Trong một thế giới bị đánh dấu bởi bạo lực, Đức Lêô XIV: một triều chuyển tiếp?

62

Trong một thế giới bị đánh dấu bởi bạo lực, Đức Lêô XIV: một triều chuyển tiếp?

resnovae.fr, Linh mục Claude Barthe, 2025-08-04

“Si-môn, Si-môn ơi, kìa Xatan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo, nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22:31-32).

Chúng ta đã có dịp nói triều Đức Phanxicô với những lời nói hùng hồn sẽ có thể tạo nên, nếu không phải là giai đoạn cuối cùng của thời kỳ hậu Công đồng Vatican II, thì ít nhất cũng là giai đoạn gần kết thúc của nó. Tất nhiên, với điều kiện là có những người trong Giáo hội có đủ quyết tâm cần thiết để lật qua trang mới. Nếu không, và trong lúc này, chúng ta có thể hy vọng có một loại chủ nghĩa hiện thực tạm thời, nhờ đó các lực lượng công giáo có thể tồn tại, có thể sống và phát triển. Nhưng chắc chắn, chính sự trở lại vĩ đại của trật tự huấn quyền mới là điều mà Giáo hội Chúa Kitô mong muốn và các mục tử của Giáo hội phải chuẩn bị. 

Một Giáo hoàng để “làm dịu các căng thẳng”

Các giáo hoàng hậu-Công đồng đã dồn hết tâm sức để khắc phục những rạn nứt không tránh được do sự suy sụp của giáo lý giáo hội học, và kể từ Đức Phanxicô, là sự sụp đổ của giáo lý hôn nhân. Những rạn nứt về giáo lý này được thấy qua những rạn nứt cải cách phụng vụ, mang mùi vị tự do và màu mè. Không có “một chú giải” nào có thể hàn gắn được những mảnh vỡ của chiếc bình đã vỡ. Sứ điệp truyền giáo của Giáo hội đã dần dần tan biến, cùng lúc với sự giảm sút linh mục và giáo dân. Hơn nữa, phong cách hành động của Đức Phanxicô trong triều của ngài đã làm cho hỗn loạn lan rộng.

Vì thế Tân Giáo hoàng, người của suy tư, của cầu nguyện, của lắng nghe cần thiết hơn bao giờ hết, nhưng ngài cũng là người không dễ thấm nhập. Nhưng với sự hiệp nhất nào? Sự hiệp nhất mà những người đưa ngài lên ngôi, tất cả đều đến từ giới lãnh đạo công đồng, và nói theo từ ngữ của Đức Bergoglio là đồng thuận hòa bình, tuân thủ các “thành tựu” vĩ đại hay đúng hơn là sự hiệp nhất xung quanh Lời Chúa, “hữu hiệu và sắc bén hơn bất cứ lưỡi gươm hai lưỡi nào” (Dt 4:12)?

Trong những ngày cuối cùng trước mật nghị tháng 5, các nhà báo Ý đã thấy Hồng y Prevost, giám chức nghiêm túc và dè dặt, người được những người am hiểu nhất cho rằng ngài sẽ “được bầu”, với họ, ngài dường như quá lo lắng. Có người lại thấy ngài ít lo lắng. Viễn cảnh quản trị một Giáo hội trong tình trạng này thì nhà lãnh đạo phải run.

Các hồng y “tìm người làm giáo hoàng” muốn tìm một người kế vị Đức Phanxicô nhưng phải khác biệt. Dù có một số bất đồng trong quá khứ, Đức Bergoglio đã nhận ra các đức tính của tu sĩ dòng Augustinô này. Không ai có thể phủ nhận sức cuốn hút của Đức Phanxicô, phong cách lãnh đạo và cả khả năng chuẩn bị người kế nhiệm mình: khác biệt, điềm tĩnh. Trong một thời gian ngắn, ngài đã nâng Hồng y Robert Francis Prevost lên chức vụ cao nhất. Năm 2018 trong chuyến tông du Peru, ngài đã thấy rõ các đức tính nổi bật của Giám mục Prevost. Năm 2013 ngài đã giao chức Giám quản Tông tòa, năm 2014 ngài phong Giám mục của Chiclayo, năm 2023 ngài phong Bộ trưởng Bộ Giám mục, một Bộ thiết yếu trong chính quyền Rôma, rất quan trọng dưới triều Đức Phanxicô, vì với ý chí chính trị kiên định, Đức Phanxicô  muốn đổi mới cả Hội đồng Giám mục và Hồng y đoàn. Chưa đầy hai năm trước khi làm Giáo hoàng, Hồng y Prevost đã là Bộ trưởng, Hồng y, Chủ tịch Ủy ban Giáo hoàng về Châu Mỹ Latinh (1).

Với Hồng y Prevost, người mang đậm chất Peru hơn Mỹ, thì đây đúng là Châu Mỹ La-tinh trong Giáo triều Rôma. Bên cạnh ngài là nhân vật chủ chốt: Giám mục Brazil Ilson de Jesus Montanari, 65 tuổi, người có ảnh hưởng lớn, Thư ký Bộ Giám mục, một công chức hiệu quả, một Bergoglian của vòng thân cận, được Đức Phanxicô bổ nhiệm năm 2013. Ngài đã giám sát – và vẫn giám sát cho đến ngày nay – việc chuẩn bị hồ sơ các giám mục sẽ bổ nhiệm và những người sẽ bãi nhiệm, hơn nữa, ngài trở thành Thư ký Bộ Giám mục, Thư ký của Hồng y đoàn và từ đó là thư ký mật nghị. Đức Phanxicô cũng đã bổ nhiệm ngài làm Phó Nhiếp chính của Giáo hội (Camerlengo trong trường hợp này là Hồng y Kevin Farrell, chỉ đạo các vấn đề thế tục trong thời gian trống tòa). Nhìn chung, Giám mục Montanari là thư ký điều hành của chính phủ Bergoglio, đóng vai trò quan trọng trong thời gian trống tòa và thường sẽ là hồng y trong công nghị phong hồng y đầu tiên của Đức Lêô. Có vẻ như các hồng y Mỹ La-tinh đã có một vai trò quan trọng trong việc thăng chức Hồng y Prevost. Hồng y Versaldi, cựu Tổng trưởng Bộ Giáo dục, cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thăng tiến Hồng y Prevost, ngài là cựu Tổng trưởng Bộ Giáo dục, cũng đã chuẩn bị con đường để lên ngôi giáo hoàng. Liệu Hồng y Hollerich có đàm phán, sau vòng bỏ phiếu đầu tiên để Hồng y Pietro Parolin rút lui, mở đường cho Hồng y Robert F. Prevost và bảo đảm cho ngài có cuộc bầu cử thành công không? Sau cuộc bầu cử, ông Lucio Caracciolo, giám đốc tạp chí địa chính trị Limes, giới thiệu Tân giáo hoàng là người được chọn để ngăn chặn nguy cơ tan rã của Công giáo (2). Và sử gia Alberto Melloni, lãnh đạo trường phái Bologna, nhấn mạnh khả năng của Đức Lêô trong việc “xoa dịu căng thẳng, làm phẳng những góc cạnh thô tháp (3).

Ngày 4 tháng 5, bốn ngày trước cuộc bầu cử, Linh mục Dòng Tên Antonio Spadaro, thuộc Bộ Văn hóa Giáo dục, cựu giám đốc tạp chí Văn minh Công giáo (La Civiltà Cattolica) đã viết một bài trên tờ La Repubblica: “Thách thức thực sự không phải là sự thống nhất mà là sự đa dạng”, một bài báo chúng tôi đã trích dẫn (4): “Chúng ta hãy cam kết biến sự khác biệt của chúng ta thành phòng thí nghiệm của sự thống nhất và hiệp thông, của tình huynh đệ và hòa giải, để tất cả mọi người trong Giáo hội, với lịch sử cá nhân của mình, học cách đồng hành với người khác (5).” Linh mục Spadaro giải thích: “Giáo hội, giống như bất kỳ thực tại tập thể nào, không còn thể hiện bản thân một cách đồng nhất và đơn điệu. Sự gắn kết không thể tìm thấy trong sự đồng nhất, mà trong khả năng chào đón và hòa hợp sự đa dạng.”

Có lẽ Đức Lêô XIV có một quan niệm ít bao quát hơn về sự đa dạng có thể hòa hợp so với Linh mục Antonio Spadaro, nhưng thực sự chính vì mục đích này – hòa hợp, xoa dịu – mà ngài được bầu làm Giáo hoàng. Thông điệp đầu tiên vào buổi tối đắc cử, ngài nhắc đến từ “hòa bình” mười lần, mời gọi chúng ta “xây dựng những cây cầu thông qua đối thoại, thông qua gặp gỡ”. Phong cách và ngôn ngữ của ngài mang tính tâm linh nhiều hơn so với tiền nhiệm của ngài, ngài nhấn mạnh mong muốn xoa dịu này. Phong cách có sự pha trộn giữa hài hòa và giản dị, gần gũi với giáo dân và mong muốn hiện thân cho chức vụ với những biểu tượng của chức vụ.

Lời cam kết của ngài với tiến trình Thượng Hội đồng đóng một vai trò quan trọng trong việc ngài đắc cử. Vì thế sự tiếp nối này được củng cố với sự tái tập trung về giáo luật và tâm linh. Linh mục Alberto Royo Mejía, sử gia về các thánh đương thời, người cổ vũ đức tin tại Bộ Phong Thánh, được tân giáo hoàng đánh giá cao, cũng như Cha Clodovis Boff, tu sĩ dòng Phanxicô của Brazil, một trong những tên tuổi lớn trong thần học giải phóng cùng với anh là Leonardo Boff, người sau này đã rời khỏi hàng giáo sĩ. Một tháng sau cuộc bầu cử, ngày 13 tháng 6, Clodovis Boff đã gởi một thư ngỏ đến tất cả các giám mục của CELAM, Hội đồng Giám mục Mỹ La-tinh (6), vừa kết thúc kỳ họp thường lệ lần thứ 40, Đức Lêô XIV cũng đã gởi một thông điệp đến họ. Clodovis nói với các giám mục: “Các vị đã hiểu những gì Giáo hoàng yêu cầu các vị chưa? Các anh em, các giám mục của CELAM, luôn lặp lại câu chuyện cũ: xã hội, xã hội và xã hội. Và các anh em đã làm điều này trong 50 năm.” Ngài xin họ rao giảng “Tin mừng về Thiên Chúa, về Chúa Kitô, về Thánh Thần của Người, về ân sủng và ơn cứu độ, về cầu nguyện và thờ phượng, về lòng đạo đức với Mẹ Thiên Chúa” và những chủ đề tương tự khác.

Chúng ta phải nắm bắt được sự phức tạp của các lập trường và nhận ra rằng, ở đây, chúng ta không đi chệch quá xa khỏi đường lối của Bergoglio. Năm 2007, khi Đại hội đồng Giám mục Mỹ La-tinh họp lần thứ 5 tại đền thánh Đức Mẹ Aparecida ở Brazil, Clodovis Boff đã tham gia, cùng với Hồng y Tổng Giám mục Buenos Aires, Jorge Bergoglio, người chủ trì Ủy ban soạn thảo tài liệu cuối cùng của hội nghị, trong việc chống lại “chủ nghĩa giản lược xã hội hóa” của thần học giải phóng. Bởi vì, trái với niềm tin chung, Jorge Bergoglio, người theo chủ nghĩa Peron, lại là người chống chủ nghĩa Marx.

Một bước đi tự do hóa phụng vụ truyền thống? Nếu Đức Lêô không làm giảm được căng thẳng, một không gian tự do lớn hơn có thể mở ra cho mọi khuynh hướng, một cách có kiểm soát, sau khi đã thận trọng chờ đợi. Việc phụng vụ truyền thống sẽ có thêm không gian để thở là điều hoàn toàn hợp lý, vì Đức Lêô sẽ dễ dàng ban cho những người gắn bó với truyền thống này những quyền tự do như khoan dung xoa dịu, những nhịp cầu được bắc ra để chào đón tất cả mọi người, mà không cần phải đưa ra lập trường về bản chất. Đúng là ở Pháp, một số lượng lớn giám mục xem giới truyền thống là một cạnh tranh không thể chịu đựng được, họ chưa sẵn sàng cho điều này và đang bám vào một đường lối giản lược tối đa. Mong muốn của họ là giảm thiểu tối đa sự hiện diện của một tu sĩ chuyên về phụng vụ cổ xưa trong giáo phận của họ, có khả năng làm tất cả phụng vụ.

Các buổi lễ mục vụ và giáo lý khác sẽ vẫn tiếp tục, ngay cả khi cán cân quyền lực dần nghiêng về nghi lễ cổ xưa, chẳng hạn ở các tỉnh lẻ.

Thực tế, nếu Đức Lêô, người theo chủ nghĩa công đồng không chút e ngại, thiếu sự gần gũi mà Đức Bênêđictô XVI đã có được với một phần của thế giới truyền thống, thì khát vọng hòa bình của ngài có thể hòa nhập với khát vọng của những người ủng hộ chủ nghĩa tự do “cánh tả”. Hồng y Matteo Zuppi, Tổng Giám mục Bologna, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Ý, thành viên nổi bật của Cộng đồng Sant’Egidio, là ví dụ điển hình cho hình thức cởi mở này, có thể so sánh với tư tưởng của Cha Spadaro. Trong bài viết được trích dẫn ở trên, Cha Spadaro đã hoan nghênh việc Đức Phanxicô ban cho Hội Thánh Piô X các khả năng làm các bí tích. Còn Hồng y Zuppi, ngài không ngần ngại cử hành nghi lễ giáo hoàng cổ xưa, ngài còn làm lễ khai mạc cuộc hành hương Summorum Pontificum tại Rôma năm 2022. Không giống như các giám mục Pháp, những người muốn thấy những người theo chủ nghĩa truyền thống gia nhập thế giới Lefebvrist, Hồng y Zuppi (và cả Đức Lêô?) cho rằng tốt hơn hết là những người cử hành  phụng vụ truyền thống nên “làm ở bên trong” hơn là mở rộng “ra bên ngoài” một cách không thể kiểm soát. Hơn nữa, liệu triều Đức Lêô có thể tránh việc trao thêm tự do, không chỉ cho những người theo chủ nghĩa truyền thống, mà còn rộng hơn cho cái được gọi một cách hơi cường điệu là “lực lượng sống động của Giáo hội”, toàn bộ các khuynh hướng ngày nay đang lấp đầy các nhà thờ, đặc biệt là giới trẻ, các gia đình đông con, những người cung cấp ơn gọi linh mục và tu sĩ, những người khơi dậy sự trở lại Cộng đồng Emmanuel, Cộng đồng Saint-Martin, và một vài tu viện nam nữ chiêm niệm đang phát triển mạnh mẽ?

Nhưng có một nghịch lý, thậm chí là một nguy cơ, với những người đòi hỏi sự tự do khỏi phụng vụ truyền thống và giáo lý truyền thống, khi điều này lại được cấp phép cho tính công giáo về phụng vụ và giáo lý. Chúng ta đã trích dẫn ví dụ về tình huống nghịch lý xuất hiện ở thế kỷ 19 trong hệ thống chính trị Pháp, nơi những người ủng hộ trung thành nhất của cuộc Khôi phục chế độ quân chủ, về nguyên tắc là kẻ thù của các quyền tự do hiện đại do Cách mạng mang lại, liên tục đấu tranh để có được một không gian sống, có được tự do báo chí, tự do giáo dục. Nếu mọi thứ đều bình đẳng, trong hệ thống giáo hội của thế kỷ 21, ít nhất là ngay lập tức, việc nới lỏng chế độ chuyên quyền tư tưởng của cuộc cải cách có thể mang lại lợi ích.

Nhưng thay vì lo lắng về nguy cơ của phe đối lập với cải cách phụng vụ mà họ có thể được hưởng nhiều tự do hơn, trước hết chúng ta phải xem xét, dù có thể có lợi trong ngắn hạn hoặc trung hạn cho phe đối lập này, nhưng cuối cùng nó chỉ có thể gây ra sự bất mãn triệt để.

Nội dung các tuyên bố của Đức Lêô ngụ ý mạnh ngài có ý định tiếp tục con đường của Đức Phanxicô trong việc xây dựng một Giáo hội công đồng. Đức Lêô cho biết thỏa thuận giữa Vatican và Trung Quốc về việc bổ nhiệm giám mục sẽ được tiếp tục. Ngài tiếp tục thúc đẩy thông điệp Laudato Si’ của Đức Phanxicô và lời kêu gọi chăm sóc công trình tạo dựng. Ngài lấy cảm hứng từ Tông huấn Niềm vui Tình yêu, Amoris Laetitia của Đức Phanxicô, vốn bị chỉ trích; những người chỉ trích cho rằng cuộc gặp với Thiên Chúa ‘không thể đưa ra những câu trả lời vội vàng cho những câu hỏi khó, nhưng đến gần con người, lắng nghe họ và cố gắng thấu hiểu họ. (7) Thực tế, Đức Lêô XIV là người chịu trách nhiệm về di sản của Đức Phanxicô. Về cơ bản, di sản này mang tính công đồng, nếu chúng ta bỏ qua tính đồng nghị, vốn chống lại mọi nỗ lực định nghĩa chính xác và cam kết sinh thái, có thể được tóm tắt trong ba văn bản: Amoris Laetitia, Fiducia Suplicans về luân lý hôn nhân, Traditionis Custodes về phụng vụ truyền thống.

Về luân lý hôn nhân, chúng ta biết Đức Lêô XIV không ủng hộ việc ban phép lành cho các cặp đồng giới. Tuy nhiên, cần lưu ý việc ban phép lành cho các cặp bất thường được cho phép bởi số 31 của Tuyên ngôn Fiducia Suplicans (8) về cơ bản liên quan đến các cặp đã ly hôn và “tái hôn”. Một số ít cặp đồng tính xin ban phép lành đã che giấu cả rừng các cặp ngoại tình gây áp lực buộc các linh mục giáo xứ phải ban phép lành, đóng vai trò như một “hôn nhân trong nhà thờ”, và trong nhiều trường hợp, họ đã nhận được phép lành. Trên thực tế, Fiducia supplicans củng cố Tông huấn Amoris Laetitia, vốn chắc chắn là một sự chấp thuận cho sự suy thoái của hôn nhân Công giáo. Toàn bộ khó khăn của Tông huấn Niềm vui Tình yêu, Amoris Laetitia tập trung ở số 31. 301 (9), từ đó chúng ta có thể rút ra đề nghị sau: Một số người sống trong tình trạng ngoại tình, ngay cả khi họ biết rõ chuẩn mực mà họ đang vi phạm, có thể không ở trong tình trạng tội trọng. Đức Lêô được cho là đã chấp nhận giáo huấn Bergoglio này, vốn làm suy yếu nghiêm trọng tính thiêng liêng của hôn nhân. Việc khéo léo lách luật một cách gián tiếp sẽ không đủ để làm cho nó mất hiệu lực. Ngài nhất thiết phải chấp thuận hoặc hủy bỏ nó.

Vì Giáo hội là nơi lưu giữ nội dung của Khải Huyền và Giáo lý đức tin và luân lý mà giáo lý này cần phải tuân thủ để được cứu rỗi. Sự hiệp nhất của Giáo hội được xây dựng xung quanh giáo lý này, Giáo hoàng, Đấng kế vị Thánh Phêrô, và các giám mục, những người kế vị các Tông đồ, được ủy thác để giảng dạy. Để bảo vệ đức tin, chúng ta không thể hài lòng với những tuyên bố làm giảm bớt sự dị giáo đó hoặc cân bằng qua những giáo lý trái ngược nhưng vẫn cho phép giáo lý sai lệch tồn tại. Vì sự cứu rỗi các linh hồn, cần phải xóa bỏ những giáo lý sai lầm.

Những nút thắt của Đức Phanxicô tạo ra chẳng phải là do Chúa quan phòng một cách nghịch lý hay sao? Nghĩa vụ, nếu được Đức Lêô hoàn thành, để giải quyết một cách thích hợp di sản Bergoglio, sẽ tạo cơ hội để quay trở lại với một huấn quyền hoàn toàn có thẩm quyền, tách biệt chân lý khỏi sự dối trá nhân danh Chúa Kitô của tất cả các vấn đề gây tranh cãi về đạo đức gia đình, đại kết, v.v., không chỉ phân biệt điều gì là Công giáo với điều gì không là Công giáo, mà còn phân biệt người Công giáo với những người tự nhận mình là Công giáo mà không phải Công giáo. Nếu không, chúng ta sẽ tiếp tục bối rối không biết đâu là bên ngoài và đâu là bên trong một Giáo hội bị nhấn chìm bởi một loại tân Công giáo không có giáo điều.

Việc trao quyền tự do cho truyền thống phụng vụ và tất cả những gì đi kèm chắc chắn là điều rất đáng mong muốn, nhưng chỉ là một giải pháp tạm thời. Liều thuốc đích thực giáo dân có quyền  mong đợi ở Giáo hoàng là ngài phục vụ cho sự hiệp nhất này, một phục vụ tích cực thông qua việc định nghĩa những chân lý cần tin, một phục vụ tiêu cực thông qua việc lên án những sai lầm cần bác bỏ. Vì, nếu quy tắc khách quan của đức tin duy nhất là Lời Chúa, thì chính quyền giáo hoàng, hay Giáo hoàng và các giám mục hiệp nhất với ngài, mới là nơi công bố nội dung sứ điệp của Sách Khải Huyền và đặt ra nghĩa vụ phải tuân thủ. Chẳng phải nhiệm vụ của Người kế vị Thánh Phêrô là củng cố anh em mình sao (Lc 22, 31-32)? Trước hết là các anh em giám mục của ngài. Hơn nữa, chính các anh em giám mục của ngài phải chất vấn ngài, xin lời khuyên của ngài, và ngay cả đi trước ngài trong việc làm sáng tỏ và lên án, dưới sự phân xử cuối cùng của lời phán quyết dứt khoát của ngài với tư cách là Người kế vị Thánh Phêrô. Đối với sự trở lại vĩ đại này trong việc thực thi quyền giáo huấn thông thường và phổ quát – và có thể là quyền giáo huấn uy quyền – thay cho quyền giáo huấn tự giới hạn là quyền giáo huấn mục vụ, vấn đề cực kỳ nhạy cảm và gây khó chịu về cuộc tranh cãi trong phụng vụ có thể đóng một vai trò quyết định. Nhờ Đức Bergoglio, vấn đề đã trở nên rất đơn giản: toàn bộ cách tiếp cận mang tính đàn áp của Cử hành thánh lễ theo phụng vụ tiền Công đồng (Traditionis custodes) thực ra dựa trên Điều 1: “Các sách phụng vụ do Đức Phaolô VI hay Đức Gioan-Phaolô II ban hành, theo các sắc lệnh của Công đồng Vatican II, là cách diễn đạt duy nhất của Luật cầu nguyện (lex orandi) thuộc Nghi lễ Rôma.” Câu ngạn ngữ luật cầu nguyện, luật đức tin (lex orandi, lex credendi) được đặt ra vào thời điểm xảy ra cuộc khủng hoảng Pelagius liên quan đến quyền năng của ân sủng, có nghĩa chúng ta sẽ tìm thấy trong các lời cầu nguyện của Giáo hội những công thức diễn tả những gì Giáo hội tin.

Câu ngạn ngữ này rất đúng (10). Theo Traditionis Custodes, do kết quả của cuộc cải cách, phụng vụ Rôma trước cải cách sẽ mất đi vị thế lex orandi của nó. Cần nhắc lại: điều rất đáng mong muốn được Đức Lêô ban cho phụng vụ này, trực tiếp hoặc gián tiếp được tự do hơn. Nhưng ngay cả khi điều này được chấp nhận, thì đề xuất sau đây vẫn sẽ đúng: Các sách phụng vụ có hiệu lực trước cuộc cải cách của Đức Phaolô VI không diễn đạt lex orandi của Nghi lễ Rôma. Câu hỏi Huấn quyền Giáo hội hiện có trách nhiệm quyết định là: đề xuất này đúng hay sai? Nếu là sai, nó phải bị lên án. Với những hậu quả sẽ xảy ra.

Linh mục Claude Barthe

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Chú thích

  1. Chúng ta không bắt buộc phải coi những mặc khải mà Helder Red đã trích dẫn từ một hồng y một ngày sau mật nghị và được ông tường thuật trên RomaToday, một trong những ấn bản của nhật báo trực tuyến Today ngày 21 tháng 7 là Phúc âm, nhưng chúng tương ứng với bài diễn văn của những người theo Bergoglio: “Prevost là ứng viên duy nhất của Bergoglio. Trước khi qua đời, Đức Phanxicô đã triệu tập tất cả các hồng y ngài có thể tin tưởng và nói với họ: ‘Sau tôi, xin đến lượt người Mỹ. Một nhà truyền giáo, một tu sĩ Dòng Augustinô sẽ là người tốt nhất cho Giáo hội hoàn vũ… Một ‘người bình thường hóa’ là cần thiết, một người có thể trấn an Giáo triều, ngay cả khi người này không phải là một phần của Giáo triều, người đã trấn an những người theo chủ nghĩa tiến bộ, không phải là người theo chủ nghĩa truyền thống, người đã trấn an những người theo chủ nghĩa truyền thống, vì người này được cho là người ôn hòa. (…) Tóm lại, chúng ta cần người có thể đoàn kết, ngay cả sau một chút u ám, nhưng sau màn pháo hoa, một chút im lặng là tốt… Đó là lựa chọn tốt nhất, chắc chắn là ít lấp lánh hơn, nhưng chúng ta cần người củng cố vai trò của Đức Phanxicô, chúng ta cần một Đức Phaolô VI có thể trấn an và khẳng định. Hồng y Prevost là người đáng kính, rất nghiêm túc, hữu ích, một nhà truyền giáo trong tâm hồn.”
  2. Phỏng vấn trên La Repubblica, ngày 10 tháng 6 năm 2025.
  3. Le Monde, op-ed, ngày 10 tháng 5 năm 2025.
  4. Res Novae, ngày 8 tháng 5 năm 2025.
  5. Đức Lêô bài giảng ngày 29 tháng 6 trên trang Zenit ngày 30 tháng 6 năm 2025.
  6. Carta-ao-CELAM-Frei-Clodovis-Boff.pdf.
  7. Mike Lewis, ngày 19 tháng 7 năm 2025.
  8. “Trong phạm vi được phác họa như vậy, có thể ban phép lành cho các cặp trong hoàn cảnh bất thường và các cặp đồng giới, theo hình thức không nên được các giáo chức giáo hội ấn định theo nghi lễ, để không làm nhầm lẫn với phép lành dành riêng cho bí tích hôn nhân. Trong các trường hợp này, một phép lành được ban không chỉ có giá trị mà còn là lời cầu xin một phép lành từ chính Thiên Chúa ban xuống cho những ai, nhận ra mình đang cần sự giúp đỡ của Ngài, không đòi hỏi tính chính đáng của địa vị của mình, nhưng cầu xin tất cả những gì chân thật, tốt lành và có giá trị nhân bản trong cuộc sống và các mối quan hệ của họ được chữa lành và nâng cao nhờ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần.
  9. “Để hiểu đúng lý do vì sao sự phân định đặc biệt là khả thi và cần thiết trong một số tình trạng bị cho là ‘bất thường’, có một câu hỏi luôn phải được lưu ý, để không bao giờ nghĩ rằng mình muốn giảm bớt những đòi hỏi của Phúc Âm. Giáo hội có sự suy tư đúng đắn về điều kiện và hoàn cảnh giảm nhẹ. Do đó, không còn có thể nói tất cả những ai thấy mình sống trong hoàn cảnh bị cho là “bất hợp lệ” nào đó đều sống trong tình trạng tội trọng, bị tước mất ơn thánh hóa. Những hạn chế này không chỉ liên quan đến việc có thể thiếu hiểu biết về quy tắc. Một chủ thể, cả những người rất quen thuộc với quy tắc, có thể gặp khó khăn lớn trong việc nắm bắt “các giá trị được bao hàm trong quy tắc” hoặc có thể thấy mình trong những hoàn cảnh cụ thể không cho phép hành động khác đi và đưa ra những quyết định khác mà không phạm thêm một lỗi nào nữa.”
  10. Ví dụ, giáo huấn của Công đồng Trent về Thánh lễ là “hy lễ đích thực và đích thực (verum et proprium)”, Niềm vui và sự sống tương đương với việc tích lũy các lời nguyện hy sinh của Thánh lễ Rôma vẫn còn hiệu lực cho đến Công đồng Vatican II. 

    Từ tiếng Pháp sang tiếng Đức: Đức Lêô dùng nhiều phương pháp để học nói nhiều ngôn ngữ

    “Làm sao có thể chấp nhận một linh mục bạo lực, dù đã thụ án lại được đối xử tốt hơn nạn nhân?”

    Félix Rousseau, 21 tuổi, đạp xe đạp đi Rôma dự Đại hội Giới trẻ