Home Blog Page 329

Lời chỉ trích của linh mục Zollner, chuyên gia hàng đầu về lạm dụng làm Đức Phanxicô nhức đầu

Lời chỉ trích của linh mục Zollner, chuyên gia hàng đầu về lạm dụng làm Đức Phanxicô nhức đầu

lanacion.com.ar, Elisabetta Piqué, 2023-04-17

Đức Phanxicô trong buổi tiếp kiến hàng tuần tại Quảng trường Thánh Phêrô ngày thứ tư 12 tháng 4.

Tu sĩ Dòng Tên Hans Zollner đã từ chức khỏi Ủy ban Giáo hoàng Bảo vệ trẻ vị thành niên được Đức Phanxicô thành lập cách đây 9 năm.

Linh mục Dòng Hans Zollner, một trong những chuyên gia hàng đầu của Vatican về vấn đề nhức nhối lạm dụng tình dục, lương tâm và quyền lực trong Giáo hội đã đóng sầm cửa Ủy ban Giáo hoàng Bảo vệ trẻ vị thành niên do Đức Phanxicô thành lập 9 năm trước với sự giúp đỡ của linh mục.

Đây là nhân vật nặng ký thứ nhì rời Ủy ban sau lần bà Marie Collins, người Ai-len và là nạn nhân bị lạm dụng tình dục thời thơ ấu, tháng 3 năm 2017 bà đã từ chức vì thiếu hợp tác, vì có những miễn cưỡng không thể chấp nhận và đáng xấu hổ của các văn phòng khác nhau của Giáo triều.

Lần này các nguyên nhân đã khác, nhưng cũng nghiêm trọng không kém. Một cơn nhức đầu mới cho Đức Phanxicô. Trên thực tế, linh mục Zollner đầu hàng do những trục trặc của Ủy ban, không minh bạch, không tôn trọng các quy tắc và không trách nhiệm, đó là những điểm thiết yếu trong cuộc chiến chống lại văn hóa im lặng và lạm dụng như hôm nay linh mục đã tố cáo trong một cuộc họp tại trụ sở Hiệp hội báo chí nước ngoài.

Linh mục Zollner trong buổi họp báo / Ảnh Elisabetta Piqué

Quyết định của linh mục Zollner – nhà thần học, nhà tâm lý học, giám đốc trong 11 năm của Viện Bảo vệ Trẻ vị thành niên của Giáo hoàng Học viện Gregorian và là cố vấn cho giáo phận Rôma – linh mục đã từ chức Ủy ban Giáo hoàng Bảo vệ trẻ vị thành niên vài tuần trước. Nhưng tin tức đã bị lu mờ vì Đức Phanxicô bất ngờ nhập viện. Sau đó giữa linh mục Zollner và hồng y Mỹ Sean O’Malley, tổng giám mục Boston kiêm chủ tịch Ủy ban có những lời giải thích khác nhau, hồng y O’Malley đưa ra tuyên bố đánh giá cao công việc của linh mục Zollner và cho rằng linh mục ra đi vì công việc quá tải.

Hồng y O’Malley “thất vọng” vì các chỉ trích của linh mục Hans Zollner

Linh mục Zollner chỉ trích: “Ngài đã cắm hoa hồng, nhưng ngài không nói có vấn đề,” linh mục đề cập trong một tuyên bố khác “các vấn đề về cơ cấu và thực hành” ở cấp độ tài chính, tổ chức và thậm chí cả tuyển dụng làm cho công việc trở nên “không thể thực hiện” để tiếp tục làm việc trong Ủy ban. Linh mục cũng đưa ra việc thiếu các quy tắc điều chỉnh mối quan hệ của Ủy ban Giáo hoàng Bảo vệ trẻ vị thành niên và bộ Giáo lý Đức tin, mà với cuộc cải cách giáo triều năm ngoái, đã đưa Ủy ban vào “bộ” này.

Trong cuộc gặp với các nhà báo, linh mục Zollner nhắc lại sự bối rối của ngài trước thay đổi này và nhiều thay đổi khác trong thời gian gần đây, điều này đã tạo một hoang mang lớn trong Ủy ban, mặt khác, Ủy ban xác nhận “Đức Phanxicô đã có một sáng kiến tuyệt vời và đã thành công vượt ra ngoài các vấn đề”.

Linh mục Hans Zollner, thành viên cốt cán của Ủy ban chống lạm dụng tình dục từ chức

Trong phần phát biểu đọc từ đâu buổi họp báo, linh mục Zollner xác nhận quyết định ra đi không phải là chuyện dễ dàng với ngài: “Đã nhiều lần tôi tự hỏi: quyết định này có tương ứng với tinh thần đồng đội và sự thận trọng cần thiết trong bất kỳ công việc nhóm nào không? Với quyết định này, tôi có làm tổn thương đến Đức Phanxicô là người rất quan tâm đến công việc của Ủy ban không?” Sau đó, linh mục cho biết đã có những người đi trước đã rời Ủy ban với những lời chỉ trích. Linh mục giải thích, nếu ngài quyết định nói ra bây giờ thì không phải vì “mục tiêu gây tranh cãi hoặc làm hại Ủy ban” nhưng vì ngài đã nhận được  quá nhiều yêu cầu phỏng vấn từ các phương tiện truyền thông khác nhau và cũng để đóng góp một cái gì đó cho Ủy ban.

Linh mục Hans Zollner / BBC World

Trong bối cảnh này, linh mục cho biết trong những ngày gần đây, ngoài việc nhận tin nhắn khuyến khích từ khắp nơi trên thế giới, nhưng cũng có nhiều lời khuyên thiện ý, cho rằng tốt hơn là không nên nói gì trên diễn đàn công cộng, linh mục giải thích: “Theo tôi, đây không phải là một giải pháp thay thế thực sự, vì sẽ nhầm tinh thần đồng đội với đồng tình, thận trọng với che giấu, trung thực với nô lệ. Vấn đề của Ủy ban Giáo hoàng Bảo vệ trẻ vị thành niên rất phức tạp từ quan điểm chính trị và xúc cảm, vì những lý do hiển nhiên. Ủy ban có tầm quan trọng to lớn trong cuộc chiến chống lạm dụng và có giá trị nội tại không gì có thể thay thế được.”

Ba vấn đề

Sau khi lấy làm tiếc những đóng góp cho cuộc thảo luận bị một số người cho là “công kích cá nhân” và xin lỗi nếu có ai cảm thấy bị tổn thương, như đã làm trong tuyên bố của ngài ngày 29 tháng 3, linh mục Zollner nhắc lại những điểm quan trọng liên quan đến ba vấn đề cơ bản: “Đức Thánh Cha Phanxicô đã xác định chúng là thiết yếu trong cuộc chiến chống lạm dụng trong Hội nghị thượng đỉnh năm 2019 về bảo vệ trẻ vị thành niên: minh bạch, tôn trọng các quy tắc và trách nhiệm.” Về vấn đề này, linh mục nhấn mạnh, năm ngoái, ít nhất ba lần linh mục đã viết thư cho các giám đốc của Ủy ban để báo động với họ ngài thấy mọi thứ không ổn ở những điểm này và linh mục đã không bao giờ nhận được phản hồi.

Không muốn nêu tên, linh mục Zollner thừa nhận sự bối rối to lớn của ngài trước những thay đổi trong những năm gần đây, việc  lựa chọn các thành viên và sự nhầm lẫn về vai trò. Ngài chỉ trích: “Nếu bạn không biết mình chịu trách nhiệm về điều gì, nếu bạn không rõ ràng về ranh giới và quyền hạn chính xác của mình và người mà bạn chịu trách nhiệm, thì sẽ có nhầm lẫn. Và điều này tạo ra những khó khăn trong việc tôn trọng các quy tắc cũng như tính minh bạch.”

Mặt khác, ngài thừa nhận vẫn còn có phản đối trong Giáo hội liên quan đến cuộc chiến chống lạm dụng: “Mặc dù sự dấn thân của nhiều người về vấn đề này đã tăng, đã có nhiều người làm việc và mạng lưới đã phát triển rất nhiều, nhưng vẫn có một số người cản trở. Và các nạn nhân tiếp tục có cảm nghĩ họ không được lắng nghe.”

Linh mục lấy làm tiếc: “Mặc dù tôi đã tận mắt chứng kiến cách Đức Phanxicô dành thì giờ và lắng nghe các nạn nhân, ngài là tấm gương về thái độ mà Giáo hội nên có, nhưng đôi khi một số người không muốn lắng nghe. Nếu Giáo hội không phục vụ những người bé nhỏ nhất, những người bị tổn thương, như các nạn nhân của lạm dụng, thì điều này chẳng có một nghĩa lý gì. Nhiều nạn nhân không còn mong chờ gì, nhưng nhiều người khác vẫn muốn tìm lại hình ảnh nhân bản của Giáo hội và điều đau đớn nhất là họ không tìm thấy.” Linh mục kết luận: “Rõ ràng và trực tiếp, Giáo hội không quen với ngôn ngữ của ba từ này – minh bạch, tôn trọng các quy tắc và trách nhiệm -, và đó không phải là vấn đề cánh tả hay cánh hữu, vấn đề bảo thủ hay tự do. Đó không phải là vấn đề của đảng phái, mà là thái độ”.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Việc linh mục Hans Zollner từ chức cho thấy cuộc khủng hoảng tại Ủy ban Giáo hoàng Bảo vệ trẻ vị thành niên ở Vatican

Đức Phanxicô cảnh báo về ‘sự cay đắng’, thần dược của ma quỷ

Đức Phanxicô cảnh báo về ‘sự cay đắng’, thần dược của ma quỷ

cath.ch, I.Media, 2023-04-13

Ngày thứ năm 13 tháng 4, Đức Phanxicô tiếp các nữ tu tham dự Đại hội đồng lần thứ 70 của Liên hiệp các Bề trên nữ ở Ý (USMI) | © Truyền thông Vatican

“Rượu cay đắng là thần dược của ma quỷ”, Đức Phanxicô đã cảnh báo khi ngài tiếp các nữ tu tham dự Đại hội lần thứ 70 của Liên hiệp các Bề trên nữ ở Ý (USMI) ngày thứ năm 13 tháng 4 năm 2023. Trong buổi tiếp kiến, đặc biệt ngài khuyến khích các nữ tu trung thành với ơn gọi dù gặp thử thách thiếu ơn gọi.

Trong bài phát biểu, ngài cảnh báo chống lại “sự cay đắng”, vốn là một trong những căn bệnh của đời sống thánh hiến. Ra khỏi bài soạn sẵn, ngài lấy làm tiếc cho tinh thần cay chua nội tâm này, luôn nhìn vào những khó khăn, chú ý đến những điều sai trái và ngài khuyên nên trồng đường thay vì trồng dấm.

Ngài kêu gọi các bề trên giúp đỡ các cộng đoàn hoặc các nữ tu đang bị cay chua gặm nhắm trong lòng, giúp họ thoát khỏi tình trạng này, ngài ca ngợi đức tính hy vọng. Hy vọng là nhân đức nhỏ nhất nhưng mạnh nhất, hy vọng không bao giờ làm thất vọng.

Đừng trở thành người “nô lệ của công việc”

Trong bài phát biểu, ngài khuyến khích các nữ tu nên gặp gỡ người khác. Ngài nói, dù ở đâu cũng có một số người “loạn thần kinh”, và phụ nữ được tạo ra để “ban sự sống, để mở ra những con đường”. Ngài xin các nữ tu đối thoại và có các chương trình với các mục tử dù khi họ không cảm thấy được hiểu hoặc được xem trọng. Ngài cũng kêu gọi họ các nữ tu trung thành với ơn gọi dù gặp thử thách thiếu ơn gọi và sự pha trộn các văn hóa trong các cộng đoàn tu. Ngài nói, công việc không phải là đặc sủng, và xin các nữ tu đừng trở thành nô lệ cho các công việc của mình.

Tinh thần đồng nghị đích thực

Để biết phải hành động như thế nào trong một tình huống như vậy, ngài xin các nữ tu cầu nguyện: “Chúng ta cầu nguyện một chút và xem Chúa nói gì với chúng ta trong Tin Mừng… và từ đó Chúa khơi nguồn cảm hứng, mở cho chúng ta một con đường mới. Xin chị em y can đảm tìm kiếm những gì Chúa đang nói với chúng ta hôm nay, không phải những gì Ngài đã nói hôm qua, hãy để điều đó cho các chị em của ngày hôm qua”.

Cuối cùng, một lần nữa, ngài bày tỏ lo ngại về sự hiểu lầm tinh thần đồng nghị thực sự. Ngài giải thích, tính đồng nghị không phải là “có câu trả lời và đưa ra quyết định”, cũng không phải là “thay đổi điều này điều kia” bằng cách bắt đầu lại “để khép kín mình theo một cách khác”. Tinh thần đồng nghị là “lắng nghe, cầu nguyện và bước đi. Rồi Chúa sẽ cho chúng ta biết chúng ta phải làm gì”.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Đức Phanxicô và ám ảnh không ngừng về ma quỷ

Linh mục Antonio Spadaro: “Đức Phanxicô tiến về phía trước cho đến khi nào ngài còn năng lượng”

Linh mục Antonio Spadaro: “Đức Phanxicô tiến về phía trước cho đến khi nào ngài còn năng lượng”

Nhân dịp lễ Phục sinh, linh mục Dòng Tên Antonio Spadaro, người thân cận và hiểu rõ giáo hoàng nhất trả lời các câu hỏi của báo Le Point.

lepoint.fr, Quentin Raverdy, phóng viên báo Le Point tại Rôma, 2023-04-08

Linh mục Antonio Spadaro ở văn phòng của ngài ở trung tâm thành phố Rôma ngày 29 tháng 2 năm 2014. © Filippo Monteforte/AFP

Một tuần sau khi nhập viện khẩn cấp vì các vấn đề về hô hấp và trước tuần lễ cử hành phụng vụ Tuần Thánh, sự chú ý của giới truyền thông xung quanh vì sao sức khỏe của Đức Phanxicô chưa giảm xuống ở cả hai bên sông Tiber, Rôma. Nhân dịp này, linh mục Antonio Spadaro, giám đốc tạp chí Văn minh Công giáo của Dòng Tên và là người thân cận với Đức Phanxicô – thường được cho là “bác sĩ quay vòng” dù ngài từ chối tên không chính thức này –, trả lời các câu hỏi của báo Le Point.

Một lần nữa, những lo ngại về sức khỏe của Đức Phanxicô đã trở thành chủ đề thảo luận ở Ý cũng như trên toàn thế giới. Ở tuổi 86, liệu ngài có còn khả năng thực hiện sứ mệnh của ngài không?

Linh mục Antonio Spadaro: Như bất cứ ai ở tuổi của ngài đều có những vấn đề sức khỏe, nhưng theo tôi, dường như ngài hoàn toàn có đủ khả năng tiếp tục sứ mệnh. Ngài ở trong cao điểm về sự minh mẫn tinh thần và thiêng liêng, như chúng ta đã thấy trong những ngày gần đây khi ngài giảng, tôi có thể nói, ở điểm này về mặt thể chất, ngài vẫn ổn.

Một giai thoại thoạt đến trong đầu tôi. Cách đây nhiều năm, trong những chuyến đi Châu Mỹ Latinh, tôi đã nói với ngài, chương trình của ngài căng thẳng gần như quá mức. Ngài trả lời hơi nghiêm: tôi  không đồng ý làm giáo hoàng để nghỉ ngơi. (Cười.) Và tôi hiểu lập luận của ngài. Ngài cứ tiếp tục và làm những gì ngài cảm thấy có thể làm được, miễn là sức lực của ngài cho phép.

Nghe cha nói thì từ nhiệm chưa có trong chương trình làm việc của ngài?

Như ngài đã nói rõ một lần nữa trong trong cuộc trò chuyện với các tu sĩ Dòng Tên châu Phi, đã được đăng trên tạp chí Văn minh Công giáo, theo ngài, triều giáo hoàng là suốt đời và khả năng từ chức sẽ không xảy ra. Nhưng, nếu ngài bị bệnh và không thể lãnh đạo Giáo hội, chắc chắn ngài sẽ từ bỏ chức vụ Thánh Phêrô, điều đó là hiển nhiên. Ngài làm việc với tinh thần sáng suốt và nếu bất cứ lúc nào ngài hiểu đã đến lúc phải từ bỏ chức vụ của mình, ngài sẽ làm ngay trong ngày mà không gởi bất kỳ một thông cáo nào báo trước.

Việc Đức Phanxicô nhập viện: cố gắng để mau trở lại sinh hoạt bình thường và dập tắt những tin đồn và âm mưu

Tuy nhiên, trong quá khứ, một số tuyên bố của ngài vẫn còn mơ hồ, như khi ngài nghĩ đến việc ở lại Ý trong trường hợp từ nhiệm và làm việc với tư cách là “giám mục danh dự của Rôma”. Chúng ta nên diễn giải tuyên bố này như thế nào?

Việc ngài nói từ nhiệm không phải là điều có thể xảy ra và triều giáo hoàng là suốt đời, nhưng không có nghĩa là loại trừ khả năng một ngày nào đó ngài sẽ từ nhiệm. Chắc chắn Đức Bênêđictô XVI đã mở đường cho ngài. Một con đường khả thi, rộng mở, ngay cả bây giờ khi ngài chưa nhìn thấy nó cho chính ngài. Bây giờ cần phải điều chỉnh tình huống này theo quan điểm giáo luật, để hiểu cách đặt tên cho hình ảnh này và các sinh hoạt của ngài – hiện tại, tên ‘giám mục danh dự’ của Rôma là tên dường như phù hợp nhất. Điều này vẫn chưa được xác định rõ ràng, tôi nghĩ sớm muộn cũng sẽ làm.

Lần nhập viện gần đây của ngài, báo chí Ý khơi lại các thảo luận hậu trường về việc kế vị ngài. Thậm chí họ còn nói về một “mật nghị  ma”. Không có gì mới dưới ánh mặt trời, theo cha…

Đúng, người ta đã nói đến “mật nghị ma” này từ nhiều năm nay. Và người ta đã có danh sách những người kế vị tiềm năng của ngài. Trong chuyến đi Phi châu gần đây, Đức Phanxicô còn nói đùa về chuyện này, nếu theo giáo triều Rôma, thì giáo hoàng sẽ thay đổi mỗi sáu tháng một lần. Về sức khỏe của ngài, dù Văn phòng báo chí Vatican và các bản tin y tế của ngài có nói gì, những tiếng nói này vẫn tồn tại, họ muốn xây câu chuyện về một triều giáo hoàng suy yếu. Chúng ta phải sống với bối cảnh này.

Đức Phanxicô trả lời phỏng vấn thông tấn Thụy Sĩ-Ý RSI: tôi già rồi, tôi sẽ từ nhiệm nếu mệt mỏi buộc tôi phải từ nhiệm

Tôi nhớ trong thượng hội đồng về gia đình năm 2015, người ta nói ngài bị ung bướu não. Dĩ nhiên đó là tin giả. Nhưng đó là câu chuyện chống giáo hoàng chung quanh khối u, như thể nó làm suy yếu sự minh mẫn và khả năng suy luận của giáo hoàng có chủ quyền. Hiện nay tôi cũng nghe một số người nói như thế về một căn bệnh nghiêm trọng sẽ ảnh hưởng đến giáo hoàng, nhưng điều này không có cơ sở một chút nào.

Có phải ngài hoàn toàn thờ ơ với vấn đề kế vị ngai Thánh Phêrô không?

Theo tôi, đây không phải là chủ đề quan trọng với ngài. Đức Phanxicô đang làm phần việc của ngài với tư cách là giáo hoàng có chủ quyền. Chẳng hạn, việc lựa chọn các hồng y đáp ứng một logic của giáo hội: bổ nhiệm các tu sĩ thuộc các giáo hội nhỏ và vùng ngoại vi. Đây không phải là một phần của chiến lược bổ nhiệm người kế vị ngài nhưng tầm nhìn về Giáo hội của ngài. Đến mức mà đôi khi ngài chọn những hồng y không thực sự ở trong “vòng tròn của những người theo tinh thần Bergoglio”.

Dù có những lo ngại về sức khỏe, chương trình làm việc dồi dào của ngài cho năm nay và cả cho năm 2024, với sự kết thúc của thượng hội đồng về tính đồng nghị, có phải là bằng chứng cho thấy người trên tám mươi này không có ý định chậm lại?

Ngoài ra còn có các chuyến đi Hungary, Lisbon, đi Marseille đã lên chương trình. Và rất có thể là một chuyến đi Mông Cổ. Ngay cả chúng ta cũng bắt đầu nói đến năm 2025 với lễ kỷ niệm Công đồng Nicaea (do Hoàng đế Constantine I tổ chức năm 325 để chuẩn hóa Giáo hội).

Đức Phanxicô trả lời phỏng vấn thông tấn Thụy Sĩ-Ý RSI: tôi già rồi, tôi sẽ từ nhiệm nếu mệt mỏi buộc tôi phải từ nhiệm

Một hồ sơ quan trọng khác của Đức Phanxicô: Ukraine. Trong quyển sách Bản đồ của Đức Phanxicô: Vatican và chính trị quốc tế (L’Atlante di Francesco: Vaticano e politica internazionale, nxb. Marsilio) của cha, cha nhắc lại nỗ lực liên lỉ của ngài để ủng hộ đối thoại giữa Kyiv và Matxcova dù phải bị chỉ trích.

Nhiệm vụ của ngài là không bao giờ cắt đứt hay phá vỡ mà làm tất cả để mang những phần bị chia cắt lại với nhau. Đó là lý do vì sao ngài muốn đi cả Kyiv và Matxcova. Để giữ các mảnh lại với nhau.

Quan điểm của ngài không bao giờ là chiến thuật hay chiến lược, nhưng trước tiên ngài nhìn vào tình trạng của người dân, như tình cảnh của các bà mẹ của người lính Nga cũng như người lính Ukraine. Một tầm nhìn bắt đầu từ bên dưới.

Từ lời của một người trẻ Ukraine và Nga đến vụ thảm kịch của người di cư: Đức Phanxicô dâng Đàng Thánh Giá cho ‘chiến tranh thế giới thứ ba từng phần’

Nhưng ngày nay, về cuộc xung đột ở Ukraine, tiếng nói của Vatican hầu như không được nghe thấy. Như lời kêu gọi hòa bình của giáo hoàng Bênêđictô XV trong Thế chiến thứ nhất: có phải đây là tiếng kêu trong sa mạc không?

Thông điệp hòa bình của các giáo hoàng đôi khi được nghe đôi khi không được nghe. Không cần phải quay lại với Đức Bênêđictô XV, chúng ta có thể nghĩ đến Đức Gioan-Phaolô II, ngài đã tìm cách tránh cuộc xâm lược Iraq của Hoa Kỳ. Và ở đây cũng vậy, đây là một thất bại. Nhưng không vì thế mà tiếng nói đạo đức kém ý nghĩa, kém quan trọng. Trái lại: nó đưa ra một phương hướng và giữ cho từ “hòa bình” sống động khi ngày nay chúng ta chỉ nói đến vũ khí, chiến lược và thắng bại của bên này hay bên kia.

Về một chủ đề khác, tuần trước, chúng ta đã nghe tin linh mục Dòng Tên Hans Zollner bất ngờ từ chức, linh mục là nhân vật chủ yếu của Ủy ban giáo hoàng về bảo vệ trẻ vị thành niên, linh mục đưa ra một số thiếu sót trong Ủy ban do Đức Phanxicô thành lập năm 2014?

Tôi không biết chi tiết công việc của Ủy ban. Tôi biết những tuyên bố của linh mục Zollner đã được theo sau bởi những tuyên bố của hồng y O’Malley, chủ tịch Ủy ban, ngài tin tưởng vào quá trình này. Điều tôi có thể nói không chút nghi ngờ, là Đức Phanxicô khi nào cũng mong muốn dọn dẹp. Chẳng hạn gần đây, trong cuộc phỏng vấn với những người trẻ, ngài nhắc lại, ngài không muốn có thời hiệu trong các trường hợp lạm dụng tình dục. Sau đó, đã có những phản kháng trong nội bộ Giáo hội, đó là hiển nhiên, nếu không thì hành động của giáo hoàng sẽ chẳng có ý nghĩa gì. Mặt khác ngài cũng gặp một số ngoài chủ đề này. Nhưng vấn đề ở đây không phải là than phiền về những phản kháng, nhưng hành động một cách mạnh mẽ và quyết tâm để vượt lên chúng. Điều này cần dũng cảm và kiên nhẫn.

Từ lời của một người trẻ Ukraine và Nga đến vụ thảm kịch của người di cư: Đức Phanxicô dâng Đàng Thánh Giá cho ‘chiến tranh thế giới thứ ba từng phần’

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Đức Phanxicô và ám ảnh không ngừng về ma quỷ    

Đức Phanxicô và ám ảnh không ngừng về ma quỷ

Đức Phanxicô và ám ảnh không ngừng về ma quỷ, đó là lý do vì sao ngài nhắc đến ma quỷ nhiều hơn bất kỳ giáo hoàng nào khác.

ilmessaggero.it, Franca Giansoldati, 2023-04-12

Không bàn thảo, không đối thoại, không thương thuyết với ma quỷ. Cho đến nay, qua các trích dẫn, các buổi tiếp kiến, qua các cuộc trò chuyện với các nhóm giáo dân, các bài giảng, các tài liệu, ma quỷ là nhân vật thường xuất hiện trong trong tâm trí Đức Phanxicô, nhiều hơn so với các vị tiền nhiệm của ngài. Rõ ràng, đây không phải là con quỷ nhỏ cầm cây chĩa ba mặc áo đỏ, nhưng đây là vấn đề của thế lực ma quỷ len lỏi khắp mọi nơi, dưới những nếp gấp lịch sử và ngay cả trong Giáo hội. Với Đức Phanxicô, rõ ràng đây là gốc rễ của nhiều vấn đề: chia rẽ, cãi vã, ly giáo, hành vi sai trái, tham nhũng, cái nhìn méo mó về thực tế.

Trên thực tế, hoàng tử bóng tối, thiên thần sa ngã được ngài nhắc đến nhiều hơn Đức Bênêđictô XVI, Đức Gioan-Phaolô II hay các giáo hoàng từ nửa thế kỷ trước. Ngài liên tục nhắc giáo dân về sự tồn tại của ác thần và những cám dỗ muôn màu muôn vẻ của nó. Cho đến nay, ngài đã nhắc đến hàng trăm lần và chỉ cần tìm trên Google để nhận ra bí ẩn của ác thần, misterium iniquitatis, đã hiện diện như thế nào trong thế giới đương đại. Đôi khi ngài trích trực tiếp từ Kinh thánh, đôi khi ngài đưa ra những ví dụ thực tế lấy từ cuộc sống hàng ngày để làm cho người đối thoại hiểu nó không phải là một biểu tượng trừu tượng, kết quả của trí tưởng tượng, nhưng là một thế lực tiêu cực và không thể kiểm soát, có khả năng vĩnh viễn hủy diệt loài người giữa cái thiện và cái ác.

Gần đây, trong quyển sách dành riêng cho chủ đề này Những người trừ quỷ chống lại Satan (Exorcistes contre Satan, nxb. Piemme), chuyên gia vatican học Fabio Marchese Ragona đã trực tiếp đặt câu hỏi với ngài, liệu ý tưởng bám riệt này của ngài có phải là kết quả của việc trừ quỷ ngài đã làm trong quá khứ hay không. Câu trả lời là không. Ngài chưa bao giờ trừ quỷ, dù trong đời linh mục, ngài thường đối diện với những trường hợp có bản chất đáng ngờ và vì thận trọng, ngài gởi họ đến những nhà trừ quỷ chuyên nghiệp. Ngài nói: “Khi tôi còn là tổng giám mục Buenos Aires, một số người đến gặp tôi, họ nói họ bị quỷ ám. Tôi đã gởi họ đến hai linh mục chuyên gia: các linh mục này không phải là người trị liệu, họ là người trừ quỷ. Linh mục Carlos Alberto Mancuso trừ quỷ ở giáo phận La Plata và linh mục Dòng Tên Nicolas Mihaljevic, người Croatia, cha giải tội của tôi. Cả hai linh mục nói với tôi, trong số những người tôi gởi đến, chỉ có hai hoặc ba người thực sự bị quỷ ám. Những người khác họ bi ma quỷ ám ảnh, điều này hoàn toàn khác vì họ không có ma quỷ trong người. Chúng ta nên làm chính xác điểm này.”

Chính ngài nói, ngài đang chọc tức ma quỷ và đó là lý do vì sao những lời chỉ trích chống lại ngài trở nên gay gắt hơn: “Thực sự có thể là tôi chọc giận ma quỷ, vì tôi cố gắng theo Chúa và làm theo những gì Tin Mừng nói. Và điều này làm cho ma quỷ khó chịu. Nó rất vui khi thấy tôi phạm một lỗi nào đó. Nó đi tìm sự thất bại của con người, nhưng nó không có một hy vọng nào nếu chúng ta cầu nguyện.”

Ngài nói thêm: “Chắc chắn ma quỷ thử tấn công tất cả mọi người, không phân biệt ai, nhưng nhất là nó muốn tấn công những người có trách nhiệm cao trong Giáo hội hoặc trong xã hội. Ngay cả Chúa Giêsu cũng bị ma quỷ cám dỗ và chúng ta nghĩ đến ông Simon Phêrô, Chúa Giêsu đã nói với ông: “Hỡi Satan, hãy tránh xa Ta”. Vì thế cả giáo hoàng cũng bi quỷ tấn công. Chúng ta là những con người và quỷ luôn tìm cách tấn công chúng ta. Thật đau lòng, nhưng với lời cầu nguyện thì nó không có hy vọng! Và như Thánh Phaolô VI đã nói: “Ma quỷ cũng có thể vào đền thờ Thiên Chúa, để gieo rắc bất hòa, để chúng ta chống lại nhau: chia rẽ và tấn công luôn là công việc của ma quỷ. Nó luôn cố gắng làm suy yếu và làm hư hỏng tâm trí con người. Sự cứu rỗi duy nhất là đi theo con đường do Chúa Kitô hướng dẫn.”

Theo Đức Phanxicô, có nhiều loại quỷ khác nhau. Một số nguy hiểm hơn một số khác: “Tôi nghĩ có một số quỷ rất nguy hiểm, tôi muốn nói đến những con quỷ lịch sự.” Chúa Giêsu cũng nói về điều này trong Phúc âm Thánh Luca: “Khi thần ô uế xuất khỏi một người, thì nó đi rảo qua những nơi khô cháy, tìm chốn nghỉ ngơi. Mà vì tìm không ra, nó nói: ‘Ta sẽ trở về nhà ta, nơi ta đã bỏ ra đi.’ Khi đến nơi, nó thấy nhà được quét tước, dọn dẹp hẳn hoi. Nó liền kéo thêm bảy thần khác dữ hơn nó, và chúng vào ở đó. Rốt cuộc tình trạng của người ấy lại còn tệ hơn trước.”

Chúng lịch sự đi vào. Linh hồn nào không xét lương tâm sẽ không nhận ra. Hoặc vì do nguội lạnh thiêng liêng, tâm hồn để quỷ đi vào. Đó là điều khủng khiếp vì nó giết chúng ta. Đó là cách quỷ ám xấu nhất. Thói thời thượng thiêng liêng che phủ những chuyện này. Chúng ta không có lối thoát: hoặc ma quỷ trực tiếp hủy diệt bằng chiến tranh và bất công, hoặc chúng làm một cách lịch sự, rất ngoại giao, như Chúa Giêsu đã kể lại. Chúng ta cần phải có phân định.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Đức Phanxicô cảnh báo về ‘sự cay đắng’, thần dược của ma quỷ

Linh mục Marcos García Bếp trưởng trên chương trình truyền hình Tây Ban Nha

Linh mục Marcos García Bếp trưởng trên chương trình truyền hình Tây Ban Nha

fr.aleteia.org, Ramon Antonio Pérez, 2023-03-23

Linh mục Marcos García là người Venezuela tham dự chương trình Bếp trưởng Tây Ban Nha ngày 27 tháng 3 năm 2023. Mục tiêu của linh mục là để thấy “Chúa ở đó, trong nồi niêu son chảo”.

Cho đến nay, một linh mục nấu bếp là chuyện bình thường nhưng một linh mục nấu bếp trên truyền hình lại là một chuyện khác. Linh mục Marcos García, 44 tuổi Dòng Đa Minh người gốc Venezuela đam mê nấu nướng, cha quyết định tham gia vào chương trình truyền hình ẩm thực nổi tiếng “Master Chef” của Tây Ban Nha, bắt đầu ngày 27 tháng 3 và khán giả sẽ xem các thí sinh cạnh tranh nhau qua các món ăn được các đầu bếp Tây Ban Nha nổi tiếng Pepe Rodríguez, Jordi Cruz và Samantha Vallejo-Nágera chấm điểm.

Trong số hơn 70.000 đơn ghi tên, chỉ có 1.000 đơn được nhận. Và linh mục García đã làm ba giám khảo ngạc nhiên khi lần đầu tiên họ thấy có một linh mục tranh đua với các thí sinh khác.

Đầu bếp Pepe Rodríguez hỏi: “Một linh mục làm gì ở MasterChef?” Linh mục Marcos trả lời ngay: “Thánh Têrêsa Avila nói, Chúa ở đó giữa nồi niêu son chảo!” Được hơn 10.000 người theo dõi trên tài khoản Instagram, cha thường xuyên đăng các video ngắn nói về Tin Mừng.

Cha Marcos nói với trang web của Dòng Đa Minh Tây Ban Nha: “Khi ghi tên, tôi không nghĩ tôi ghi với tư cách là linh mục Dòng Đa Minh. Sau đó tôi giải thích với ban tổ chức, tôi phải đi dâng thánh lễ cho giáo dân.” Nếu thắng cuộc thi, linh mục sẽ giúp đỡ cộng đồng Venezuela và một nhà dưỡng lão ở biên giới Colombia-Venezuela.

Linh mục Marcos vào Dòng Đa Minh năm 1995 khi vừa học xong trung học. Sau ba năm tập sinh, cha trải qua khủng hoảng ơn gọi, cha khát khao thành nhà báo, cha rời chủng viện để thực hiện ước mơ này. Linh mục nói với trang Aleteia Tây Ban Nha: “Đôi khi chúng ta không lắng nghe Chúa, tiếng nói chúng ta cần lắng nghe trong cơn bão giữa những lúc khó phân định.” Cha học truyền thông và làm nhiều việc khác nhau, lễ tân, giáo viên, dạy võ để giúp gia đình trang trải việc học, và cuối cùng cha là nhà báo cho kênh NTN 24 ở Colombia. Cha nói: “Đó là giai đoạn thanh tẩy. Chúa có đường lối của Ngài, không phải đường lối của tôi.”

Đi lại từ đầu

Dù có một đời sống giàu có và đầy đủ, nhưng Marcos thấy khao khát của mình chưa thực hiện được. Cuối cùng Marcos nhận ra Chúa vẫn tiếp tục gọi anh, chàng trai trẻ quay lại. Linh mục giải thích: “Khi Thiên Chúa yêu, Ngài không nghỉ ngơi cho đến khi chúng ta thuộc về Ngài!”, cha muốn nói đến câu nói nổi tiếng của Thánh Augutinô “Chúa đã dựng nên con cho Chúa, trái tim con khắc khoải cho đến khi nào nó được nghỉ yên trong Chúa”. Marcos quyết định về lại Dòng để học thần học, nhưng vẫn chưa quyết định sẽ làm linh mục. Chỉ đến năm 2020, những câu hỏi của anh mới tìm được câu trả lời. Khi được gởi đến tu viện Avila Tây Ban Nha học, Marcos khám phá cuộc đời Thánh Têrêxa Avila vĩ đại này. Khi đang sốt sắng cầu nguyện, đột nhiên anh có cảm giác như Thánh Têrêxa hỏi anh: “Sao con chưa là linh mục?”

Ngày 15 tháng 11 năm 2020, anh được giám mục José María Gil Tamayo giáo phận Avila truyền chức phó tế khi anh 42 tuổi. Thánh lễ ít người dự vì đại dịch Covid. Vài tháng sau khi sắp đến ngày chịu chức thì mẹ của anh vì sức khỏe yếu sẽ có thể không đến dự được. Marcos đến gặp bề trên và xin hoãn ngày chịu chức, bề trên trả lời: “Đừng để Chúa đợi con lâu hơn nữa!” Cha Marcos giải thích: “Tôi đã khóc khi chầu Thánh Thể lúc ba giờ sáng, tôi nghe tiếng lương tâm là tiếng của Chúa trong tâm hồn khi chúng ta thực sự muốn nghe. Tôi cảm nhận lòng thương xót Chúa an ủi tâm hồn tôi và nói với tôi: “Cha đã đợi con bao nhiêu năm rồi, trong suốt thời gian này Cha đã để con làm theo cách của con. Bây giờ con để Cha làm theo cách của Cha.”

Và ngày 24 tháng 5 năm 2021, Marcos chịu chức và làm cha xứ San Pedro Mártir.

Marta An Nguyễn dịch

Đức Phanxicô nói chuyện với Cộng đoàn Các Mối Phúc Thật sau cánh cửa đóng kín

Đức Phanxicô nói chuyện với Cộng đoàn Các Mối Phúc Thật sau cánh cửa đóng kín

la-croix.com, Loup Besmond de Senneville, Rôma, 2023-04-17

Ngày 17 tháng 4, Đức Phanxicô tiếp Cộng đoàn Các Mối Phúc Thật mà một số lãnh đạo của họ có liên quan trực tiếp đến các vụ bạo lực tình dục và lạm dụng quyền lực. Một cuộc gặp mà chỉ có bài diễn văn “chính thức” của ngài được công bố và không có một đề cập nào về các sự kiện bị cáo buộc.

Ngày thứ hai 17 tháng 4, Đức Phanxicô tiếp các thành viên của cộng đoàn Các Mối Phúc Thật. Kể từ năm 2010, Cộng đoàn bị  đặt dưới sự giám sát của Rôma vì có những lo ngại về việc nhiều thành viên đã rời cộng đoàn sau khi các vụ bê bối tình dục bị phanh phui. Ảnh: TIZIANA FABI/AFP

Đức Phanxicô đã chuẩn bị bài phát biểu nhưng ngài không đọc, khi tiếp cộng đoàn ngài để bài diễn văn qua một bên và nói chuyện với các thành viên sau cánh cửa đóng kín. Những năm gần đây, một số trường hợp bạo lực tình dục và lạm dụng quyền lực bị đưa ra ánh sáng và năm 2010, cộng đoàn bị đặt dưới quyền  giám sát của Rôma. Cuối cùng, bài diễn văn được phát cho khoảng mười lăm người hiện diện, gồm một cặp vợ chồng cùng với năm người con của họ, Đức Phanxicô ca ngợi các đức tính của cộng đoàn được thành lập năm 1973 này: “Cộng đoàn của quý vị đã đóng góp tích cực cho đối thoại liên tôn, thúc đẩy hòa bình và bảo vệ nhân quyền, chứng từ của quý vị là nguồn cảm hứng cho nhiều người trong việc hình thành các thế hệ trẻ và trong đối thoại liên tôn. Quý vị là một món quà cho Giáo hội.”

Cắt làn sóng truyền tải

Đức Phanxicô đã không đọc bài phát biểu nhưng phát bài phát biểu này cho các thành viên hiện diện, ngài nói chuyện tự do với họ. Như mỗi lần ngài ứng khẩu, Văn phòng Báo chí Tòa Thánh cắt phần ứng khẩu nên thính giả không thể theo dõi được cuộc trao đổi. Theo thông tin của chúng tôi, Vatican không có ý định công khai nội dung cuộc trao đổi này.

Vì thế bài tường thuật của các phương tiện truyền thông Vatican chỉ đăng bài phát biểu chính thức và phần Đức Phanxicô ứng khẩu không có. Bài phát biểu chính thức không đề cập đến bạo lực tình dục hoặc lạm dụng quyền lực liên quan đến một số thành viên của cộng đồng.

Hiếp dâm và cố ý hiếp dâm

Vào tháng 1, báo La Croix tiết lộ có ít nhất 10 cựu học sinh của một trường nội trú ở Autrey (Vosges) bị những hành vi có thể đủ tiêu chuẩn để cho đây là những hành hung hoặc tấn công, hãm hiếp của hai linh mục Dominique Savio và Henri Suso. Linh mục Henri Suso đã rời cộng đoàn Các Mối Phúc Thật năm 2009 để về nhập giáo phận Fréjus-Toulon.

Trong một thông cáo báo chí, Cộng đoàn xác nhận “rất xem trọng thông tin” của báo La Croix tiết lộ và quyết tâm làm việc để làm sáng tỏ các nghi vấn càng nhanh càng tốt của cuộc điều tra này nêu ra.

Như thường lệ, kết thúc buổi tiếp kiến, Đức Phanxicô đã chào từng người một trong cộng đoàn như ngài vẫn thường làm.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Tính Cộng đoàn và Linh động trong cử hành phụng vụ thánh lễ

Tính Cộng đoàn và Linh động trong cử hành phụng vụ thánh lễ

Xem trước (mở trong cửa sổ mới) 1- NHẬP ĐỀ

Phụng vụ, mà đỉnh cao là Thánh lễ, là hành vi của cộng đoàn những người nhờ Đức Tin Thiên Chúa ban cho mà có thể nhận biết, cảm tạ, ca ngợi và thờ phượng Thiên Chúa. Tuy nhiên, từ thời Trung cổ, giáo dân hầu như đã bị loại ra khỏi việc tham dự sống động vào Thánh lễ, trong khi đó, giáo sĩ lại thâu tóm hầu hết các lời nguyện và bài hát của cộng đoàn trong Thánh lễ. Kể từ thời Công đồng Trento, để ngăn chận nguy cơ phủ nhận chức linh mục thừa tác, Hội Thánh đã nêu bật tầm quan trọng của chức vụ này, nhưng việc làm đó đã vô tình tạo thêm khoảng cách giữa giáo sĩ và giáo dân, cũng như làm trầm trọng thêm tính thụ động của giáo dân trong việc tham dự Thánh lễ.

Thế nhưng, Hiến chế Phụng vụ thánh của Công đồng Vatican II ra đời vào năm 1963 đã mở đường cho cuộc canh tân Phụng vụ của Hội Thánh. Cuộc canh tân Phụng vụ này đã phục hồi chiều kích cộng đoàn của các thành phần Dân Chúa trong Thánh lễ (x. PV 27), cũng như đã đề ra nhiều phương thế hữu hiệu giúp các giáo dân tham dự Thánh lễ cách ý thức, trọn vẹn và sống động hơn (x. PV 14).

2. TÍNH CỘNG ĐOÀN TRONG CỬ HÀNH THÁNH LỄ

Có thể nói rằng, tự bản chất, Phụng vụ luôn đòi hỏi phải mang tính cộng đoàn. Cộng đoàn này không chỉ dành riêng cho một hạng người thánh thiện nào, nhưng bao gồm mọi hạng người. Hiến chế Phụng vụ thánh của Công đồng Vatican II dạy rằng mỗi khi cử hành các nghi lễ, đặc biệt trong việc cử hành Thánh lễ, nên quý chuộng việc cử hành cộng đồng hơn việc cử hành đơn độc và riêng rẽ (x. PV 27). Thực thế, chính trong khi cử hành Thánh lễ mang tính cộng đoàn, các tín hữu tạ ơn Thiên Chúa và dâng lên Ngài lễ phẩm tinh tuyền, không những nhờ tay vị tư tế, nhưng còn cùng với ngài, cũng như để học cho biết dâng chính mình nữa (x.QC 95).

Theo sự hướng dẫn của Hội Thánh, kể từ sau Công đồng Vatican II, tính cộng đoàn trong Thánh lễ đã được thể hiện bằng nhiều phương cách phong phú. Trước hết, Công đồng cho phép đưa ngôn ngữ địa phương vào trong cử hành Thánh lễ (x. PV 36). Việc làm này đã mở đường để giáo dân có thể tham gia vào những lời tung hô, những câu đối đáp, những bài thánh ca trong Thánh lễ. Thứ đến, việc Công đồng yêu cầu các linh mục năng giảng Kinh Thánh (x. PV 52) đã khiến cho Lời Chúa trở thành yếu tố liên kết cộng đoàn các tín hữu với nhau trong cùng một Đức Tin. Thêm vào đó, việc Công đồng tái lập Lời nguyện tín hữu sau bài giảng các ngày lễ Chúa Nhật và lễ buộc (x. PV 53) cũng đã góp phần thăng tiến tinh thần liên đới của các tín hữu với toàn thể Hội Thánh và thế giới. Một điểm rất quan trọng nữa là việc Công đồng khuyến khích giáo dân rước lễ cũng như cho phép hiệp lễ dưới hai hình thức trong một vài trường hợp nhất định (x. PV 55). Việc làm này đã làm hiển lộ sự hiệp thông sâu xa giữa các thành phần Dân Chúa khi cùng lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa trong một Thánh lễ.

Như vậy, bằng những điều chỉnh thích đáng, Công đồng Vatican II đã làm cho tính cộng đoàn trong cử hành Thánh lễ được phục hồi và trở nên ngày một thăng tiến. Nhưng không dừng lại ở đó, Công đồng còn khuyến nghị các chủ chăn phải chú trọng và kiên tâm theo đuổi việc huấn luyện Phụng vụ cho các tín hữu (x. PV 19) để tạo điều kiện giúp họ có thể tham dự Thánh lễ ngày một tích cực hơn.

3. MỘT VÀI PHƯƠNG THẾ KHẢ DĨ GIÚP CÁC TÍN HỮU THAM DỰ THÁNH LỄ CÁCH Ý THỨC, TRỌN VẸN VÀ SỐNG ĐỘNG HƠN

Thực thế, một trong những ưu tư của Công đồng là làm sao để các chủ chăn không những chỉ chú tâm cử hành Phụng vụ thành sự và hợp pháp mà thôi, nhưng còn lo sao cho các tín hữu có thể tham dự Thánh lễ một cách ý thức, trọn vẹn và sống động, vì do chính bản tính, Thánh lễ đòi hỏi cách thức tham dự như thế (x. PV 11 và 14).

3.1. Tham dự Thánh lễ cách ý thức

Quả vậy, Hội Thánh hằng bận tâm lo lắng để các giáo dân đừng tham dự vào mầu nhiệm đức tin trong Thánh lễ như những du khách bàng quang, câm lặng, nhưng nhờ hiểu thấu đáo mầu nhiệm đó, họ tham dự các kinh nguyện và nghi lễ thánh cách ý thức hơn (x. PV 48). Do đó, Hội Thánh muốn việc chuẩn bị các bản văn bài đọc, lời nguyện và bài ca trong Thánh lễ phải thích ứng thoả đáng với nhu cầu cũng như não trạng của những giáo dân hiện diện (x. QC 352)

3.2. Tham dự Thánh lễ cách trọn vẹn

Về phía người giáo dân, Hội Thánh khuyên nhủ họ phải tham dự đầy đủ và trọn vẹn, cả hai phần Thánh lễ gồm phụng vụ Lời Chúa và Thánh Thể, nhất là trong ngày Chúa nhật và các ngày lễ buộc. Bởi lẽ hai phần trên được liên kết chặt chẽ với nhau đến nỗi làm thành một hành vi thờ phượng duy nhất (x. PV 56). Để giúp người giáo dân tham dự thánh lễ cách trọn vẹn hơn, các vị hữu trách được yêu cầu tìm cách xếp đặt cho người tín hữu có được vị trí thích hợp trong thánh đường, để họ có thể dự phần xứng đáng vào những nghi thức thánh. Ngoài ra, cũng phải liệu làm sao cho giáo dân không những nhìn thấy vị chủ tế hay các người đọc sách, mà nhờ những phương tiện kỹ thuật hiện đại, còn nghe rõ được các bài đọc, lời nguyện… (x. QC 311).

3.1. Tham dự Thánh lễ cách sống động

Bên cạnh việc mong muốn người giáo dân tham dự Phụng vụ cách ý thức và trọn vẹn, Hội Thánh còn muốn khuyến khích sự chủ động của họ trong cử hành Thánh lễ như việc tích cực đối đáp trong các nghi thức và kinh nguyện (x. QC 35 và 36). Đặc biệt, ca hát là một trong những cách thế hàng đầu giúp người giáo dân tham gia cách sống động vào Phụng vụ, thế nên, các chủ chăn cũng được mời gọi năng khích lệ giáo dân tham gia vào những lời tung hô, những bài thánh vịnh, tiền xướng và thánh ca (x. TN 27).

Như vậy, việc người tín hữu tham gia Thánh lễ một cách ý thức, trọn vẹn và sống động không chỉ khiến họ không còn cảm thấy nhàm chán hay buồn tẻ trong mỗi giờ lễ cũng như không còn cảm thấy cô đơn hay lạc lõng giữa cộng đoàn, mà lại còn có thể dẫn đưa tâm hồn họ hướng về Thiên Chúa và tạo nên sự biến đổi trong chính con người họ. Và một khi nội tâm người tín hữu đã được biến đổi cách thâm sâu, thì đời sống đạo đức và hoạt động tông đồ của họ mới có thể trở nên một niềm vui đích thực.

4. KẾT LUẬN

Quả thực, việc phục hồi và thăng tiến tính cộng đoàn trong cử hành Phụng vụ Thánh lễ kể từ sau Công đồng Vatican II đã giúp tái khẳng định bản tính Công giáo của Hội Thánh, đồng thời cũng giúp các tín hữu chủ động hiệp thông chính mình vào Nhiệm Thể Chúa Kitô. Qua từng ngày, việc Hội Thánh hằng mời gọi các tín hữu tham dự vào Phụng vụ Thánh lễ cách ý thức, trọn vẹn và sống động hơn đã góp phần thúc đẩy các thành phần Dân Chúa không ngừng vươn tới mức sung mãn của Chúa Kitô (x. PV 2).

Chính nhờ mang trong mình những tâm tình của Chúa Kitô đó (x. Pl 2, 5), mà trong mọi nơi mọi lúc, người Kitô hữu luôn biết đón nhận tha nhân trong niềm cảm thông tha thứ thực sự, để xứng đáng cùng với những người anh chị em chung một Đức Tin ấy chia sẻ Một Lương Thực Thần Linh. Và trong niềm hy vọng về Ơn Cứu Độ mai hậu, họ tin tưởng rằng vào ngày tận thế sẽ được Thiên Chúa cho vào dự bàn tiệc nơi Thiên Quốc cùng với tất cả những người anh chị em mà mình đã từng cùng nhau hiệp thông tham dự Thánh lễ khi còn ở trần thế này.

Lạc Vũ Thái Bình

Huế, 2-2023

Các chữ viết tắt trong bài viết:

– Hiến chế Phụng vụ thánh của Công đồng Vatican II: PV

– Quy chế tổng quát sách lễ Roma: QC

– Hướng dẫn mục vụ Thánh nhạc của Hội đồng Giám mục Việt Nam: TN

 

 

Hiện tượng mê tín và vô thần dưới cái nhìn của triết học tôn giáo Tây phương

Hiện tượng mê tín và vô thần dưới cái nhìn của triết học tôn giáo Tây phương

Qua mọi thời và khắp mọi nơi, tôn giáo đã luôn là một chiều kích quan trọng của cuộc sống con người. Nhân loại đã trăn trở suy tư về tôn giáo với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, để hướng tới một cảm thức đúng đắn cũng như thực hành xứng hợp trong đời sống tôn giáo. Sự ưu tư về tôn giáo đó đã đưa đến nhiều kết quả tốt đẹp, tuy nhiên đáng tiếc thay, cũng đã làm xuất hiện vài hiện tượng sai lạc, nổi bật trong số đó là hiện tượng mê tín và hiện tượng vô thần. Dưới cái nhìn của bộ môn triết học tôn giáo, ta hãy thử cùng nhau phân tích đôi nét sơ lược về hai hiện tượng này: chúng có nguồn gốc thế nào, biểu hiện ra sao và có tác hại to lớn đến đâu?

Ta sẽ bắt đầu với hiện tượng xem chừng đơn giản hơn, đó là sự mê tín. Ngay từ cổ thời, Aristotle đã nhận định rằng tâm thức tôn giáo đúng đắn có sự phân biệt với hai thái cực bất cập và thái quá. Thánh Tommaso d’Aquino chỉ rõ mê tín là một thái độ thái quá của tín hữu khi phụng thờ cách quá đáng, hay tệ hơn nữa là phụng thờ những thứ chẳng đáng để phụng thờ. Thánh nhân đã lấy lại những suy tư của Cicéron, khi ông ta cố gắng phân tích từ nguyên của religiosuperstitio, để làm rõ sự khác biệt giữa một tôn giáo đúng đắn là biết cẩn thận suy đi nghĩ lại những điều liên hệ đến phụng tự, còn mê tín là một tật xấu của những kẻ ham đọc kinh và làm việc công đức nhưng lại có tâm tình bất xứng và mù quáng, thậm chí nghiêng về ma thuật.

Như vậy, mê tín là một hiện tượng đã xuất hiện từ rất lâu đời, và căn cứ vào phân tích của các triết gia, ta vẫn có thể nhận ra những dấu hiệu cho thấy sự tồn tại của thói mê tín trong đời sống tôn giáo hiện đại. Đó có thể là việc đọc hết kinh này qua kinh khác rồi lại hát hết bài nọ đến bài kia thật nhiều trong các giờ phụng vụ tư nhân. Nó cũng có thể là việc hăng hái quá mức trong các công việc giáo xứ hay cũng có thể là việc ham mê đi hành hương nhiều nơi liên tục. Những biểu hiện tôn giáo ở trên, nếu không phát xuất từ một cảm thức đức tin đúng đắn và trưởng thành, thì đều là những hiện tượng mê tín gây nguy hại cho đời sống tôn giáo của các tín hữu. Nó khiến cho tôn giáo trở thành trống rỗng, vụ hình thức và không thể làm nảy sinh các hoa trái thiêng liêng tốt đẹp.

Sau khi điểm qua một vài nét về hiện tượng mê tín, ta hãy cùng nhau thử tìm hiểu một vài điểm cơ bản về hiện tượng vô thần. Đây là một hiện tượng tuy chỉ mới chính thức xuất hiện ở vài thế kỉ gần đây, nhưng nó đã có nguồn gốc từ sâu trong lịch sử triết học tôn giáo. Việc lần tìm con đường xuất hiện của hiện tượng vô thần cũng sẽ cho ta nhìn ra một phần bản chất của nó.

Khởi nguyên, quan niệm về thế giới thần linh của người Hy Lạp đã được triết học sơ khởi của Hy Lạp giữ lại trong quan niệm về sự phân ly giữa thế giới thần linh và thế giới phàm trần. Đến lượt nó, quan niệm này lại được Plato vận dụng lại trong việc đề ra một triết thuyết, trong đó thế giới khả niệm siêu việt thế giới khả giác, tức là một cấu trúc nhị phân. Bên cạnh đó, Plato cũng nhấn mạnh đến khía cạnh tri thức trong tôn giáo, khiến cho yếu tố phụng tự rất quan trọng trước đó bị lu mờ. Hạt nhân trong triết thuyết của Plato là chủ thuyết Ý niệm – hữu thể tròn đầy, nền tảng và thường hằng. Điều này đã kích động một phản ứng của các học giả Kitô giáo, tiêu biểu là thánh Pietro Damiani, cho rằng Thiên Chúa toàn năng không bị giới hạn bởi các Ý niệm, các Ý niệm chỉ là các tên gọi mà thôi. Tư tưởng này đã được đẩy lên quá khích bởi William Ockham trong thuyết Duy danh, và khá bất ngờ, nó lại bị biến thành một thứ phê bình tôn giáo nơi các nhà Duy nghiệm Anh như David Hume và John Locke. Khi Baruch Spinoza cố gắng bảo vệ vị thế độc lập của triết học, ông vô tình làm suy yếu uy thế của Kinh Thánh, một bước lớn để dẫn tới hiện tượng vô thần.

Vào cuối thời cận đại, Immanuel Kant muốn đả phá tham vọng nắm giữ tri thức siêu hình học, nhưng việc làm của ông vô tình cũng khiến tôn giáo, lúc đó thường lẫn lộn với siêu hình, cũng bị xem là đáng ngờ. Lại nữa, luân lý học của Kant nhấn mạnh đến khía cạnh tự lập, cũng như việc Kant phân biệt giữa tôn giáo phượng tự và tôn giáo luân lý, đã làm sản sinh ra một đạo đức học phi tôn giáo, trong đó con người tự phán xét cái gì là đúng và sai. Ngạc nhiên thay, nỗ lực phê bình Kant của Friedrich Schleiermacher lại vô tình giản lược tôn giáo thành chỉ còn phụ thuộc hoàn toàn vào sự phân định của mỗi cá nhân. Xuất hiện liên tiếp sau đó là các triết gia với quan niệm duy chức năng về tôn giáo như Feuerbach, Marx, Nietzsche, Freud cùng với học thuyết Tam trạng mang tính Duy thực chứng của Auguste Comte. Tất cả đã lớn tiếng tuyên bố: tri thức của tôn giáo là giả hiệu, thờ bái công cộng của tôn giáo là vô nghĩa, đạo đức của tôn giáo là vô căn cứ, và Đấng Siêu Việt của tôn giáo là không cần thiết, là không tồn tại. Đó chính là hiện tượng vô thần, một điều hoàn toàn đối nghịch với nhân đức thờ phượng, vì đã phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa. Nhìn lại lịch sử hình thành hiện tượng này, ta thấy nó đã biến tướng nhiều lần, từ các chủ thuyết hầu như vô hại cho tôn giáo đến một chủ thuyết tấn công thẳng vào sự tồn tại của tôn giáo. Căn bản là do hiện tượng vô thần đã đặt nền trên một quan điểm không đúng về quyền tự lập của con người, đến độ phủ nhận mọi liên hệ với Thiên Chúa.

Vậy là ta đã điểm qua đôi nét sơ lược về hiện tượng vô thần khi phân tích lịch sử xuất hiện của nó. Cho đến ngày nay, dù đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh và diệt chủng tàn khốc do ý thức hệ vô thần kích động và thúc đẩy, thế nhưng có lẽ một phần nhân loại vẫn lựa chọn đi theo hiện tượng này. Nó vẫn có những biểu hiện khá dễ nhận ra trong cuộc sống đương đại: chủ trương luân lý cá nhân tự quyết, ép buộc cử hành tôn giáo riêng tư, coi rẻ mạng sống con người (phá thai, buôn người). Với tất cả sự sai lầm đầy nguy hại của nó, hiện tượng vô thần vẫn đang gieo rắc nhiều tang thương cho nhân loại.

Như vậy, ta đã cùng nhau thử điểm qua một vài nét chính của hai hiện tượng mê tín và vô thần. Dưới cái nhìn của triết học tôn giáo Tây phương, chúng lộ rõ bản chất đầy lầm lạc và hiểm độc của chúng. Hi vọng việc nhận chân về những sai lạc trong thực hành tôn giáo này sẽ giúp một số người hình thành sư tư phản tỉnh để có một cảm thức đức tin đúng đắn, một đời sống nảy sinh nhiều hoa trái thiêng liêng tốt đẹp.

Lạc Vũ Thái Bình

Huế, 6-2022

Đấu tranh để khai sinh hy vọng

Đấu tranh để khai sinh hy vọng

Ronald Rolheiser, OMI, 2023-04-10

Sau khi sống lại, Chúa Giêsu hiện ra đầu tiên với các phụ nữ. Tại sao lại thế? Một lý do rõ ràng có lẽ là vì chính những phụ nữ này đã đi theo Ngài trong hành trình thương khó ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, trong khi đa phần những người đàn ông khác lại bỏ rơi Ngài. Còn nữa, những phụ nữ này lên đường đến mộ Chúa vào tảng sáng ngày Phục Sinh với ý định xức dầu thơm cho xác chết, nên họ là những người ở trong vườn đầu tiên khi Ngài xuất hiện. Nhưng tôi tin rằng, còn có một lý do mang tính biểu tượng và sâu sắc hơn nữa. Những phụ nữ này là các bà đỡ. Thường thì phụ nữ góp phần trong việc sinh hạ và là những người tinh thông nhất về việc dưỡng nuôi sinh linh mới.

Bà đỡ là sự giúp đỡ thiết thực trong bất kỳ việc sinh hạ nào. Khi một đứa trẻ ra đời, thường là đầu sẽ ra trước, mở đường cho cơ thể ra sau. Trong thời điểm này, rất cần một bà đỡ giỏi, giúp thuận tiện hóa việc sinh nở và bảo đảm đứa bé bắt đầu thở, đồng thời giúp bà mẹ bắt đầu cung cấp dưỡng chất cho sinh linh mới ngay lập tức. Đôi khi, bà đỡ là mấu chốt định đoạt giữa sống và chết, và bà luôn giúp cho việc sinh nở thuận tiện hơn và lành mạnh hơn.

Sự tái sinh của Chúa Giêsu khai sinh ra sự sống mới cho thế gian, và trong thời điểm ban đầu đó, sự sống này phải được hỗ trợ nhờ các bà đỡ, cả về tính khẩn cấp của tình huống lẫn những hơi thở đầu tiên trong thế gian này. Sự tái sinh đã khai sinh nhiều thứ, và chúng cần có bà đỡ, ban đầu là nhờ những phụ nữ được Chúa Giêsu hiện ra đầu tiên, rồi đến các tông đồ đã kể lại cho chúng ta lời chứng thấy tận mắt của họ, rồi đến giáo hội tiên khởi, nhờ các bậc tử đạo, nhờ đời sống đức tin của vô số người qua nhiều thế kỷ và đôi khi là nhờ các thần học gia và ngòi bút thiêng liêng. Và hiện giờ, chúng ta vẫn cần làm bà đỡ cho điều khai sinh ra từ sự phục sinh.

Và biến cố phục sinh đã khai sinh ra nhiều điều, một biến cố tận căn không khác gì sự tạo dựng nguyên thủy. Sự phục sinh của Chúa Giêsu chính là “ngày đầu tiên” thứ hai, là lần thứ hai ánh sáng chia tách với bóng tối. Thật vậy, thế giới xác định thời gian theo biến cố phục sinh. Chúng ta đang ở năm thứ 2023 kể từ biến cố đó. (Kitô giáo được khai sinh từ biến cố đó. Thời đại mới bắt đầu từ đó. Nhưng các học giả đã tính toán rằng Chúa Giêsu đã 33 tuổi khi Ngài chết, nên họ thêm 33 năm để thời gian được tính từ khi ngài ra đời).

Trong những gì mà sự phục sinh đã khai sinh, một điều nổi bật và vẫn cần được chúng ta làm bà đỡ, chính là hy vọng. Sự phục sinh khai sinh hy vọng. Các phụ nữ lần đầu tiên gặp Chúa Giêsu phục sinh chính là những người đầu tiên được trao cho lý do đích thực để hy vọng và họ là những người đầu tiên làm bà đỡ cho sự khai sinh mới này. Chúng ta cũng phải như thế. Chúng ta cần trở thành bà đỡ cho hy vọng. Nhưng hy vọng là gì, và nó được khai sinh thế nào trong sự phục sinh?

Hy vọng đích thực không bao giờ lẫn lộn với kiểu ý nghĩ mơ tưởng hay kiểu lạc quan nông nổi. Không như hy vọng, ý nghĩ mơ tưởng chẳng hề có căn cứ gì. Nó chỉ là mơ tưởng mà thôi. Còn sự lạc quan thì bắt nguồn từ sự nông nổi tự nhiên (kiểu “Tôi luôn thấy mặt tốt của vấn đề”) hoặc theo bản tin tối mỗi ngày, nhưng chúng ta biết tình hình đó có thể thay đổi hàng ngày. Hy vọng lại có một căn cứ khác hẳn.

Tôi xin đưa ra một ví dụ: Pierre Teilhard de Chardin, nhà khoa học gia đầy đức tin, có một lần trình bày với ý định thể hiện rằng câu chuyện lịch sử cứu độ khớp hoàn toàn với những thấu suốt của khoa học về nguồn gốc vũ trụ và sự tiến hóa. Cha Teilhard lấy ý từ câu 3-10, chương 1, thư gửi Tín hữu Êphêsô mà gợi ý rằng cái kết của toàn bộ tiến trình tiến hóa sẽ là sự hiệp nhất mọi sự trong một bản hòa âm tận cùng trong Đức Kitô. Một đồng nghiệp vô thần đã thách thức cha rằng: Những gì cha đưa ra là một giản đồ lạc quan tuyệt vời. Nhưng nếu như chúng thổi bay thế giới bằng bom nguyên tử thì sao. Lúc đó thì giản đồ lạc quan của cha sẽ thế nào? Cha Teilhard trả lời thế này: Nếu chúng ta thổi bay thế giới bằng bom nguyên tử, thì đó sẽ là một bước lùi, có khi là lùi hàng triệu năm. Nhưng điều mà tôi đưa ra sẽ thành sự, không phải vì tôi ước mơ nó hay vì tôi lạc quan. Nó sẽ thành sự vì Thiên Chúa đã hứa như thế, và trong biến cố phục sinh, Thiên Chúa cho thấy rằng Thiên Chúa có quyền năng để thực hiện lời hứa đó.

Điều mà những phụ nữ gặp Chúa Giêsu đầu tiên đã trải nghiệm chính là hy vọng, dạng hy vọng dựa trên lời hứa của Thiên Chúa sẽ đứng về phía sự thiện trước sự ác, sự sống trước sự chết, bất kể hoàn cảnh, bất chấp chướng ngại, bất kể tình hình, bất chấp cả cái chết và bất chấp chúng ta lạc quan hay bi quan. Họ là những bà đỡ đầu tiên đã giúp khai sinh hy vọng đó. Và giờ đó cũng là nhiệm vụ của chính chúng ta.

J.B. Thái Hòa chuyển dịch

Những bức thư từ Kyiv: thư thứ 36 của linh mục Đa Minh Jaroslaw Krawiec từ trung tâm cuộc chiến Ukraine

Những bức thư từ Kyiv: thư thứ 36 của linh mục Đa Minh Jaroslaw Krawiec từ trung tâm cuộc chiến Ukraine

Thành phố Kherson. Quân đội Nga đang tăng cường bắn phá thành phố và các ngôi làng xung quanh | © Jaroslaw Krawiec

cath.ch, Bernard Halle, 2023-04-05

Linh mục Jaroslav Krawiec, tu sĩ dòng Đa Minh người Ba Lan. Linh mục ở Tu viện Mẹ Thiên Chúa, trung tâm thủ đô Kyiv. Kể từ ngày 26 tháng 2 năm 2022, linh mục gởi cho báo Công giáo Thụy Sĩ “các ghi chú từ Ukraine”.

Ngày 3 tháng 4, quân đội Ukraine tuyên bố vẫn giữ được Bakhmout, trong khi Wagner tuyên bố đã chiếm được tòa thị chính của thành phố. Kyiv thông báo chuyến đi của tổng thống Volodymyr Zelensky đến Ba Lan ngày thứ tư. Vladimir Putin đã truy tặng huy chương cho blogger quân nhân Nga bị giết trong một quán cà phê ở Saint Petersburg ngày chúa nhật 2 tháng 4.

Anh chị em thân mến,

Một bức vẽ Đức Mẹ Orléans của Kiev được thấy trên tường của một nơi trú ẩn phóng xạ trên đường phố ở Kherson. Những nơi trú ẩn xi măng nhỏ an toàn này, nằm ở các bến xe buýt, được gọi là “nơi ẩn náu” ở Ukraine. Bản gốc của bức tượng nằm trong bức tranh khảm trên mái vòm của Sophia Sobor, một trong những nhà thờ lâu đời nhất và quan trọng nhất ở Kyiv. Đức Maria, giơ hai tay lên trời trong một cử chỉ của lời cầu nguyện liên lỉ, hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa và vâng theo ý Ngài,  đã trở thành “nơi ẩn náu” cho chúng ta ngày nay.

Hình ảnh này nhắc người dân thủ đô, cũng như người dân thành phố Kherson bị bắn phá không ngừng, về lời cầu nguyện Akathist, rất phổ biến trong truyền thống phương Đông: “Lạy Nữ vương dũng cảm của Thiên binh, Mẹ có sức mạnh bất khả chiến bại, xin Mẹ cứu chúng con khỏi mọi sự dữ!”

Tôi bắt đầu viết thư này trên chuyến tàu từ Warsaw đến Kyiv.

Đường sắt đóng một vai trò rất quan trọng trong thời chiến, hai tuyến đường chính nối Kyiv với Ba Lan như hai động mạch phân phối máu từ tim đến toàn cơ thể. Từ một năm nay, với chúng tôi, các tuyến đường này là huyết mạch của tự do, an ninh và đoàn kết quốc tế. Ngày nay, tất cả mọi người đều dùng các chuyến tàu này, kể cả những nhà lãnh đạo các siêu cường thế giới.

Mỗi toa tàu là một thế giới thu nhỏ. Hành khách chủ yếu là phụ nữ, chúng ta có thể nghe các cuộc trò chuyện bằng tiếng Ukraine, tiếng Ba Lan, tiếng Nga, tiếng Anh và đôi khi bằng các ngôn ngữ khác mà tôi không biết. Với một số du khách, các thành phố như Przemyśl, Chełm hay Warsaw chỉ là điểm dừng chân khi họ sẽ đến Tây Âu, Mỹ hay Canada. Cách đây vài ngày, trên sân ga xe lửa phía Đông Warsaw, tôi thấy mọi người ôm nhau, giọng nghèn nghẹn xúc động, họ nói: “Cuối cùng rồi cũng được đoàn tụ!” Tôi đã thấy những cảnh tương tự như vậy sáng nay ở Kyiv. Chỉ khác là ở đây, phần lớn những người chờ nhận hoa là quân nhân.

“Điều gì cho chúng ta biết rằng chúng ta là người lớn? Đó không phải là tuổi tác của chúng ta, nhưng chính là trách nhiệm chúng ta đảm nhận cho chính mình và cho những người khác”. Tôi chăm chú lắng nghe bài giảng khôn ngoan trong thánh lễ Thêm Sức. Dù giám mục Romuald không nói về cuộc chiến, nhưng những lời của ngài chính xác nói lên động lực cơ bản của nhiều quân nhân Ukraine. Chính trách nhiệm với người thân yêu, với đất nước và tương lai của chính họ đã thúc đẩy nhiều người trong số họ tình nguyện lên đường phục vụ.

Khi mình phải bảo vệ chính ngôi nhà của mình, mình phải trưởng thành nhanh và có những quyết định chín chắn hơn. Trong một cuộc thảo luận tại trung tâm Câu lạc bộ PEN ở Kyiv, ông Oleksandr Mykhed đã hỏi người đồng nghiệp là nhà văn và là người lính Illarion Pavliuk: “Tại sao anh ra trận?”, người quân nhân đơn giản trả lời: “Bởi vì đó là cách duy nhất để chúng tôi bảo vệ con cái chúng tôi”. Người con trai tuổi teen của anh ngồi trong phòng cách tôi không xa. Tôi chắc chắn người con tự hào khi nghe cha mình nói như thế. Tôi cũng không ngạc nhiên khi nói chuyện với những người lính, họ thậm chí không thể tưởng tượng được cuộc sống trong thực tế toàn trị của nước Nga đương đại. Đó là lý do vì sao họ tiếp tục chiến đấu, đơn giản vì họ tin Ukraine không thể thua trong cuộc chiến này.

Lần này tôi không thể tham gia với linh mục Misha, sơ Âugutinô  và các tình nguyện viên của Nhà Thánh Máctinô trong sứ vụ nhân đạo của họ ở vùng Kherson. Vì thế tôi nghe các câu chuyện của họ qua người quen ở nhiều nơi khác nhau. Hiện tại đây là khu vực rất nguy hiểm. Người Nga bắn phá thị trấn và các làng xung quanh với cường độ ngày càng tăng. Đó là lý do tại sao đường phố vắng vào buổi chiều. Marzena, một tình nguyện viên của nhóm Warsaw Charytatywni-Freta, người đã sống ở Fastiv hơn một năm, nhắc lại cho chúng tôi một cuộc gặp gỡ đáng kinh ngạc ở một trong những ngôi làng nằm bên bờ sông Dnepr. “Chúng tôi được một gia đình người Armenia mời ăn tối. Không có cửa hàng trong khu vực, vì vậy mọi người phải ăn bất cứ thứ gì đất và nước có thể cung cấp, một kiểu trở về với thiên nhiên.”

Arzena và Stanislaw, tình nguyện viên người Ba Lan từ nhà Thánh Máctinô Porres với Ursula | © Jaroslaw Krawiec

Tại một thời điểm, một phụ nữ lớn tuổi chống nạng đi khập khiễng đến gần chúng tôi. Có người nói với bà có những người Ba Lan đến thăm làng. Bà Ursula là người Ba Lan ở Drohobych, cách đây nhiều năm bà đến thành phố xa xôi này với người chồng Nga. Bà bật khóc khi nghe lời “xin chào” bằng tiếng mẹ đẻ. Trong hơn bốn mươi năm qua, bà không có dịp nói tiếng Ba Lan. Bà đã xưng tội tuần lễ Phục sinh năm nay, vì tuổi tác và hoàn cảnh khó khăn của chiến tranh, bà nói, đây có lẽ là lần xưng tội cuối cùng của bà. Chúa biết cách tìm con chiên lạc của Ngài.

Mùa Chay là mùa mục vụ rất bận rộn với nhiều anh em chúng tôi. Các bạn tôi đi giảng ở các cộng đoàn, ở các tuần tĩnh tâm trong giáo xứ, ở các dòng tu ở Ukraine cũng như ở Ba Lan. Mùa Chay năm nay khác với Mùa Chay năm ngoái. Năm ngoái giao tranh còn ác liệt ở Kyiv, nơi các tu sĩ Dòng Đa Minh chúng tôi sống – Lviv, Chortkiv, Khmelnitsky, Kharkiv – liên tục bị ném bom. Các nhà nguyện trong nhà chúng tôi là nơi chúng tôi cử hành thánh lễ và giáo dân hầu hết là những người đến xin trú ẩn. Năm nay Tuần Thánh bắt đầu khác, theo một cách bình thường hơn, mặc dù chúng tôi vẫn còn lâu mới được bình thường. Một cách nào đó, chúng tôi đã quen với chuyện này và chúng tôi học cách để sự tàn ác của chiến tranh không hạ gục chúng tôi.

Trong bức thư trước, tôi đã nhắc đến các nghĩa trang, chúng như những đụn cát trong đó những ngày chiến tranh được đánh dấu bằng các ngôi mộ của những người lính đã ngã xuống. Nhưng có những lịch khác, những cách khác để đo thời gian. Chẳng hạn ở các phòng sinh.

Dữ liệu về thương vong của quân đội Ukraine được phân loại, kể cả các binh sĩ bị thiệt mạng. Nhưng các phương tiện truyền thông có đầy đủ thông tin về sinh nở. Trong 400 ngày chiến tranh cho đến cuối tháng 3, có 18.450 trẻ em được sinh ra ở Kiev. Trong số này, số bé trai nhiều hơn số bé gái, có 317 cặp sinh đôi và 4 cặp sinh ba. Có nhiều không? Trước chiến tranh, thủ đô Ukraine đón vài ngàn trẻ em mỗi năm. Và dù mỗi cuộc sống mới là một dấu hiệu của hy vọng, nhưng tình hình nhân khẩu học của đất nước ngày càng trở nên khó khăn. Làn sóng di cư khổng lồ, việc Nga đưa những người sống ở các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng sang Nga, thương vong dân sự và quân sự trong chiến tranh, cũng như tỷ lệ sinh thấp – tất cả những yếu tố này kết hợp lại, hậu quả đau đớn sẽ thấy rõ trong nhiều năm tới.

“Khi một điều gì đó mà tôi đã kiên nhẫn cầu nguyện từ lâu trở thành sự thật, nó luôn làm tôi cảm động nhiều hơn so với lời tôi xin được nhận lời ngay lập tức.” Những lời này là lời của một trong những lá thư của Thánh Têrêsa Bênêđictô Thánh Giá (Edith Stein). Tôi đã ghi lại khi tôi là tập sinh, nhưng nó có một lý do vì sao tôi nhớ lại câu này ngày hôm nay. Khi chiến tranh bắt đầu, tôi đã cố gắng xin làm tuyên úy tình nguyện ở một trong các bệnh viện. Vào lúc đó là không thể. Nhưng tôi vẫn còn mong muốn. Vì thế tôi rất vui khi ngày thứ bảy vừa qua, giám mục Vitaliy điện thoại cho tôi, ngài hỏi Dòng Đa Minh có ai có thể làm tuyên úy ở một trong những bệnh viện ở Kiev, họ đang cần gấp một linh mục.

Yêu cầu này là bất thường với Ukraine, vì mục vụ cho người bệnh vẫn chưa được phát triển. May mắn thay, khi chiến tranh tiến triển, đã có một phát triển tích cực và mối quan tâm ngày càng tăng của chính quyền trong việc nâng đỡ tinh thần cho các bệnh nhân dân sự và quân sự.

Vì vậy, trong vài ngày tới, chúng tôi sẽ bắt đầu một giai đoạn mới trong thánh chức chúng tôi ở Kiev. Linh mục Oleksandr sẽ là tuyên úy của bệnh viện và sẽ tham gia vào nhóm đã được thành lập gồm một linh mục chính thống giáo và một linh mục công giáo theo nghi thức Đông phương. Với tôi, đây là một khoảnh khắc khác trong đời khi tôi nhận ra, Chúa đang biến ước mơ của chúng tôi thành hiện thực, dù trong trường hợp này, thời gian chờ đợi đã kéo dài cả năm trời. Rõ ràng, trên trời, có rất nhiều lời xin khẩn cấp từ Ukraine trong những ngày này.

Xin anh chị em đừng quên cha Oleksandr trong lời cầu nguyện của anh chị em, vì mục vụ bệnh viện trong thời chiến rất khó khăn.

Dù năm nay tín hữu kitô Ukraine của truyền thống phương Đông và phương Tây không tổ chức cùng ngày, những lời này được đọc lên trong phụng vụ chính thống giáo vẫn là lời tuyên xưng đức tin chung của chúng ta: “Chúa Kitô đã sống lại từ cõi chết, bằng cái chết của mình, Người đã chiến thắng sự chết, và Người đã ban sự sống cho những kẻ ở trong mồ mả”.

Với lòng biết ơn và những lời chúc Phục sinh tốt đẹp nhất, và với những lời cầu nguyện khiêm tốn,

Jarosław Krawiec, Dòng Đa Minh.

Kiev, ngày 3 tháng 4 năm 2023

Marta An Nguyễn dịch

Những bức thư từ Kiev: thư thứ 33 của linh mục Đa Minh Jaroslav Krawiec từ trung tâm cuộc chiến Ukraine

Bài mới nhất