Giáo hoàng Lêô, nhà toán học: người công giáo đam mê toán xem ngài là người của họ
belgicatho.be, Matthew McDonald, NCR, 2025-06-05
Đức Lêô XIV là Giáo hoàng đầu tiên có bằng toán học: người công giáo có năng khiếu toán học xem ngài là người của họ!
“Giáo hoàng người Mỹ đầu tiên” không phải là điều đầu tiên giáo sư toán học công giáo Martin Nowak nghĩ đến khi ngài xuất hiện trên ban-công Đền thờ Thánh Phêrô ngày 8 tháng 5, nhưng giáo sư chú ý đến tên của ngài: “Lêô” có ba chữ cái. Tiếp theo là số hiệu triều của ngài: XIV-14. Ghép các số lại: 3 … 1 … 4 – 3.14.
“Vậy ngài là Giáo hoàng Pi,” đó là ý nghĩ đầu tiên đến với giáo sư toán và sinh học Đại học Harvard.” Pi: tỉ số giữa chu vi hình tròn và đường kính là một con số vô hạn và là một trong nhiều khái niệm Bob Prevost đã có thể nghiên cứu khi còn là sinh viên chuyên ngành toán tại Đại học Villanova từ năm 1973 đến năm 1977.
Một nghiên cứu của Register trước ngày bầu Đức Lêô 8 tháng 5 cho biết chưa có Giáo hoàng nào học toán là môn học chính trước khi làm Giám mục giáo phận Rôma, một giáo phận có nhiều sinh viên chuyên ngành thần học, triết học, giáo luật. Đức Lêô là nhà giáo luật, nhưng ngài nghiên cứu giáo luật sau khi tốt nghiệp đại học. Như thế các nhà toán học công giáo đang sống trong thời kỳ thịnh vượng.
Tác giả Novak viết: “Tôi không ngạc nhiên khi Giáo hoàng nghiên cứu toán học, vì tôi nghĩ Chúa là nhà toán học”. Martin Nowak, tác giả các sách Beyond (2024) và Within (2025), luận án tiến sĩ của tác giả có tựa đề “Chiến lược ngẫu nhiên trong tình thế tiến thoái lưỡng nan của tù nhân”.
Tác giả Novak giải thích: “Hoàn toàn hợp lý khi mục tử của Chúa trên Trái đất là chuyên gia toán học.”
Khi còn là thiếu niên, Prevost học trung học tại chủng viện Augustinian. Khi vào học Villanova, trường đại học Dòng Augustinô, ngài biết mình muốn vào Dòng Augustinô sau khi tốt nghiệp và làm linh mục, ngài đã làm như vậy. Vậy vì sao ngài học chuyên ngành toán? Với các nhà toán học, câu hỏi đúng là: vì sao ngài lại không làm như vậy?
Giáo sư Brad Jolly, chuyên ngành toán tại Đại học Michigan, đã làm việc 29 năm trong ngành thử nghiệm và đo lường điện tử, hỗ trợ các nhà sản xuất thiết bị y tế giải thích: “Thông thường mẫu người muốn làm linh mục là mẫu người người nhìn thấy trật tự, vẻ đẹp, sự thật và tính siêu việt của thiên nhiên trên thế giới, và những người thấy những điều này thường bị toán học thu hút một cách tự nhiên.”
Giáo sư Jolly, người bản xứ Longmont, Colorado đã trở lại đạo công giáo, giáo sư không chỉ quan tâm đến toán học, ông thu thập khoảng 500 quyển sách giáo khoa toán học từ khắp nơi trên thế giới và phát minh ra hàng chục câu đố toán học. Giáo sư phát triển các hoạt động toán học cho học sinh trường công giáo ở Uganda đã được Catholic News Agency đăng vào tháng 4 năm 2022. Giáo sư có kế hoạch trình bày phương pháp dạy toán lấy kinh nghiệm từ đạo công giáo có tên là “Uncommon Cor” (một cách chơi chữ từ tiếng Latin có nghĩa là “trái tim” và một hệ thống tiêu chuẩn giáo dục được gọi là “Common Core”), tại hội nghị toàn quốc của Viện Giáo dục Công giáo Tự do ở Lincoln, Nebraska vào tháng 7.
Trong cuộc phỏng vấn qua điện thoại với Register, giáo sư Jolly cho biết, nhiều người không thấy mối liên hệ rõ ràng giữa toán học và chức linh mục, giáo sư gọi tình huống này là “đau lòng”, vì giáo sư thấy có mối liên hệ chặt chẽ giữa toán học và thần học hệ thống, nhằm mục đích mang lại trật tự và tính thống nhất cho giáo lý kitô giáo. Giáo sư giải thích: “Chúng tôi chuyển từ cụ thể sang trừu tượng. Và chính trong toán học, trẻ em thực sự có cơ hội để làm điều này.”
Giáo sư Jolly nói: “Khi một giáo sĩ hỏi Chúa Giêsu trong 613 điều luật Kinh Thánh Do thái, điều răn nào quan trọng nhất, Chúa Giêsu tóm lại còn hai điều: kính Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn và yêu người như mình vậy” (Mc 12: 28-34).
Giáo sư cho biết đây chính là loại lý luận mà Giáo hội có thể rút tỉa được lợi ích. Giáo sư giải thích: “Có một Giáo hoàng có nền tảng toán học vào thời điểm này là một phúc lành. Tôi hy vọng ngài sẽ dùng khả năng này để suy nghĩ trừu tượng, có thể giải quyết nhiều vấn đề cùng lúc và đưa ra các giải pháp mang lại cho chúng ta các nguyên tắc. Đó chính là điều Chúa Giêsu đã làm.”
Tại sao toán học lại có thể
Việc ngài học môn toán là một quyết định đặc biệt. Nếu ngài học đại học sớm vài năm, giữa những năm 1970, toán học sẽ không là môn học ngài chọn. Trước năm 1972, các chủng sinh Dòng Thánh Âugustinô của Villanova phải học triết học. Theo linh mục Dòng Augustinô Michael Di Gregorio, tác giả bài viết “Lịch sử dòng Augustinô ở Bắc Mỹ, 1850-1920”, cha cho chúng tôi biết qua e-mail, năm đó, Dòng cho phép chủng sinh học các môn khác miễn là họ có được ít nhất 30 tín chỉ triết học. Prévost là chủng sinh Tỉnh Dòng Chicago, trước các thay đổi sau Công đồng Vatican II, chủng sinh trong các Dòng phải học triết học.
Sư huynh Dòng Biển Đức Norman Hipps dạy toán tại trường Cao đẳng Vinh Sơn ở Latrobe, Pennsylvania, sư huynh làm hiệu trưởng từ năm 2010 đến năm 2019. Trong những năm 1960, khi còn là chủng sinh, hai năm đầu đại học chủng sinh phải học triết học. Chỉ sau khi không muốn làm linh mục, chủng sinh mới được chuyển sang học toán. Cuối cùng sư huynh có bằng Tiến sĩ toán học với luận án “Lý thuyết Thom/Boardman cơ bản cho đặc số P lớn hơn 0”.
Thầy Norman Hipps xem toán học là môn đào tạo tuyệt vời cho linh mục, dù cả khi họ không trở thành linh mục: “Toán học là lãnh vực nghiên cứu hấp dẫn, dù thuần túy hay ứng dụng. Toán học đòi hỏi có sự nghiêm ngặt cần thiết – chứng minh những gì cần chứng minh, để thuyết phục người khác – và có một trực giác tốt. Về những việc mà một linh mục phải làm, dù là suy nghĩ đúng đắn hay chú ý đến những cách nhìn khác nhau về một tình huống, và đôi khi ngạc nhiên thấy, điều có vẻ sai lại là sự thật khi chúng ta ghép các mảnh ghép lại với nhau một cách chính xác, tôi nghĩ đây là lãnh vực tuyệt vời cho bất kỳ ai muốn thành mục tử – hoặc đi tìm Chúa, theo cách nói của tu viện.”
Các sự thật vĩnh cửu
Toán học không còn là chuyện hiếm hoi với các ứng viên chức linh mục ngày nay.
Theo nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Ứng dụng Tông đồ của Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ, khoảng 10% ứng viên linh mục được chịu chức mùa xuân năm 2025 có bằng toán học hoặc khoa học. Theo sách “Các giám mục Công giáo tại Hoa Kỳ” năm 2019 có 9% các Giám mục báo cáo có bằng cấp khoa học, công nghệ, kỹ thuật hoặc toán học – các ngành được gọi chung là STEM (khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học) – cũng giống Đức Phanxicô, ngài đã học hóa học trước khi vào chủng viện.
Đối với các nhà toán học, xu hướng này có lý. Giáo sư toán Carlo Lancellotti trường Cao đẳng Staten Island, trong một bài giảng tại Viện Gioan-Phaolô II ở Washington, DC tháng 12 năm 2024 giải thích: “Toán học đưa chúng ta đến lãnh vực của sự chắc chắn và tất yếu.” Giáo sư giải thích tính nghiêm ngặt của toán học có liên quan đến thói quen và tư duy tôn giáo: “Toán học dạy chúng ta cách chiêm nghiệm các chân lý vĩnh cửu và hoàn hảo, để làm được điều này, toán học đòi hỏi một loại kỷ luật khổ hạnh: phải kiên nhẫn hoàn thành tất cả các bước chứng minh và tuân theo tính tất yếu của nó.”
Giáo sư giải thích: “Nền tảng toán học của Đức Lêô đã làm cho ngài tự tin so với các giáo sĩ khác khi nói về trí tuệ nhân tạo, như ngài đã làm chỉ hai ngày sau khi đắc cử.”
Giáo sư James Franklin đã nghỉ hưu của Khoa Toán và Thống kê của Đại học New South Wales, Úc cho rằng nền tảng toán học của Đức Lêô làm ngài tự tin hơn khi nói về trí tuệ nhân tạo, như ngài đã nói chỉ hai ngày sau khi được bầu. Giáo sư thấy một số lợi thế trong việc đào tạo toán học cho linh mục công giáo. Thống kê thuộc Đại học New South Wales ở Úc cho rằng nền tảng toán học của Đức Lêô làm cho ngài tự tin hơn khi nói về trí tuệ nhân tạo, như ngài đã nói chỉ sau hai ngày được bầu, so với các tu sĩ khác.
Giáo sư Franklin cũng nói rằng ông thấy một số lợi thế trong việc đào tạo toán học cho linh mục công giáo. Giáo sư đưa ra bằng chứng: Galilêô đã đề cao tính chắc chắn của toán học so với tính không chắc chắn của luật pháp và khoa học nhân văn, trong quyển sách Đối thoại về hai hệ thống thế giới của ông xuất bản năm 1632.
Ý tưởng cơ bản là nghiên cứu toán học giúp chúng ta nhận thức được một loại thực tại vĩnh hằng nào đó. Qua chứng minh toán học, chúng ta không những chỉ hiểu định lý Pythagore là đúng mà còn hiểu vì sao nó phải đúng trong mọi thế giới có thể. Điều này mang đến cho chúng ta một điểm tựa, một lập trường trí tuệ vững chắc để chúng ta có thể hoài nghi về những thay đổi trong quan điểm về khoa học nhân văn, chính trị, v.v. Qua e-mail, giáo sư Franklin trả lời tờ Register: “Đặc biệt là trong thời đại hậu hiện đại, một nền giáo dục giới hạn trong các ngành nhân văn, luật, chính trị, v.v. có thể gợi ý một quan điểm lịch sử theo đó tất cả ‘sự thật’ đều phải thận trọng và có thể phát triển theo thời gian. Một sinh viên tốt nghiệp ngành toán sẽ không bị cám dỗ để tin vào điều này. Điều này sẽ làm anh tự tin hơn vào khả năng có được những sự thật vĩnh cửu về các vấn đề tâm linh và đạo đức, điểm khởi đầu thiết yếu để trở thành một linh mục tự tin.”
Giáo sư Jolly nhấn mạnh đến thông điệp Fides et Ratio (Đức tin và Lý trí) năm 1998 của Thánh Gioan-Phaolô II, ngài nói “giống như đôi cánh mà tinh thần con người vươn lên để chiêm nghiệm chân lý”. Giáo sư Jolly lưu ý: “Tầm quan trọng của đức tin là điều hiển nhiên với những người có đức tin. Nhưng đôi khi một số người bỏ qua lý trí. Và tôi nghĩ toán học giúp chúng ta phát triển nó.”
“Và tôi nghĩ thật tuyệt vời khi chúng ta có một Giáo hoàng là nhà toán học.” Giáo sư Jolly
Matthew McDonald là phóng viên của tờ National Catholic Register và là biên tập viên cấp cao của tờ New Boston Post. Ông sống ở Massachusetts.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Hành hương ở Miền Nam Chicago, quê hương Đức Lêô