Để bảo vệ người nhập cư, Đức Lêô cần làm nổi bật chính di sản của ngài

Đức Lêô ban phép lành khi kết thúc buổi tiếp kiến nhân Ngày Năm Thánh Người Di Dân và Năm Thánh Truyền Giáo 4 tháng 10 năm 2025 tại Quảng trường Thánh Phêrô (Truyền thông Vatican)
ncronline.org, Gustavo Arellano, 2025-11-20
Ngày 8 tháng 5 năm 2025, khi cả thế giới chào đón tân Giáo hoàng Lêô XIV, tôi thấy một loại “khói trắng” khác ở San Juan Capistrano, California. Đó là mùi thịt nướng bốc lên từ những chiếc máy hun khói khổng lồ của nhà hàng Heritage. Đây là nơi có món thịt nướng ngon hàng đầu nước Mỹ vì đầu bếp không bị gò bó trong bất kỳ truyền thống cứng nhắc nào.
Đầu bếp Danny Castillo mang trong mình dòng máu Mỹ gốc Mêxicô và da trắng; bếp phó của anh là người Phi Luật Tân, anh khuyến khích đội ngũ đa văn hóa của anh mang bản sắc Mêxicô, Trung Quốc, tầng lớp lao động da trắng và nhiều cộng đồng khác của họ vào từng món ăn. Nhờ phong cách đó, Castillo đã lọt vào vòng chung kết Giải James Beard tại California.
Heritage đối diện Nhà thờ San Juan Capistrano, nơi nổi tiếng với các đàn én trở về mỗi mùa xuân. Nhà thờ do Thánh Junípero Serra, tu sĩ Dòng Phanxicô người Tây Ban Nha thành lập. Tầm nhìn Công giáo của tu sĩ cho vùng California xưa hoàn toàn trái ngược với thế giới tôi lớn lên và khác với tinh thần Phúc Âm mà Heritage thể hiện. Thánh Serra và các cộng sự đã ép buộc Người bản địa bỏ văn hóa của họ để hòa vào mô hình Châu Âu trung tâm, dẫn tới cái chết của hàng chục ngàn người tại vùng đất nay là California.
Không thể không thấy nhà thờ mỗi lần tôi đi ăn ở Heritage. Vì thế, tôi xem việc bầu Đức Lêô vào đúng ngày tôi đến đó là một hài hước của Chúa. Khi rời quán, tôi lại thấy một dấu hiệu nữa: chiếc xe buýt du lịch sang trọng đậu trước nhà thờ mang thương hiệu Prevost, tên họ của tân Giáo hoàng.
Tôi vui khi nghe tin Giáo hoàng Prevost là Giáo hoàng Hoa Kỳ đầu tiên. Niềm vui này tăng lên từng giờ khi nhiều thông tin về ngài được công bố. Ngài nói tiếng Tây Ban Nha trôi chảy vì đã làm việc nhiều năm ở Peru, làm tôi xem ngài như người Châu Mỹ la-tinh danh dự. Ngài đến từ Chicago, thành phố của những “đôi vai rộng” nơi con người luôn biết cách vượt qua thử thách. Ngài còn là người hâm mộ đội bóng chày White Sox, điều khiến ngài trở thành tiếng nói tự nhiên cho những ai bị lãng quên.
Vài ngày sau, tôi càng vui hơn khi biết thêm về gia đình ngài. Ông bà nội của ngài là người nhập cư Ý và Pháp. Ông bà ngoại của ngài mang dòng máu lai người Creole, được ghi là “lai” trong điều tra dân số năm 1900 khi còn ở New Orleans, rồi được cho là người “da trắng” khi chuyển tới Chicago vào thập niên 1920.
Ngài mang di sản đặc trưng của nước Mỹ và thời điểm ngài bước lên ngôi Giáo hoàng không thể hợp hơn.
Trong khi đó, nhiều lãnh đạo trên thế giới, trong đó có Tổng thống Donald Trump lại gieo rắc nỗi sợ về việc người nhập cư “đầu độc dòng máu” quốc gia. Họ dùng huyền thoại về sự “thuần khiết” để biện minh cho chiến dịch bài ngoại, đặc biệt nhắm vào cộng đồng người La-tinh. Từ mùa hè, Tổng thống Trump đã tung hàng loạt cơ quan liên bang vào các khu dân cư La-tinh với lời cáo buộc sai trái rằng họ là “kẻ xâm lược”.
Thực tế ấy hoàn toàn xa lạ với nước Mỹ nơi tôi lớn lên. Mẹ tôi có làn da trắng hơn nhiều người “da trắng”, cha tôi từng không có giấy tờ lại có làn da sẫm màu của tổ tiên bản địa mà chúng tôi biết rất ít. Nhưng trong mắt nhiều người Mỹ, chúng tôi chỉ là người Mêxicô.
Nước Mỹ của tôi chính là nước Mỹ của Công giáo sau thời Serra: một Giáo hội được xây dựng nhờ người nhập cư, những người được khuyến khích giữ lại lòng đạo đức và phong tục của mình vì mọi nẻo đường đều dẫn về Giáo hội Mẹ. Nhưng nhiều người Công giáo đã quên điều này, theo Trung tâm Nghiên cứu Pew, 55% tín hữu bỏ phiếu cho Trump dù tôi và gia đình tôi không nằm trong số đó.
Đức Lêô đã lên tiếng mạnh mẽ trước các chính sách trục xuất của chính quyền Trump. Tháng 10, ngài nói với phái đoàn ủng hộ người nhập cư trong đó có Giám mục Mark Seitz của El Paso rằng Giáo hội không thể im lặng trước các cuộc trục xuất. Trong một bài phát biểu khác, ngài gọi việc lạm dụng người di cư là “tội ác nghiêm trọng do nhà nước gây ra hoặc dung túng”.
Tuy vậy, ngài vẫn chưa nói nhiều về chính câu chuyện của gia đình ngài. Tôi hy vọng ngài sẽ nói, vì di sản của ngài thể hiện hình ảnh đẹp nhất của Giáo hội: hình ảnh mà người trong đạo lẫn ngoài đạo đều cần nghe trong thời điểm đất nước ngày càng khép lòng lại.
Tổ tiên ngài rời Louisiana đến Chicago vào đúng lúc nhiều người gốc Phi chạy trốn khỏi luật Jim Crow họ là những người tị nạn. Họ “trở thành người da trắng” để con cháu dễ sống hơn trong giấc mơ Mỹ. Ngài lớn lên ở thành phố đa văn hóa nhưng vẫn đầy bất công, có lẽ vì thế ngài chọn Dòng Augustinô để phục vụ cộng đồng.
Lúc trẻ, Robert Prevost đến Peru, vùng đất của hàng trăm ngàn người di cư đến Hoa Kỳ. Trải nghiệm ấy giúp ngài hiểu người di cư không phải tội phạm hay gánh nặng. Họ chính là những con người mà Chúa Giêsu nhắc đến trong Tin Mừng Thánh Mát-thêu: “Mỗi lần các con làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta, là các con làm cho chính Ta.”
Đối với Đức Lêô, người xa lạ và người lữ hành là “các chứng nhân hy vọng được ban ơn”, những người có thể “làm hồi sinh các cộng đồng giáo hội đã cứng nhắc” như ngài nói vào Ngày Thế giới Di dân và Tị nạn mùa hè này. Đó là cách nói quen thuộc của ngài: nhân hậu, hướng thượng và dựa trên niềm tin ai cũng có chỗ trong Lời Chúa.
Tôi mong Đức Lêô can đảm hơn khi đối diện những kẻ cổ vũ phân biệt chủng tộc trên thế giới, dù tôi hiểu ngài có phong cách riêng. Điều quan trọng hơn, tôi hy vọng ngài “thể hiện” chứ không chỉ “kể câu chuyện”.
Khi nêu bật di sản gia đình, ngài có thể làm chứng những người có nguồn gốc không “thuần khiết” cũng xứng đáng được yêu thương và tôn trọng; rằng con người rời bỏ quê hương để tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn cho họ và cho cộng đồng mới.
Trong bài giảng Lễ Hiện Xuống, ngài kết thúc bằng lời cầu xin: “Xin Thánh Thần tình yêu và hòa bình mở biên giới, phá vỡ bức tường ngăn cách, xua tan thù hận và giúp chúng con sống như con cái của một Cha trên trời.”
Xin Đức Lêô giúp chúng con tiến gần với lý tưởng này bằng câu chuyện của chính gia đình ngài.
Têrêxa Trần Tuyết Hiền dịch






























