Sau mười năm thảm thương, Đức Phanxicô phải đối diện với tình thế tiến thoái lưỡng nan như Gorbachev

136

Sau mười năm thảm thương, Đức Phanxicô phải đối diện với tình thế tiến thoái lưỡng nan như Gorbachev

cruxnow.com, John L. Allen Jr., 2023-03-12

Vào lúc đánh dấu mười năm ở đỉnh cao quyền lực của nhà lãnh đạo không đitrơ trẽnvào quy củ, mọi thứ sẽ không còn giống như cũ. Tinh thần cởi mở, đam mê cải cách, tinh thần khả thi mạnh mẽ của ngài đã chiếm được trí tưởng tượng của thế giới và đẩy thể chế ngài điều khiển vào vùng nước chưa được khai phá.

Tuy nhiên, điều cũng rõ ràng không kém là nhà lãnh đạo đầy mê hoặc này lại để thoát đi nguồn năng lượng mà cuối cùng ngài sẽ không thể kiểm soát được.

Bất chấp sự nổi tiếng lớn lao ở nước ngoài, nhà lãnh đạo phải đối diện với sự phản đối quyết liệt trong nước từ cánh hữu đến cánh tả, làm cho chính thể chế của ngài bị xâu xé, phân cực và ngày càng mong manh. Mười năm không thể tưởng tượng, đã thay đổi những chuyện cũ trước đây, phá vỡ những điều chắc chắn cũ, tạo ra một bối cảnh trong đó hầu hết mọi thứ dường như đều có thể xảy ra – kể cả những kết quả mà ngay cả người đứng đầu không có ý định hoặc không mong muốn.

Điều này có thể dễ dàng xem như một mô tả về Đức Phanxicô bây giờ khi ngài kỷ niệm 10 năm ở ngai Thánh Phêrô. Tuy nhiên, trên thực tế, đó là đặc điểm của Thủ tướng Liên Xô Mikhail Gorbachev vào đầu năm 1991, ngay trước khi Đế chế Xô Viết ông lãnh đạo và ông tuyệt vọng muốn thay đổi từ bên trong, đã sụp đổ. Bây giờ rõ ràng Đức Phanxicô đang gặp phải “vấn đề Gorbachev” – bên ngoài Giáo hội công giáo hoan nghênh, nhưng bên trong là sự phản đối trơ trẽn. Cũng như Gorbachev, kẻ thù của Đức Phanxicô vừa đến từ cánh hữu theo chủ nghĩa truyền thống không hài lòng với chương trình nghị sự tiến bộ của ngài, vừa đến từ cánh tả thiếu kiên nhẫn ngày càng khao khát một cuộc cách mạng thực sự hơn là cải cách sơ sơ.

Sau vài năm nắm giữ quyền lực hiệu quả sau ngai của các thủ tướng yếu ớt Yuri Andropov và Konstantin Chernenko, Gorbachev đã chiếm được vị trí hàng đầu vào giữa những năm 1980 và nhanh chóng đưa ra các chính sách đặc trưng của ông về glasnost, “cởi mở” với tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do bất đồng chính kiến, và perestroika, tái cơ cấu”, tìm cách phi tập trung hóa việc ra quyết định để nâng cao hiệu quả của nó.

Gorbachev khéo léo, có đầu óc cải cách nhanh chóng trở thành hiện tượng toàn cầu, và mang lại hy vọng một thể chế trước đây dường như bị mắc kẹt trong thời gian thực sự có khả năng thay đổi thực sự.

Sự tương đồng với Đức Phanxicô gần như rõ ràng. Ngài đã thúc đẩy một phiên bản giáo hội của glasnost, dỡ bỏ những điều cấm kỵ cũ và khuyến khích tranh luận mạnh mẽ về những vấn đề đã bị đóng băng trước đó, từ tiếp cận với cộng đồng nam nữ đồng tính đến vai trò của phụ nữ trong Giáo hội, giáo sĩ kết hôn và các vấn đề khác. Ngài cũng đưa ra một chương trình phi tập trung hóa, được gọi là “tính đồng nghị”.

Sau khi nắm quyền, Gorbachev báo hiệu một đoạn tuyệt mạnh mẽ với quá khứ, ông công khai đảo ngược một số quan điểm của các người tiền nhiệm. Ông trả tự do cho những người bất đồng chính kiến như Andrei Sakharov, bác bỏ “học thuyết Brezhnev” biện minh cho các cuộc xâm lược của quân đội Liên Xô vào các quốc gia vệ tinh và rút quân đội Liên Xô ra khỏi Afghanistan.

Với tinh thần tương tự, Đức Phanxicô đã phục hồi những nhân vật bị gạt ra ngoài lề dưới thời các giáo hoàng trước đó (hồng y Walter Kasper, Oscar Rodriguez Maradiaga) và đảo ngược hướng đi của Giáo hội như vấn đề rước lễ cho những người ly dị tái hôn dân sự và thánh lễ la-tinh.

Với một độ lùi, rõ ràng Gorbachev dự định đạt được điều gì đó: ông muốn làm sống lại điều mà ông xem là lời hứa ban đầu của hệ thống Xô Viết, hai cam kết của ông với công bằng xã hội và đoàn kết toàn cầu, với xác quyết giải phóng khỏi những kỳ vọng về chỉ huy và kiểm soát của nó, tầm nhìn đó sẽ đủ mạnh để duy trì một tương lai mới và tốt đẹp hơn cho bộ máy thể chế Liên Xô.

Cuối cùng, dĩ nhiên đó không phải là dòng lịch sử đã đi.

Thay vào đó, các phần tử cánh hữu do cái gọi là “Gang of Eight” đã cố làm đảo chính chống Gorbachev tháng 8 năm 1991. Sự thất bại của nỗ lực đó đã khuyến khích những người theo chủ nghĩa tự do, những người thiếu kiên nhẫn với tốc độ thay đổi; do Boris Yeltsin lãnh đạo, về cơ bản, họ đã dàn dựng một loạt sự kiện dẫn đến sự chuyển đổi nhanh chóng, thành một liên bang gồm các quốc gia độc lập, đánh dấu kỷ nguyên Xô Viết đã thực sự kết thúc.

Cho đến khi qua đời vào năm ngoái, Gorbachev luôn khẳng định nếu tầm nhìn của ông về một hệ thống Xô Viết đổi mới chiếm ưu thế, thì nước Nga sẽ tránh được sự sụp đổ kinh tế của thời hậu cộng sản ngay lập tức, cũng như tránh được việc quay trở lại chủ nghĩa độc tài và tham vọng đế chế dưới thời Vladimir Putin. Tuy nhiên, ông thừa nhận ông đã gây ra một trận lở đất mà ông không thể kiểm soát được.

Câu hỏi bây giờ là xem liệu đó cũng là số phận của Đức Phanxicô hay ngài có thể kiểm soát được tình hình.

Giống như Gorbachev trước đây, Đức Phanxicô phải đối diện với một cánh hữu mạnh mẽ bên trong hệ thống của ngài, gồm một lượng lớn các người quản trị cấp trung mà ngài phụ thuộc vào để quản trị, điều này làm sợ mọi thứ đang đi quá xa. Dù họ không có khả năng làm một cuộc đảo chính thực sự, nhưng chắc chắn họ có khuynh hướng phản kháng, chủ động hoặc thụ động với phần lớn chương trình nghị sự của ngài.

Trong khi đó, ngài cũng phải đối diện với một nhóm ngày càng nhiều của những người theo chủ nghĩa tự do không muốn chờ sự cho phép để thực hiện những cải cách thậm chí còn sâu rộng hơn, có lẽ rõ ràng nhất là ngay bây giờ ở các khu vực của Tây Âu như ở Đức và Bỉ. Cuộc bỏ phiếu gần đây của các giám mục Đức cho phép ban phép lành cho các kết hợp đồng giới, bất chấp chỉ thị của Vatican, nhắc lại một cách kỳ lạ về cuộc bầu cử năm 1990 ở Xô Viết Tối cao Nga, khi rõ ràng Yeltsin và những người theo chủ nghĩa tự do khác thúc đẩy chương trình nghị sự của họ bất chấp lời kêu gọi kiềm chế của Gorbachev.

Đúng là Giáo hội công giáo có một sức mạnh bền bỉ vượt xa Liên Xô. Liên Xô tồn tại chưa đầy 70 năm; công giáo đã tồn tại hơn 2.000 năm. Cho dù những mâu thuẫn dưới thời Đức Phanxicô có thể tăng đến mức nào, thì Giáo hội của ngài lãnh đạo cũng khó bị giải thể một cách đơn thuần.

Tuy nhiên, câu hỏi vẫn còn đó: liệu cuộc cải cách ôn hòa do Đức Phanxicô vạch ra có thể tồn tại lâu dài hay các năng lượng ly tâm của một kỷ nguyên phân cực sâu sắc sẽ trở nên dữ dội đến mức không thể tránh khỏi rạn nứt?

Nói cách khác, có phải số phận của Đức Phanxicô đã được định sẵn để làm theo kịch bản của Gorbachev cho đến tận cùng – uống cạn chén đắng đến giọt cuối, theo ngôn ngữ của Thánh Vịnh? Hoặc, với khả năng phục hồi tương đối lớn hơn của công giáo và cơ hội học hỏi kinh nghiệm của chính Đức Phanxicô, liệu ngài có thể thành công khi Gorbachev thất bại, để lại phía sau một thể chế hồi sinh sẵn sàng đối diện với những thách thức với năng lượng và ý thức mục đích mới?

Còn quá sớm để nói, nhưng ít nhất chúng ta có thể hình dung mọi thứ theo cách này với Đức Phanxicô sau 10 năm: Trong phần còn lại nhiệm kỳ của ngài, bi kịch là liệu ngài sẽ là Gorbachev của lịch sử hay Gorbachev của một vũ trụ song song trong đó mọi thứ thực sự diễn ra theo kế hoạch.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch