Nhân dịp Năm Thánh Truyền Giáo và Di Dân, Đức Lêô XIV khẳng định “một kỷ nguyên mới trong lịch sử Giáo hội bắt đầu”

24

Nhân dịp Năm Thánh Truyền Giáo và Di Dân, Đức Lêô XIV khẳng định “một kỷ nguyên mới trong lịch sử Giáo hội bắt đầu”

lavie.fr, 2025-10-05

Cuối Thánh lễ, Đức Lêô chào giáo dân hành hương ở Quảng trường Thánh Phêrô. ALESSANDRA TARANTINO/AP/SIPA.

Ngày chúa nhật 5 tháng 10, nhân dịp Năm Thánh Truyền Giáo và Di Dân với chủ đề “Truyền giáo trong thế giới đương đại”, trước sự hiện diện của giáo dân, tu sĩ và linh mục của hơn 100 quốc gia, Đức Lêô có bài giảng mạnh mẽ về chủ đề này. Đây là một trong những bài giảng đẹp nhất trong những tháng đầu tiên triều của ngài.

Trước 10.000 giáo dân hành hương từ khắp nơi trên thế giới, ngài kêu gọi: “Hợp tác truyền giáo được đổi mới giữa các Giáo hội. Trong các cộng đồng Kitô giáo truyền thống lâu đời, cũng như trong các cộng đồng phương Tây, sự hiện diện của anh chị em từ Nam Bán cầu là cơ hội để đổi mới hình ảnh của Giáo hội và khơi nguồn cảm nghiệm cho một Kitô giáo cởi mở, sôi động và năng động hơn. Mỗi nhà truyền giáo khi lên đường đến những vùng đất khác đều được mời gọi thích ứng với văn hóa mới trong tinh thần tôn trọng thiêng liêng, hướng đến điều tốt lành cho tất cả những gì họ thấy tốt đẹp và cao quý, mang theo lời tiên tri của Phúc âm.”

Đức Lêô XIV đã dành phần lớn cuộc đời của ngài để truyền giáo ở Peru, minh chứng một định hướng cho Giáo hội được tôi luyện trong thử thách của kinh nghiệm.

Bài giảng của Đức Lêô XIV

Anh chị em thân mến,

Hôm nay chúng ta cử hành Năm Thánh Thế giới truyền giáo và Người di cư. Đây là cơ hội tốt đẹp để chúng ta ý thức về ơn gọi truyền giáo, xuất phát từ khát vọng mang niềm vui và an ủi của Tin Mừng đến cho tất cả mọi người, đặc biệt là những ai đang sống trong giai đoạn lịch sử khó khăn và đầy thương tổn. Tôi đặc biệt nghĩ đến những anh chị em di cư của chúng ta, họ đã phải bỏ quê hương, bỏ lại người thân yêu, đã trải qua những đêm dài sợ hãi và cô đơn, chịu đựng sự phân biệt đối xử và bạo lực ngay trong chính thể xác của họ.

Chúng ta ở đây bên mộ Thánh Phêrô Tông đồ, mỗi chúng ta phải có thể nói với niềm vui: toàn thể Giáo hội là truyền giáo, và điều cấp bách – như Đức Phanxicô đã khẳng định: “Giáo hội phải ra đi loan báo Tin Mừng cho mọi người, ở mọi nơi, trong mọi dịp, không do dự, không e ngại và không sợ hãi” (Tông huấn Evangelii Gaudium, 23). Chúa Thánh Thần sai chúng ta tiếp tục công trình của Chúa Kitô ở những vùng ngoại vi, những vùng bị chiến tranh, bất công và đau khổ. Trước viễn cảnh đen tối này, tiếng kêu than thường được dâng lên Thiên Chúa trong suốt chiều dài lịch sử lại trỗi dậy: Lạy Chúa, sao Ngài không can thiệp? Sao Ngài dường như vắng mặt? Tiếng kêu than đau khổ này cũng là một cách cầu nguyện xuyên suốt Kinh Thánh.

Sáng nay chúng ta đọc sách tiên tri Khabacúc: “Lạy Chúa, con còn kêu than đến bao giờ mà Ngài không nghe? Sao Chúa để con thấy điều dữ và nhìn thấy cảnh khốn cùng?” (Kb 1:1, 3).

Đức Bênêđíctô XVI đã gom lại các câu hỏi này khi ngài đến Trại Tập Trung Auschwitz: “Thiên Chúa im lặng, và sự im lặng này xé nát tâm hồn người cầu nguyện, người không ngừng kêu cầu nhưng không thấy câu trả lời…  Thiên Chúa dường như quá xa vời, quá xao lãng, quá vắng mặt” (Bài Giáo lý ngày 14 tháng 9 năm 2011).

Ơn Cứu độ tìm thấy đường đi

Tuy nhiên, câu trả lời của Chúa mở ra cho chúng ta niềm hy vọng. Tiên tri Khabacúc tố cáo sức mạnh không thể tránh khỏi của sự dữ đang thắng thế, nhưng Chúa đã loan báo tất cả những điều này sẽ kết thúc vì ơn cứu độ sẽ đến và sẽ không còn lâu nữa: “Kẻ kiêu ngạo không có lòng ngay thẳng, nhưng người công chính sẽ được sống nhờ lòng trung tín của mình” (Kb 2:4).

Vì vậy, có một sự sống, một khả năng mới của sự sống và ơn cứu độ đến từ đức tin, vì đức tin không chỉ giúp chúng ta chống lại sự dữ bằng cách kiên trì trong điều thiện, mà còn biến đổi cuộc sống, đức tin là khí cụ của ơn cứu độ Thiên Chúa vẫn thực hiện trong thế giới ngày nay. Và, như Chúa Giêsu đã nói trong Phúc Âm, đó là một sức mạnh nhẹ nhàng: đức tin không bị áp đặt bằng vũ lực hay một cách phi thường; chỉ một hạt cải cũng đủ để làm những điều không tưởng (x. Lc 1, 14). 17:6), vì hạt cải này mang sức mạnh tình yêu của Thiên Chúa, mở ra những con đường dẫn đến cứu rỗi.

Đó là ơn cứu rỗi chúng ta có được khi chúng ta dấn thân và quan tâm với lòng trắc ẩn của Phúc Âm, với nỗi đau khổ của tha nhân; như thế ơn cứu rỗi được thực hiện.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Olivier de Benoist: “Làm cho người khác cười là một ơn”

Ba phụ nữ Anne-Flore Vildrac, Françoise Coquereau và Laurence Sabrazes, các cánh tay mặt của Giám mục