đã trả lời câu hỏi của tôi theo một cách vừa bất ngờ vừa tất yếu. Aristotle hẳn sẽ rất hài lòng với câu trả lời này.
Tổng Giám mục Celestino Migliore: Từ ngữ rất quan trọng, không chỉ là quyền lực kinh tế. Đó là lý do vì sao Giáo hội Công giáo vẫn tồn tại hơn hai ngàn năm sau khi thành lập. Một ngày nọ, tôi đang đi du lịch ở Hàn Quốc. Một mục sư Hàn Quốc hỏi tôi liệu Giáo hoàng có dừng chân ở Bình Nhưỡng để kêu gọi dỡ bỏ lệnh cấm vận với Bắc Triều Tiên hay không. Tôi trả lời Đức Gioan Phaolô II có thể tuyên bố điều tương tự như ngài đã tuyên bố ở Cuba: “Cầu mong Cuba mở cửa với thế giới và thế giới mở cửa với Cuba!” Vị mục sư uống xong ly nước rồi rời đi…
Xét cho cùng, thưa ông Cercas, Đức Phanxicô đã để lại ấn tượng gì cho ông?
Javier Cercas: Đức Phanxicô là một nhân vật cực kỳ phức tạp, với tính cách rất khó tính và độc đoán. Ngài không phải là một giáo hoàng hoàn hảo, không tì vết, nhưng là người đang đấu tranh với chính mình, ý thức sâu sắc về những điểm yếu và tội lỗi của mình, ngài đã chiến đấu đến chết để trở thành phiên bản tốt nhất của chính mình. Điều đầu tiên ngài nói sau khi được bầu làm giáo hoàng “ngài là kẻ có tội”. Nhưng Giáo hội không phải là nơi của những người chiến thắng, đó là nơi của những người lầm đường lạc lối. Suy cho cùng, Chúa Giêsu đã chọn tông đồ Phêrô, người đã phản bội Ngài ba lần, làm người đầu tiên đứng đầu Giáo hội! Hơn nữa, chúng ta không phải là cùng một con người trong suốt cuộc đời. Montaigne đã nói: “Sự khác biệt giữa chúng ta và chính mình cũng lớn như giữa chúng ta và người khác.” Tôi nghĩ Đức Phanxicô là phiên bản Bergoglio hoàn hảo nhất có thể.
Còn Đức Lêô XIV thì sao?
Tổng Giám mục Celestino Migliore: Mỗi giáo hoàng đều có cá tính riêng. Kế nhiệm Đức Phanxicô không dễ dàng, nhưng điều tôi ấn tượng về Đức Lêô là sự tự do nội tâm của ngài, chắc chắn đây là lợi thế của ngài. Mặc dù ngài ít nói hơn nhiều so với người tiền nhiệm, nhưng ngài là người thông thái, người sẽ tiếp bước Đức Phanxicô và đóng góp những gì ngài có.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch





























