Andrea Riccardi: “Có phải đây là kết thúc của Giáo hội hay khởi đầu của một lối sống mới của kitô giáo?”

138

Andrea Riccardi: “Có phải đây là kết thúc của Giáo hội hay khởi đầu của một lối sống mới của kitô giáo?”

lemonde.fr, Gaetan Supertino, 2023-01-08

Trong một cuộc phỏng vấn với báo Le Monde ngày chúa nhật lễ Hiển Linh, ông Andrea Riccardi cảnh báo. Ông là người sáng lập cộng đoàn Sant’Egidio, tác giả quyển sách “Giáo hội đang cháy”, ông cho biết ông vẫn giữ lạc quan và xin người công giáo nên thoát khỏi cảm giác suy sụp.

Sử gia Andrea Riccardi, một trong những người sáng lập chính của cộng đồng Sant’Egidio, một cộng đồng giáo dân công giáo nổi tiếng, có vai trò trung gian hòa giải trong một số xung đột quốc tế, trong số các vai trò khác của cộng đồng. Trong quyển sách Giáo hội đang cháy (L’Eglise brûle, nxb. Cerf), sử gia phân tích cuộc khủng hoảng mà Giáo hội công giáo đang trải qua và đưa ra một số lý do để duy trì lạc quan.

Tựa đề quyển sách liên hệ đến vụ Nhà thờ Đức Bà Paris bị cháy năm 2019. Theo ông, người ta có thể liên tưởng đến ẩn dụ về Giáo hội. Ý của ông như thế nào?

Andrea Riccardi: Vụ hỏa hoạn này làm tôi suy nghĩ vì sao toàn bộ Giáo hội chúng ta đang cháy, có nghĩa đang suy tàn. Giáo hội cứ nói về truyền giáo mà người công giáo ngày càng ít đến nhà thờ, ít nhất là ở châu Âu.

Nguyên nhân thứ nhất, theo tôi, là do sự trao truyền giữa các thế hệ: đạo công giáo không còn lưu truyền trong gia đình. Cuộc di cư từ nông thôn ra thành thị trong thế kỷ 20 đè nặng, vì nông thôn là cái nôi của Giáo hội. Đây là một phần của hiện tượng xã hội rất sâu đậm, được đánh dấu bằng sự trỗi dậy của chủ nghĩa cá nhân đã làm phá vỡ mọi ý tưởng về cộng đồng.

Nhưng cũng có những nguyên nhân nội tại của Giáo hội, chẳng hạn như khủng hoảng ơn gọi – “nghề” linh mục không còn được ưa chuộng – hay sự bất bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới trong việc tiếp cận các trách nhiệm.

Đối diện với tất cả những vấn đề này, tôi tự hỏi: đây là dấu chấm hết của Giáo hội hay là khởi đầu của một lối sống kitô giáo mới? Chúng ta đang chứng kiến sự trỗi dậy của các cộng đồng hoàn toàn thích nghi với thời đại chúng ta, với toàn cầu hóa hoặc với xã hội tiêu dùng, như chủ nghĩa tân-truyền giáo hoặc chủ nghĩa tân-ngũ tuần. Thử thách lớn nhất của Giáo hội hiện nay là tìm chỗ đứng của mình trước các tôn giáo dựa trên cảm xúc và thành công kinh tế, mà không phủ nhận chính mình.

Quyển sách của ông mang một thông điệp lạc quan cho đạo công giáo. Nhưng theo ông, cần phải nghĩ đến một cách sống mới của Giáo hội. Cụ thể điều này có nghĩa gì?

Trước tiên chúng ta cần cải cách cho nhất quán. Lấy vấn đề về chỗ đứng của phụ nữ, đó là điều cốt yếu. Ngay cả không cần nói về việc họ đến với chức tư tế, phải đưa họ ra khỏi tình trạng cô lập. Họ phải tham dự vào vận mệnh của Giáo hội trên cơ sở bình đẳng với nam giới. Họ phải được trao những trách nhiệm chính thức trong các giáo xứ, để họ có thể tham gia vào những quyết định quan trọng nhất của Giáo hội. Mọi thứ đang bắt đầu thay đổi, đặc biệt là ở Pháp và Đức. Nhưng chúng ta phải đi xa hơn nữa theo hướng này.

Chúng ta lấy ví dụ về chức tư tế. Ngày càng có ít linh mục, nhưng có ý nghĩa gì khi Giáo hội công giáo không có thừa tác vụ tư tế và không có cử hành Thánh Thể? Nó không còn là Giáo hội công giáo, nó là một cái gì đó khác.

Chúng ta phải hình dung những cách khác để có được chức tư tế. Vì sao không phong chức cho các ông đã lập gia đình. Đó là một con đường.

Nhưng theo tôi, cải cách đầu tiên cần thực hiện là tầm nhìn mà chúng ta có về cộng đồng của chính mình: chúng ta phải thoát khỏi cảm giác suy sụp. Người tín hữu kitô không chỉ là một nhóm các ông, các bà đến nhà thờ cầu nguyện. Họ là những người mang đến một cách sống khác, một quan niệm khác về xã hội, ví dụ đặt người nghèo làm trọng tâm. Bây giờ chúng ta cần mang đến một hình thức “tưởng tượng luân phiên”. Giáo hội luôn là phòng thí nghiệm của những tầm nhìn mới và trí tưởng tượng mới. Giáo hội vẫn còn có thể làm mới ngày hôm nay.

Ông đã từng nói, có nhiều cách để là người tín hữu kitô ngày nay. Tại sao việc cứu Giáo hội công giáo lại quan trọng như vậy?

Ngày nay có vô số kinh nghiệm đa dạng, đó là sự thật. Tôi nghĩ, thực sự Giáo hội công giáo mang lại sự cân bằng quý giá giữa sự gần gũi – mỗi giáo xứ đều khác biệt, sáng tạo theo cách riêng của mình – và tính phổ quát – với tầm nhìn toàn cầu, truyền thống chung, tính liên tục xuyên suốt lịch sử.

Giáo hội công giáo cũng có mối quan hệ đặc biệt với hòa bình. Nó không thể bị quy giảm thành một quốc gia, một nhóm sắc tộc hay một đảng phái chính trị. Ngay cả khi không phải lúc nào nó cũng thành công, nhưng điều này giúp Giáo hội hướng tới sự thống nhất giữa các dân tộc. Chẳng hạn ở Phi châu, phong trào tân-tin lành bị chia cắt nhiều vì thế dễ bị quyền lực chính trị thao túng hơn.

Giáo hội công giáo ngày nay chấn động vì những vụ tai tiếng tình dục. Giáo hội có còn uy tín khi không giải quyết được vấn đề này không?

Tôi nghĩ thực sự đây là “câu hỏi” cần giải quyết, nếu không nó như chất độc sẽ nổi lên mỗi khi chúng ta cố gắng nói về một điều gì khác. Nhưng thật không may, tôi nghĩ muốn giải quyết phải mất nhiều năm.

Nhưng có những vấn đề cấp bách khác. Nghèo đói tiếp tục tấn công mọi nơi trên hành tinh, khủng hoảng khí hậu hứa hẹn ngày càng khốc liệt hơn, các quốc gia lâm vào chiến tranh, v.v. Trong bối cảnh khó khăn này, Giáo hội phải có khả năng mang thông điệp hy vọng.

Cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục cho thấy một số khiếm khuyết trong Giáo hội. Ở Pháp, báo cáo của ủy ban Sauvé (Ủy ban Độc lập về các vụ Lạm dụng tình dục trong Giáo hội Pháp) đưa ra, trong số những điều khác quyền của các linh mục là quá độ. Ông nghĩ gì?

Trong một thời gian dài, Giáo hội đã phát triển quan niệm về quyền lực là nam tính và giáo sĩ: chúng ta phải thoát ra khỏi cái bẫy di sản này của quá khứ. Ngày nay, các linh mục vừa có quyền lực – trong phẩm trật của Giáo hội – vừa thường bất lực trước cộng đồng của họ. Họ già đi và cảm thấy ngày càng bị lịch sử gạt ra bên lề.

Chúng ta phải phát triển hướng tới một cộng đồng mới cùng chia sẻ trách nhiệm, trong đó linh mục cũng như giáo dân, phụ nữ và nam giới cùng chia sẻ trách nhiệm. Tiến trình đồng nghị hiện đang được Đức Phanxicô khởi xướng trên quy mô toàn cầu sẽ giúp tái tạo đời sống của Giáo hội theo nghĩa này.

Chính xác, trong tiến trình này, những người sáng tạo nhất dường như là các giám mục Đức. Nhưng họ bị chỉ trích nặng nề, đặc biệt là ở Vatican, họ bị cáo buộc có nguy cơ làm người công giáo ly giáo… Ông có thực sự nghĩ Giáo hội có khả năng tự cải cách không?

Giáo hội công giáo là một cộng đồng lớn và quá trình thay đổi luôn diễn ra rất lâu dài, đặc biệt là khi bắt đầu từ thực tế của địa phương. Nếu những cải cách được áp đặt từ bên trên, nó sẽ diễn ra nhanh hơn nhiều nhưng sẽ không được nồng nhiệt đón nhận.

Giáo hoàng muốn một quá trình bắt đầu từ cơ sở, từ thực địa. Và đây sẽ không phải là chuyện đầu hôm sớm mai. Nó có thể sẽ làm chúng ta bận rộn trong nhiều thập kỷ tới.

Chúng ta luôn nghĩ Giáo hội là một cơ cấu rất độc đoán. Nhưng thực tế, Giáo hội có một dư luận quần chúng rất quan trọng, ngày nay được củng cố bởi các mạng xã hội. Nhiều người công giáo bày tỏ lập trường công khai và họ trả lời với nhau trên mạng. Bây giờ vấn đề là đi đến đồng thuận. Nó sẽ rất dài, nhưng tôi lạc quan.

Tại châu Phi, Đức Phanxicô sẽ đến Nam Sudan và Cộng hòa Dân chủ Congo vào cuối tháng 1 – Giáo hội rất năng động. Giáo hội tiếp tục tuyển các tín hữu và linh mục, một số người trong số họ được gửi đến châu Âu. Tương lai của Giáo hội có bị đe dọa ở lục địa này không?

Trong một thời gian dài, người ta nói tương lai của Giáo hội đang bị đe dọa ở Nam Mỹ. Trước đây, đó là châu Âu. Tôi nghĩ không có một miền đất hứa của Giáo hội.

Mặt khác, tôi nghĩ rằng Giáo hội có vai trò rất quan trọng ở châu Phi và Công giáo châu Phi thực sự rất phong phú. Ví dụ, ở Cộng hòa Dân chủ Congo, Giáo hội đã thiết lập các nghi thức rất đổi mới, có trường đại học công giáo năng động, có nhiều trí thức, nhưng cũng có các hoạt động xã hội và hòa giải đang được thiết lập theo sáng kiến của người công giáo, v.v.

Trái lại, tôi không ngạc nhiên khi thấy các linh mục châu Phi đến Âu châu. Họ phải đến với tư cách là người truyền giáo, làm chứng cho đức tin của họ và chia sẻ kinh nghiệm của họ. Châu Phi là phòng thí nghiệm cho tương lai thế giới. Những vấn đề về mối quan hệ với hồi giáo hay với người tân-tin lành, về tương quan với chiến tranh, nảy sinh ở đó một cách rất sống động và Giáo hội đang ở tuyến đầu khi đối diện với những thách thức này. Liệu chúng ta có nên kết luận rằng giáo hoàng tiếp theo sẽ là người châu Phi không? Tôi không biết. Nhưng dù sao, tại sao lại không?

Cộng đồng Sant’Egidio được thành lập năm 1968, nổi bật nhờ những thành công ngoại giao. Ông có nghĩ Giáo hội nên tham gia nhiều hơn vào các mối quan hệ quốc tế?

Trong lịch sử gần đây, Giáo hội chưa bao giờ có cán cân nặng trong lãnh vực ngoại giao. Chúng ta nghĩ đến sự thận trọng của Đức Piô XII trong Thế chiến thứ hai hoặc của các giáo hoàng là tù nhân của Napoléon. Giáo hoàng duy nhất của thế kỷ 20 thực sự đặt nặng vấn đề ngoại giao là Đức Gioan-Phaolô II, ngài là nhân vật đối thoại quan trọng về mặt chính trị vào cuối thời Chiến tranh Lạnh. Tuy vậy, Giáo hội luôn có một ảnh hưởng luân lý rất quan trọng. Đức Phanxicô là người rất được lắng nghe, kể cả những người không có đạo.

Nếu chúng ta muốn đấu tranh cho hòa bình, tôi nghĩ chúng ta cần đầu tư nhiều hơn vào ngoại giao, dù chỉ về mặt trí tuệ. Theo một cách nào đó, Đức Phanxicô tin vào các mối quan hệ quốc tế. Ngài muốn gặp các nguyên thủ quốc gia, ngài có thể một vai trò nào đó như ở Syria, khi ngài phản đối sự can thiệp vũ trang của Mỹ.

Nhưng sẽ luôn có một giới hạn. Khi tổng thống Roosevelt nói với Stalin: “Giáo hoàng muốn điều này, giáo hoàng muốn điều kia.” Stalin trả lời: “Ông ta có bao nhiêu quân đoàn?” Giáo hoàng không có quân đội và quân đội ở trong các mối quan hệ quốc tế!

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Andrea Riccardi: “Đức Phanxicô đã trở thành nhà lãnh đạo không lẩn tránh vào đâu được”

Trong quyển sách Giáo hội đang cháy (L’Eglise brûle, nxb. Cerf), sử gia phân tích cuộc khủng hoảng mà Giáo hội công giáo đang trải qua và đưa ra một số lý do để duy trì lạc quan.