Chết lành

1484

 Chết lành

Ronald Rolheiser, 15 Tháng Tám 2016

dying

Trong văn hóa Công giáo La Mã mà tôi được nuôi dạy, chúng tôi được dạy cầu nguyện xin được ơn chết lành. Với nhiều người Công giáo thời đó, đây là một lời nài xin trong lời kinh hằng ngày. “Xin cho con được chết lành.’

Nhưng người ta chết lành thế nào? Chẳng phải chết tự nó là một tiến trình đau khổ hay sao? Còn về những đau đớn khi chết, khi cho cuộc sống trôi qua tầm tay, khi nói những lời giã biệt cuối cùng? Liệu người ta có thể chết lành hay không?

Nhưng tất nhiên, đây là một cái nhìn tôn giáo. Chết lành nghĩa là người đó chết với đạo đức tốt và trong tình trạng có đạo. Như thế nghĩa là bạn không chết trong một tình trạng đạo đức nửa vời, bạn không chết khi xa rời giáo hội, bạn không chết cay đắng hay giận dữ với gia đình mình, và ít nhất, bạn không chết vì tự vẫn, vì quá liều thuốc phiện, hay chết khi đang phạm tội ác.

Hình tượng giáo lý về chết lành, thường là một giai đoạn về ai đó lớn lên trong gia đình Kitô giáo tốt lành, là một người lương thiện, đầy đức tin, khiết tịnh, đi lễ thường, nhưng có một khoảng thời gian xa lìa Thiên Chúa, không còn đi lễ và giữ các điều răn, đến mức có lúc người đó không còn nghĩ về Thiên Chúa, không còn đi lễ, và không còn giữ luân lý Kitô giáo nữa. Nhưng không lâu trước khi chết, một hoàn cảnh nào đó đã trở nên thời khắc ân sủng cho ông, rồi ông hối lỗi về sự sao nhãng, vô luân và bỏ bê hành đạo của mình, ông trở lại với giáo hội, xưng tội thành tâm, rước lễ, và không lâu sau ông qua đời vì một tai nạn hay một cơn đột quỵ. Nhưng ông chết trong ân sủng. Sau nhiều năm xa rời đạo đức và tôn giáo, ông đã trở lại đàn và chết lành.

Thật sự tất cả chúng ta đều biết những câu chuyện tương tự như thế, nhưng đáng buồn thay, chúng ta cũng biết những câu chuyện không như thế, xảy ra điều ngược lại, khi những người tốt lành lại chết trong những tình huống bi kịch, đáng buồn. Chúng ta đều từng mất người thân yêu vì tự vẫn, rượu chè, và đủ cách chết khác rất không lý tưởng. Chúng ta cũng biết nhiều người tốt, đã chết trong những tình huống đạo đức nửa vời, hoặc chết trong cay đắng, không thể làm mềm lòng mình trong sự tha thứ. Họ có chết lành không?

Phải thừa nhận là họ chết theo những cách thức bất hạnh, nhưng chết lành không được phán định dựa vào việc cái chết đến trong tình huống đang lên hay đang xuống. Có nhiều người chết lành như kiểu giai thoại ở trên, khi cái chết đến với họ trong tình huống đang lên. Nhưng có những người với một đời sống lương thiện, tốt lành và yêu thương, nhưng lại bất hạnh bị cái chết ập đến trong lúc đang giận dữ, yếu đuối, trong lúc trầm cảm hay chết vì nghiện ngập hoặc tự vẫn. Cái chết đến với họ khi đang xuống. Họ có chết lành không? Ai là người phán định điều này?

Thế nào là chết lành? Tôi thích một mô tả của Ruth Burrow. Nữ tu dòng Carmel này chia sẻ cho chúng ta câu chuyện về một chị em trong dòng từng sống với xơ. Xơ này có tâm hồn tốt lành, nhưng lại yếu đuối. Xơ đã vào tu viện chiêm niệm để cầu nguyện, nhưng không bao giờ có thể tập trung vào khuôn khổ này. Nên xơ sống nhiều năm trong tình trạng giằng xé, tấm lòng tốt nhưng lại tầm thường. Đến lúc có tuổi, xơ bị chẩn đoán mắc bệnh nan y, khiến xơ hoảng sợ đến nỗi bắt đầu nỗ lực hết mình để trở nên con người mà xơ hằng mong muốn, một con người cầu nguyện. Nhưng nửa thế kỷ với lề lối xấu không dễ gì thay đổi. Dù có đưa ra nhiều giải pháp mới, xơ này vẫn không thể thành công trong việc biến chuyển đời mình. Xơ chết trong sự yếu đuối. Nhưng xơ Burrows khẳng định, xơ này đã chết lành.  Xơ chết cái chết của một người yếu đuối, xin Chúa tha thứ cho quãng đời yếu đuối của mình.

Chết lành là chết trong sự thành thật, bất chấp tình trạng lúc chết có nét đạo hay không. Chết trong những hoàn cảnh đúng đắn, tất nhiên là sự an ủi tuyệt diệu cho gia đình và người thân, và cũng như vậy, chết trong những hoàn cảnh đáng buồn có thể khiến họ thêm đau lòng. Nhưng chết trong những hoàn cảnh có vẻ không tốt lành, không nhân văn hay tôn giáo, không nhất thiết là một cái chết dữ. Chúng ta chết lành khi chết trong sự thành thật, bất chấp hoàn cảnh hay yếu đuối.

Và sự thật này cho chúng ta một thách thức khác. Những hoàn cảnh chết của một người, dù đang buồn hay bi thảm, cũng không nên là lăng kính để chúng ta nhìn lại cuộc đời người đó. Điều này nghĩa là nếu ai đó chết trong tình trạng đạo đức nửa vời, trong một giây phút hay một thời gian yếu lòng, xa rời giáo hội, chết trong cay đắng, chết vì tự vẫn hay nghiện ngập, thì không được phán xét sự tốt lành của đời sống và tâm hồn người đó bằng hoàn cảnh chết. Cái chết đến với người đó lúc đang xuống, có thể khiến lời cáo phó khó khăn hơn, nhưng chắc chắn không phải là một phán xét đúng đắn về sự tốt lành của người đó trong tâm hồn.

J.B. Thái Hòa chuyển dịch