“Tin là gì?”: Bài suy niệm của Thánh Augustinô qua ngòi bút của nhà văn Frédéric Boyer
la-croix.com, Nhà văn Frédéric Boyer, 2025-08-08
Vào thời điểm mà việc đi tìm ý nghĩa lại trở thành trọng tâm của cuộc tranh luận, nhà văn Frédéric Boyer khơi lại tư tưởng cháy bỏng của Thánh Augustinô để đặt câu hỏi về ý nghĩa của niềm tin muốn nói gì với chúng ta ngày nay.
Tin là gì? Nhà văn Frédéric Boyer tìm được câu trả lời nơi Thánh Augustinô, ngài là bậc thầy tâm linh được ánh mặt trời của Thiên Chúa sưởi ấm, vậy, ngài là một trong những chuyên gia vĩ đại nhất về vấn đề này.
“Tin là gì?” Tôi chưa bao giờ có thể trả lời câu hỏi này ngoài việc đọc đi đọc lại những trang đầu của quyển Tự Thú của ngài khi ngài ngỏ lời với Chúa như thể lần đầu tiên ngài biết nói: “Một con người, một phần nhỏ bé trong tạo vật của Ngài, muốn ngợi khen Ngài.” Thánh Augustinô hỏi: “Nhưng làm sao làm? Trước hết chúng ta phải gọi Chúa để ngợi khen Chúa? Nhưng làm sao gọi Chúa nếu chúng ta chưa biết Chúa?” Ngài mạo muội nói: “Hay chúng ta phải gọi Chúa để biết Ngài?” Phải tin tưởng tuyệt đối vào lời của Ngài, Đấng chúng ta không biết, Đấng chúng ta đi tìm. Chúng ta có bao giờ tự hỏi làm thế nào để biết Chúa mà người ta thường nói cho chúng ta nghe không? Cứ gọi, cứ trải nghiệm các lời cầu nguyện, không cần kiến thức, không cần hiểu biết trước. Hãy nói chuyện với người mình chưa biết. Ngài luôn lắng nghe bạn. Gọi Ngài là tin. Và niềm tin này mở ra mọi tri thức.
Mọi thứ được viết ở các trang đầu tiên của quyển Tự Thú: tin là chấp nhận rủi ro gọi mà không biết, và có lẽ ngay cả vì sự thiếu hiểu biết này mà chúng ta dự vào một cuộc đối thoại duy nhất được tạo nên, vì niềm tin cần thiết cho hành động tin. Tôi chỉ có thể biết Chúa nếu tôi dám nói chuyện với Ngài, dù tôi chưa biết Ngài. Tin không chỉ đơn giản là tin về sự hiện hữu của chính Chúa, nhưng còn là tin tôi đặt vào việc kêu cầu Ngài, cầu xin Ngài. Khi chấp nhận rủi ro tin, thì sự tồn tại của chúng ta có thể vượt qua sự lãng quên hoặc sự thiếu hiểu biết, lo lắng, và tái tạo chính nó.
Một khác biệt mới
Sự bối rối của chúng ta trước những lựa chọn phải thực hiện trong cuộc sống, nỗi lo lắng này cũng chính là tin. Không biết, nhưng hỏi. Không biết, nhưng đặt câu hỏi, không biết nhưng kêu cầu để thành quen thuộc. Những điều xảy ra với chúng ta, những cảm xúc chúng ta trải qua, không phải tất cả đều nằm trong phạm vi kiến thức mà chúng ta có thể làm chủ chúng, hoặc không phải tất cả đều có thể diễn tả chỉ qua khả năng làm chủ ngôn ngữ của chúng ta. Tin trước hết là chấp nhận không biết và dám đối diện với nơi sâu thẳm, nơi chúng ta không còn là chủ nhân, không giàu có, không chiến thắng, nhưng đó là nơi chúng ta tìm con người mình muốn trở thành, và điều mình muốn tìm kiếm. Nơi chúng ta buông bỏ bản thân để hướng đến một khác biệt mới. Từ sự buông bỏ này, sự chân thành của nó, nảy sinh một lời mở ra cho chúng ta một chú tâm vô hạn đến thế giới và đến người khác.
Thông qua hành động tin, tôi không chỉ mở lòng ra với những khả năng khác, nhưng trên hết là với những người khác ngoài chính tôi. Tin là mở rộng sự tồn tại của tôi. Tin không bao giờ chỉ đơn thuần là bám chặt vào một chân lý, dù chân lý đó là gì, nhưng là cuộc phiêu lưu mà qua đó tôi đồng ý khám phá tôi như một người khác, gặp gỡ lắng nghe những người khác ngoài chính tôi. Vì thế, tin là một hành động, cho phép tôi mở lòng với những gì tôi không phải, với những gì không chỉ thuộc về tôi, ngay cả không nằm trong tôi, vì khi tin, tôi khám phá “một sự gần gũi mật thiết nội tâm hơn so với sự mật thiết của chính tôi”. Vì thế, tin là hành động mà con người nhận ra mình được dệt nên từ một khác biệt, một khác biệt làm nền tảng và mở ra để mình vượt ngoài chính mình và gần gũi với chính mình. Hoán cải nên được hiểu là một thay đổi nội tâm, một định nghĩa lại vị trí của bản thân trong mối quan hệ với Thiên Chúa.
Đối diện với các thảm họa
Aurelius Augustinus sống từ năm 354 đến năm 430. Chúng ta hình dung một thế giới và một thời kỳ mà mọi thứ đều rạn nứt, mọi thứ đều tối tăm, và mọi thứ đều được tái tạo. Điều đó không có gì lạ; hơn một ngàn năm trăm năm sau, chúng ta đang sống một trải nghiệm tương tự.
Từ Thagaste đến Milan, hành trình của Thánh Augustinô, một trí thức Berber đã thành Giáo phụ, thể hiện sự phức tạp của những bản sắc và cuộc tìm kiếm tâm linh của một người bị giằng xé giữa tham vọng, di sản và đức tin. Frédéric Bony
Thánh Augustinô là con người của những căng thẳng và mâu thuẫn: giữa nhục dục và đức tin, trí tuệ và khiêm nhường, quyền lực giáo hội và hoài nghi nội tâm, gắn bó với thế gian nhưng lại khao khát một nơi chốn khác. Ngài không tìm cách thể hiện một hình ảnh cố định về bản thân. Trong bóng tối hỗn loạn thời đại của ngài, ngài đã có một kinh nghiệm nền tảng và thiêng liêng, đánh dấu qua sự xuất thần được chia sẻ với mẹ Mônica của ngài: “Quên đi quá khứ và hướng tới tương lai.” (Tự Thú IX, 10)
Hơn nữa, ngài không bao giờ khuất phục trước nỗi hoảng loạn của người đương thời khi họ đứng trước các thảm họa, đặc biệt khi Rôma sụp đổ năm 410. Khi đó Thánh Jérôme đã phải kêu lên: “Còn gì có thể còn chắc chắn nếu Rôma sụp đổ? Quid salvum est, si Roma perit?” Thánh Augustinô trả lời: Chúa không hứa ban vĩnh cửu cho các hòn đá mà cho nhân loại.
Thánh Augustinô, một tiến trình trở lại chậm chạp
Một tiểu sử ngắn gọn về con người và tâm linh của một chàng trai trẻ đầy tham vọng và đau khổ, người đã tìm thấy con đường đến với kitô giáo sau nhiều tìm kiếm và thử thách.
Ngài là người Berber từ thời cổ đại, sinh năm 354 tại Thagaste, Numidia, thành phố La mã-Berber ở Algeria ngày nay (Souk Ahras). Gia đình ngài có nhiều bản sắc. Thân phụ ngài là Patricius, ngoại giáo nhưng được La-mã hóa, mẹ là Mônica, tín hữu kitô, cũng là người Berber, như thế Thánh Augustinô vừa là người Berber, người La-mã, người ngoại giáo, người tín hữu kitô.
Ngay từ khi còn rất nhỏ, ngài được gởi đi học ở Madauros (Madaure), cách Thagaste 50 cây số, khi đó là Carthage, trung tâm trí tuệ và văn hóa của Đế chế, nơi Thánh Augustinô được đào tạo về khoa hùng biện, một lãnh vực của thời cổ đại gồm phân tích ngôn ngữ, đọc và nghiên cứu các văn bản văn học, ngôn ngữ và học cách diễn tả. Xuất sắc, ngài là giáo sư quan tâm đến các tác giả vĩ đại như Virgil và Cicero. Là chàng trai trẻ đầy tham vọng, ngài định đi học và theo đuổi sự nghiệp ở Rôma. Vào thời điểm đó, khoa hùng biện có thể mang đến các địa vị quyền lực và ảnh hưởng. Không biết khi đó ngài có cân nhắc đến sự nghiệp chính trị không? Có thể nói ngài bị một vị trí danh giá trong chính quyền đế quốc cám dỗ.
Vì thế năm 383, ngài cùng với mẹ vượt biển Địa Trung Hải đầy nguy hiểm để rời quê hương Châu Phi đi Rôma. Ngài cùng đi với một bà (một nhân vật vô hình, chúng ta không biết gì về bà, ngoại trừ mối tình của bà với Âugustinô ) và con trai của họ, Adeodatus (sinh khoảng năm 372). Dưới áp lực của mẹ và tham vọng cá nhân, Âugustinô chia tay bà này và nhẫn tâm đuổi bà về Châu Phi khi ngài định cư ở Milan, ngài giữ lại đứa con trai. Ngài viết: “Người phụ nữ mà tôi thường ngủ cùng đã bị bứt ra khỏi cạnh sườn tôi, như một trở ngại cho hôn nhân. Trái tim tôi, bà từng ôm ấp, đã bị xé nát, tổn thương và bắt đầu rỉ máu (…). Bà để lại cho tôi đứa con” (Tự Thú VI, 25). Trong gần mười năm, ngài theo thuyết manikêô nhị nguyên, một giáo phái tâm linh và chính trị rất mạnh, sau đó ngài kiên quyết phản đối, ngài tiếp tục hành trình tâm linh và triết học, ngài chuyển sang chủ nghĩa hoài nghi và Tân Plato. Nhưng dần dần, dưới ảnh hưởng của mẹ, ngài bắt đầu đặt câu hỏi về đức tin kitô giáo. Cuộc gặp của ngài với Giám mục Ambroise, giáo phận Milan nổi tiếng, là một bước ngoặt quyết định. Năm 386 ngài theo kitô giáo, một năm sau ngài rửa tội cùng với con trai Adeodatus. Thánh Augustinô mô tả sự trở lại của ngài như một cuộc khủng hoảng đạo đức dữ dội khiến ngài phải trải qua một thời gian tĩnh tâm, suy ngẫm (ostium) tại Cassiciacum, gần Milan. Nhưng ngài không trở lại đột ngột, đó là một quá trình chậm rãi, sâu sắc, bắt nguồn từ kinh nghiệm cá nhân và được trải nghiệm theo cách đối thoại, thông qua nhiều cuộc thảo luận sôi nổi và những câu hỏi đau đớn. Mẹ của ngài qua đời tại Ostia, gần Rôma sau khi trải qua trạng thái xuất thần với Âugustinô, điều sẽ quyết định một rạn nứt nền tảng: Âugustinô về Châu Phi, ngài được thụ phong linh mục ở đây (391), năm 396 ngài được phong Giám mục Hippo (ngày nay là Annaba ở Algeria). Ngài giảng dạy, viết lách, đối thoại và chống lại các tà thuyết. Âugustinô là một trong những tác giả sung mãn nhất của Thời Cổ đại Kitô giáo: hơn 100 tác phẩm (luận văn, thư từ, bài giảng), Tự Thú (397-400), Thành phố của Chúa (413-426). Ba mươi lăm năm làm giám mục của ngài tương ứng với điều mà một số sử gia gọi là “Đồi Can-vê La-mã” – sự thống khổ và biến đổi của một thế giới. Cuối đời, Thánh Augustinô rút lui khỏi thế gian: ngài quay về với ý tưởng một Giáo hội tâm linh đối lập với sự hỗn loạn của thế giới trần tục. Ngài qua đời năm 430 tại Hippo, bị quân Vandal bao vây.
Chẳng ích gì để than van về thời kỳ đen tối, mala tempora. Âugustinô đã trải qua nhiều thử thách và tự vấn; ngài thuộc về một thế giới bị chi phối bởi nhiều ảnh hưởng và bản sắc khác nhau. Ngài không quay lưng lại với thế gian; ngài khám phá trong chính cuộc đời ngài một cách khác để tồn tại, ngài dự vào thế giới này. Vì thế chúng ta phải hiểu điều mà chúng ta gọi là trở lại đạo của ngài là một hành trình, một cuộc di cư, qua những bản sắc đa dạng này, ở những nơi khác nhau, với những niềm tin đa dạng, và bằng cách đặt câu hỏi về toàn bộ nền văn học thơ ca, triết học và tâm linh phong phú. Đức tin Kitô giáo của ngài được truyền lại và hun đúc trong nền văn hóa cởi mở của thế giới, trong khi ngài sống như thể đang lưu vong giữa thế gian này. Ngài viết: “Cuộc đời chúng ta là một cuộc hành trình,” (Bài giảng 169, 15), vì tin là tự đặt mình vào tình thế căng thẳng. Vì vậy, ngài sẽ cần thời gian để tìm lại đức tin của mẹ. Cuộc đời ngài sẽ kể lại như một cuộc tìm kiếm thất bại trong chín quyển đầu tiên của quyển Tự Thú.”
Một thiếu sót thầm kín
Ít nhất chúng ta không nên nhớ nhiều về các lỗi lầm nhưng nên hiểu ngài, từ thời niên thiếu ở Carthage, ngài cảm nhận các thiếu thốn mà các đam mê và tổn thương của chúng phơi bày đến mức ngài tự ghét bản thân “vì không chịu đựng được một thiếu thốn thầm kín hơn” (Tự Thú III, 1). Những vết thương thầm kín, những khiếm khuyết, những thất bại của tôi chính là sự thừa nhận một “thiếu thốn thầm kín hơn”. Thiếu thốn này, theo một cách nào đó, là động lực thúc đẩy ngài thực hiện những chuyện ngài cần thực hiện. Đây không phải là tự truyện nhưng là cuộc điều tra tâm linh và tường thuật về sự tự trở thành, đóng khung qua lời tự thú (confessio trong tiếng la-tinh), hình thành như một hành vi ngôn từ qua đó mình tự hiến bản thân, phó thác mình cho cuộc tìm kiếm: “Con ở đâu khi con tìm kiếm Ngài? Ngài ở trước mặt con, nhưng con đã ra khỏi chính con. Con không tìm thấy con, càng không tìm thấy Ngài.” (Tự Thú V, 2)
“Vậy thì, tin là hướng về Đấng Khác, vừa là hiển linh vừa là hiện diện giải thoát.” Frédéric Boyer
Sự hiệp nhất không thuộc về cuộc sống này, nhưng đó là điều làm con người bồn chồn, phân tán luôn phấn đấu để hướng đến. Tin là nhận ra rằng chúng ta thiếu một điều gì đó còn thiết yếu hơn cả những đối tượng của ham muốn hay thất vọng. Đó là phấn đấu hướng đến yên nghỉ, hiệp nhất. Biến bồn chồn của chúng ta thành nơi phiền muộn của một ham muốn lớn lao hơn, bí ẩn hơn tất cả những ham muốn của chúng ta. Tin là một trải nghiệm của con người, cả về thể chất lẫn tinh thần. Theo một cách nào đó, tin không phải là vấn đề của một quyết định lý trí duy nhất, mà sâu xa hơn, thuộc về chính bản chất bồn chồn của nhân loại.
Với câu hỏi “tôi là ai?”, người tín hữu kitô chuyển câu hỏi này qua một Đấng Khác, bao la và vô cùng yêu thương: “Con là ai?” Và việc phải tự trả lời cho chính mình trước khi trả lời cho người khác không còn như trước nữa. Con người không còn đơn độc trước câu hỏi họ là ai và họ đang trở thành gì. Một giọng nói đang nói với chúng ta, chất vấn chúng ta. Chúng ta không quên giọng nói này. Tiếng nói đó có thể giúp chúng ta trở thành chính mình. Trở thành chính mình nghĩa là tự trả lời cho chính mình trước Đấng Khác này, trước những người khác, vì tôi tin Ngài gọi tôi, tôi tin Ngài chất vấn tôi khi chính tôi đã tự chất vấn và tìm kiếm. Khi tôi tự vấn, tôi phải hiểu một Đấng Khác đang tìm kiếm và chất vấn tôi. Với câu hỏi “Con là Ai?” Thánh Augustinô sẽ trả lời như sau: “Con không tìm thấy nơi nào an toàn ngoài Ngài. Tập hợp tất cả những gì con phân tán: không có gì của con tách biệt khỏi Ngài?” (Tự Thú X, 65).
Tại sao chúng tôi làm điều này
Tác giả Frédéric Boyer là tác giả quen thuộc của báo La Croix, các bài của tác giả được đánh giá cao trên các trang chuyên mục hàng tuần của báo La Croix. Là nhà văn, tác giả rất am hiểu tác phẩm của Thánh Augustinô, tác giả đã dịch xuất sắc quyển Tự Thú năm 2008, tác giả đã công phu phủi bụi văn bản cổ này, khôi phục lại sự táo bạo của Thánh Augustinô, đưa ngài trở thành người đương thời của chúng ta.
Khi Đức Lêô được bầu ngày 8 tháng 5, thế giới biết linh đạo Augustinô là trọng tâm trong đời sống của ngài. Báo La Croix đã nhanh chóng có loạt bài đặc biệt về Thánh Augustinô. Frédéric Boyer nhanh chóng được giao nhiệm vụ này. Xuyên suốt nhiều thế kỷ, Thánh Augustinô đã viết chung quanh động từ “tin” và chủ đề đức tin. Trở lại với những điều cốt lõi của một bậc thầy về kitô giáo, được một nhà trung gian xuất chúng… đưa đường!
“Lạy Chúa, Chúa thật bao la…” (Tự Thú I, 1) Tất cả bắt đầu bằng một lời khẩn cầu, một lời thách thức trực tiếp. Giống như lới kêu gọi vang vọng bên trong chính mình “vocare in se”, vì ở đây, khẩn cầu là gọi “sự bao la” này đến bên trong chính mình. Thiên Chúa phải thực sự hiện diện trong tôi. Nhưng làm thế nào Ngài có thể hiện diện trong tôi? Thánh Augustinô lập tức đặt câu hỏi (Tự Thú I, 2). Vậy thì Thiên Chúa nên đến ở đâu trong tôi? Đó là một phần của Ngài hay toàn thể của Ngài đến trong tôi?
Tìm chính mình là gặp gỡ Đấng Khác. Toàn bộ linh đạo của Thánh Augustinô, một trái tim không ngừng nghỉ, nằm trong sự tập trung cháy bỏng này, liên kết việc tìm kiếm bản thân với việc tìm kiếm một sự siêu việt được khẩn cầu, được hướng đến. Và chúng ta chỉ tìm được khi đắm mình vào những con sóng của cuộc sống con người, vào những đa dạng, những lang thang, những cảm xúc thường mâu thuẫn, những ham muốn không thể kiềm chế, pha trộn rất nhiều niềm vui, rất nhiều lạc thú, đến mức trải nghiệm hư vô là một cái gì phân tán và khô cằn. Nỗi đau buồn bao trùm tác phẩm: nỗi đau buồn cho tuổi thơ ấu, nỗi đau buồn cho bạn bè, nỗi đau buồn cho người mẹ, cho đứa con trai duy nhất của bà, và nỗi đau buồn cho vô vàn đam mê của con người. Điều mà Thánh Augustinô tìm kiếm là một khuôn mặt (Tự Thú I, 28, Thánh vịnh 27, 8).
Tin là hướng về dung nhan của một Đấng Khác, vừa là hiển linh vừa là hiện diện không tự vệ. Hiểu được điều này, dung mạo siêu việt làm cho chúng ta thiết lập ngay tại cốt lõi của sự thân mật, một mối quan hệ sống động, một ngôn ngữ khả dĩ. Sự siêu việt này đặt ưu tiên cho việc lắng nghe trong quá trình dẫn tôi nghĩ về bản thân như người đối thoại của một tình yêu vô hạn. Nói siêu việt là một dung mạo là nhận ra dung mạo này trong mỗi dung mạo tôi gặp, trong cuộc đối thoại của nhân loại với thế giới, và với chính mình. Là tín hữu, tôi được dẫn dắt để tin vì người khác, trong một hành động có trách nhiệm với người khác, và trong sự khiêm nhường với người khác.
“Tôi không tin mà không có các người khác”
Tin là hành động của lời: “Tôi tin, và đó cũng là lý do vì sao tôi nói.” Tôi tin, là tôi nói và tôi lắng nghe. Là tín hữu kitô là đòi hỏi hành động đáp lại Đấng Khác, với lòng can đảm để “đón nhận lời mời gọi.” Chúng ta chỉ trở thành chính mình, chúng ta chỉ trải nghiệm cuộc phiêu lưu “là chính mình” khi chúng ta đáp lại Đấng Khác đang đến, khi nhận ra một lời đang được ngỏ với chúng ta. Nhưng làm sao chúng ta có thể kêu cầu Đấng mà chúng ta chưa tin? Sức mạnh của mọi lời cầu nguyện, giống như sức mạnh của các thánh vịnh, là tin bằng cách kêu gọi, bằng cách chất vấn, bằng cách khẩn cầu sự hiện diện thiêng liêng mà chúng ta còn thiếu. Làm sao tôi có thể hiểu được điều tôi không biết, ví dụ sự hiện hữu của Chúa? Thánh Augustinô: “Tin những điều tôi không biết thì hữu ích” (De Magistro).
Theo Thánh Augustinô, tin là bước vào cuộc đối thoại với chính mình, với người khác, với Chúa. Frédéric Bony
Câu hỏi không bao giờ chỉ đơn giản là tôi có tin hay không, nhưng đón nhận trong chính mình khả năng tin. Đức tin (credere) không phải là tiền đề logic khép lại hay giải quyết một dòng suy luận, nhưng là hành động tin tưởng vào lời Chúa, mở ra cho chúng ta một khả năng hiểu biết thậm chí còn lớn hơn. Một mở ra của bản thể tôi, của sự hiện hữu của tôi, để chất vấn, để truy tìm. Và tôi chỉ mở lòng ra với khả năng kêu cầu hoặc khẩn cầu sự hiện diện của Thiên Chúa qua lời nói của người khác, trong đối thoại, lắng nghe và giảng dạy. “Làm sao tôi có thể tin nếu không ai nói?”, Thánh Augustinô hỏi, ngài trích dẫn thư Thánh Phaolô gởi tín hữu Rôma (10:14). Đức tin biến chúng ta thành người đối thoại, nâng chúng ta lên phẩm giá của đối thoại.
Đối với Thánh Augustinô, ngài khẳng định điều này trong suốt tác phẩm của ngài – tin là hành vi vừa mang tính cá nhân vừa mang tính liên cá nhân. Tôi không tin một mình. Tôi không tin mà không có người khác, không nói chuyện với họ. Các thần học gia nói rằng giáo huấn của Chúa Kitô chỉ được hiểu qua hành vi truyền đạt, một hành vi tất yếu đòi hỏi sự hợp tác của con người. Thánh Augustinô chứng minh tin là một hành vi ngôn ngữ. Bắt nguồn từ khát vọng được nói (“Tôi muốn nói,” ngài nói trong Tự Thú), để bước vào cuộc đối thoại với chính mình và với một điều gì đó lớn lao hơn chính mình. Thiên Chúa đã mặc định nhân loại cần có nhau không chỉ để khám phá giáo huấn của Thiên Chúa, mà còn để lắng nghe khát vọng được dạy dỗ.
Ngôn ngữ con người như lời cầu nguyện
Tin là đáp lại một niềm tin được ban (như trong hành động yêu thương) cho phép tôi kêu gọi những người tôi chưa biết, chất vấn những người tôi chưa biết. Nhận ra rằng tôi không biết tất cả mọi thứ về sự tồn tại, rằng tôi “đang được yêu cầu” một câu trả lời, nhưng đối tượng chưa biết của cuộc tìm kiếm, chủ đề bí mật của những câu hỏi của tôi, đang nói bên trong tôi, bằng ngôn ngữ của riêng tôi. Ngôn ngữ con người chính là nơi của đức tin, nơi của hoán cải. Theo Thánh Augustinô, đức tin không bao giờ tách khỏi chúng ta. Ngôn ngữ là chất liệu cho những câu hỏi của chúng ta, cho cộng đồng của chúng ta, và cho cuộc tìm kiếm chân lý của chúng ta. Bậc thầy hùng biện mà Thánh Augustinô tôn vinh là ngôn ngữ con người, bắt đầu với chuyên luận De Magistro (Bậc Thầy, năm 388). Ngôn ngữ đánh thức chúng ta chú ý đến sự vật, và thông qua sự vật, chúng ta cố gắng nói lên cảm xúc của chúng ta.
Thánh Augustinô, “bậc thầy của ngôn ngữ”, sau đó nhận ra việc chúng ta dùng ngôn ngữ không chỉ giới hạn ở việc hiểu biết sự vật hay ý tưởng thông qua từ ngữ; ngài đưa ra giả thuyết nó cho phép chúng ta tiếp cận một loại ngôn ngữ nội tâm, gần gũi, mà chúng ta không phải là người làm chủ. Như văn bản của Contra Faustum (sáng tác khoảng năm 400-402) đã khẳng định, ngôn ngữ trên hết là nơi tự do của tinh thần, một ơn của Chúa, nơi “mọi sự vật tự biểu lộ trong khi Thiên Chúa khám phá chúng bên trong”. Thánh Augustinô viết: “Điều này có nghĩa con người chỉ có thể làm chủ được lời nói nhờ một nội tâm rộng lớn hơn chính mình. Việc làm chủ ngôn ngữ cho phép chúng ta khám phá một loại ngôn ngữ của ngôn ngữ, ngôn ngữ này cho chúng ta thấy Thiên Chúa và Thầy Chí Thánh bên trong, Chúa Kitô. Khám phá ra một cuộc đối thoại nội tâm diễn ra khi chúng ta nói. Ngôn ngữ lúc đó trở thành lời cầu nguyện. Gọi tên sự vật, thú nhận cảm xúc của mình, đặt câu hỏi cho người khác và sự tồn tại qua ngôn ngữ, chính là trải nghiệm ngôn ngữ như một phương tiện và nơi chốn cứu rỗi, đến mức ‘lấy lại sức sống trong sự khô cằn mà chúng ta đang phải chịu đựng.’”
Tôi dám nói: với người tín hữu, như trong kinh nghiệm triệt để của các thánh vịnh, liệu có phải là cứu rỗi? Trong bài bình luận sách Sáng Thế Ký (De Genesi contra Manichaeos), Thánh Augustinô so sánh giáo huấn thần linh được ban qua lời nói của con người với mưa trên mặt đất. Ngài khẳng định giáo huấn thần linh nhất thiết phải được ban từ lời nói của con người, thông qua chính việc dùng ngôn ngữ. Ngôn ngữ biểu lộ sự phức tạp, sự mơ hồ, sự vướng mắc, vốn là đặc trưng của sự tồn tại con người.
Với Thánh Augustinô, ngôn ngữ không chỉ là một công cụ: nó là nơi cứu rỗi, là lời cầu nguyện nội tâm, nơi Thiên Chúa mặc khải chính Ngài. Frédéric Bony
Là độc giả yêu chuộng Thánh Vịnh, Thánh Augustinô nhận ra trong những lời cầu xin, những câu hỏi, công việc của ngôn ngữ là lời cầu nguyện và ngợi khen. Và điều này dẫn ngài đến việc nhận ra Chúa Kitô là một nội tâm sâu thẳm hơn nội tâm của chính mình, theo câu nói nổi tiếng trong Tự Thú III, 6: “Nhưng Ngài còn sâu thẳm hơn cả nội tâm của con.” Ngôn ngữ của chúng ta là chiều kích thiết yếu của nội tâm. Nói, tự vấn (chính mình), là lắng nghe Lời thân mật đang nói với chúng ta, thông qua chính lời nói của chúng ta, ngay cả những lời tầm thường nhất, tuyệt vọng nhất, mở ra trong chúng ta một nội tâm yêu thương, sâu thẳm hơn cả chính chúng ta.
“Lời này được thụ thai bởi tình yêu” (De Trinitate IX). Lời này không phải là một ngôn ngữ nội tâm đơn giản, nhưng là Lời thân mật và yêu thương, đang chờ được lắng nghe, được thốt ra từ sâu thẳm bên trong chúng ta. Ngôn ngữ đích thực là lắng nghe vô tận này đối với điều mà tôi gọi là “lời yêu thương” đang nói trong chúng ta. Theo Thánh Augustinô, ngôn ngữ con người có được chiều kích tâm linh: trong cách sử dụng quen thuộc của nó, để gọi tên mọi vật trên thế gian, để làm cho người khác hiểu mình, tôi phải nghe thấy “Tôi được nói với” theo một cách nào đó.
Một Đấng Khác nói với tôi khi tôi nói. Và là một hữu thể của ngôn ngữ, tôi được Đấng Khác này nói. Chỉ khi đó, lời thú tội, mỗi lời tuyên xưng được hiểu là sự tự hiến và từ bỏ chính mình, thì ngôn ngữ mơ hồ của nhân loại (sermo humilis, theo cách nói của Thánh Augustinô) mới thực sự lên tiếng đến mức trở thành lời ngợi khen – mà sau đó chúng ta phải hiểu như một giải phóng bản ngã trong ngôn ngữ. Đây thực sự là ý nghĩa của lời thú tội, trước khi là một từ ngữ đức tin có thể phân biệt với những từ ngữ khác, nó tạo nên chính sự mở ra của chiều kích nơi những từ ngữ đức tin trở nên khả thi.
“Vẻ đẹp vừa cổ xưa vừa mới mẻ”: nỗi u sầu của người tín hữu
Một câu hỏi và vết thương lớn khác trong cuộc tìm kiếm của con người là thời gian, sự xé rách hay giãn nở của thời gian. Lời cầu nguyện nổi tiếng của Thánh Augustinô trong Chương X của quyển Tự Thú diễn tả nỗi u sầu của người tín hữu đang tìm kiếm, người được dẫn dắt đến việc nhận ra mình luôn được yêu trước khi yêu. “Quá muộn rồi, con đã yêu Chúa, Vẻ đẹp vừa cổ xưa vừa mới mẻ, Quá muộn rồi, con đã yêu Chúa. Nhìn kìa. Chúa ở bên trong, còn con ở bên ngoài tìm Chúa.”
“Tin là đầu hàng, nhờ đó tôi lắng nghe, tôi chú ý đến những gì tôi chưa hiểu”. Frédéric Boyer
Con đường khó khăn của tin là chào đón như mới những điều cũ
mà chúng ta đã chậm trễ nhận ra. Điều tôi đi tìm đã ở bên trong tôi, và tôi đã không nhận ra nó. Trong khoảnh khắc “quá muộn” này, tôi nghe thấy tất cả sự khiêm nhường của người có đức tin. Tôi đã chờ đợi, tôi đã đi tìm và chính tôi là người được tìm và được gọi. Tin không phải là một hành động vinh quang, một chiến thắng đáng ăn mừng, nhưng là thừa nhận một món nợ trong thời gian của con người: Tôi luôn được yêu thương, và tôi nhận ra điều này khi đã quá muộn. Tôi được dẫn dắt đúng lúc để tin vì ngay trước khi tin, chính tôi đã được tin tưởng và lắng nghe.
Nếu đức tin là tin tưởng, thì đức tin được sinh ra từ một niềm tin vô hạn được ban cho tôi ngay cả trước khi tôi tuyên xưng đức tin của tôi, ngay cả trước khi tôi bày tỏ chính mình. Sự nhận thức đau lòng về khoảnh khắc “quá muộn” này về tình yêu của chính chúng ta, về đức tin của chính chúng ta, cuối cùng chính là một hành động của đức tin: Vì thế tôi đã được yêu thương ngay cả trước khi tôi biết điều đó hoặc đã dám thừa nhận điều đó. Toàn bộ sự tồn tại của con người được ghi lại trong hành trình tạm thời này, dẫn chúng ta đến nhận thức muộn màng này, điều đã đổi mới tôi, điều đã kết nối tôi, theo một cách nào đó, với “cái mới mà cũ” – sức mạnh yêu thương vô hạn đã đi trước tôi. Và chính bằng cách khám phá ký ức sáng tạo của mình, chúng ta khám phá ra ký ức nguyên thủy về việc được yêu thương mãi mãi.
“Ai cũng muốn được hiểu, không ai không có mong muốn này; nhưng không phải ai cũng muốn tin. Người ta thường nói với tôi: Tôi phải hiểu để tin; tôi trả lời: Tin để hiểu. Đó là kiểu tranh luận giữa chúng ta” (Bài giảng XLIII, được biết đến với tên gọi “Về Đức Tin”). Đến lượt tôi bước vào cuộc tranh luận, tôi tự hỏi dấu khép đơn nổi tiếng này của Thánh Augustinô có nghĩa là gì. Tôi được khích lệ bởi chính Thánh Augustinô, người thừa nhận “chính con người mà tôi đang đối diện, người mà tôi đang tranh luận, không hoàn toàn xa lạ với chân lý khi họ nói: Tôi muốn hiểu để tin”.
Nhưng nếu tin là điều kiện tiên quyết, vì tin là đầu hàng mà qua đó tôi lắng nghe, tôi chú ý đến những gì tôi chưa hiểu. Tin là lắng nghe, chú ý. Thậm chí tôi có thể nói tin là chăm sóc hay yêu thương. Vì thế tin không phải là hiểu, theo nghĩa với tư cách là người tín hữu, tôi sẽ có sự hiểu biết về một điều gì đó, nhưng đúng hơn là tôi khiêm nhường chấp nhận tôi không sở hữu gì cả và sẵn sàng lắng nghe. Tin rốt cuộc không phải là đánh cược nhưng là hành động của tình yêu, của từ bỏ và tin tưởng. Lắng nghe trước khi phán xét, lắng nghe trước khi tuyên bố hiểu. Có người sẽ hỏi tôi: tôi có phải hiểu để yêu không? Vậy thì tôi sẽ trả lời, trung thành với Thánh Augustinô và Phúc Âm: yêu để hiểu. “Chúa ở với con và con chưa ở với Chúa“ (Tự thú X, 38). Sự hiện diện phải trở nên hỗ tương để chấm dứt sự xé nát nội tâm, sự căng thẳng của tâm hồn.
Ý nghĩa của Kinh Thánh và Khiêm nhường của Tin
Theo Thánh Augustinô “Tin để hiểu” cũng áp dụng để đọc Kinh Thánh. Đọc Kinh Thánh là cuộc phiêu lưu vĩ đại của ngài, ngài kể lại những khó khăn, những khó hiểu trong các lần đầu tiên đọc Kinh Thánh. Chính sự mơ hồ của Kinh Thánh đã kích thích ngài suy nghĩ. Vấn đề không phải bằng mọi giá phải tìm ra một ý nghĩa rõ ràng, chung cho tất cả mọi người, nhưng tìm ra điều, như thể Lời Chúa được gởi đến cho cá nhân tôi, với những thiếu sót, điểm yếu và nhạy cảm của riêng tôi. Ở đây có thể nói, theo phong cách riêng của tôi, điều gì đặc trưng cho cách sống và tồn tại của tôi trên thế gian này cũng như cách tôi tin, phó thác bản thân cho niềm tin được đặt nơi tôi.
“Sự mơ hồ của lời Chúa có lợi thế là cho phép nhiều lời giải thích đúng đắn được hình thành và đưa ra ánh sáng, hiểu theo cách này hay cách kia để giúp chúng ta suy nghĩ”. (Thành phố của Chúa 11:19). Chân lý thì duy nhất, nhưng những biểu hiện của chân lý thì đa dạng, phù hợp với từng cảm nhận. Trong Chương XII, Thánh Augustinô lập luận về tính nguyên bản của Kinh Thánh và đưa ra những gì qua cái nhìn sâu sắc tuyệt vời về sự tiếp nhận và hiệu quả của Kinh Thánh, ngài viết: “Thiên Chúa duy nhất đã điều chỉnh văn chương thánh cho phù hợp với nhiều cảm quan khác nhau của chúng ta (multorum sensibus).” Sensus, trong tiếng La-tinh có nghĩa là cả tâm trí và cảm quan, suy nghĩ và tất cả những gì có thể cảm nhận được bằng giác quan. Kinh Thánh hướng đến những cảm quan đa dạng của chúng ta.
Mầu nhiệm của Kinh Thánh thích ứng với từng loại cảm quan. Những giọng nói và lời lẽ bí ẩn của Kinh Thánh không dành cho người kiêu ngạo, mà dành cho người khiêm nhường nhất – những người có đủ khiêm nhường để tin, lắng nghe những gì họ chưa biết. Mầu nhiệm càng sâu sắc hơn khi chúng ta đã thấu hiểu, đã sở hữu nhưng Kinh Thánh trở nên rõ ràng hơn khi tôi chiêm nghiệm bản thân, với lòng khiêm nhường. Theo Thánh Augustinô, Kinh Thánh là tấm gương để khám phá chính mình, ngài viết: “Kinh Thánh đã được ban cho chúng ta như một tấm gương.” Kinh Thánh là tấm gương của người tín hữu. Đức tin được trải nghiệm qua việc đọc Kinh Thánh. Một quyển sách trên trời (Tự Thú XIII, 18). Chính Thiên Chúa trở thành quyển sách, được trao ban cho “những trái tim chia rẽ đang hướng nhìn về vô tận”.
Marta An Nguyễn dịch