Tổng giám mục giáo phận Paris Ulrich: “Ưu tiên của tôi là theo dõi cá nhân các linh mục”
Tổng giám mục giáo phận Paris Ulrich: “Ưu tiên của tôi là theo dõi cá nhân các linh mục”
lefigaro.fr, Jean-Marie Guénois, 2023-04-07

Tổng giám mục Laurent Ulrich, 71 tuổi, là tổng giám mục giáo phận Paris kể từ ngày 26 tháng 4 năm 2022.
Cha sẽ cử hành Lễ Phục sinh đầu tiên trong tư cách tổng giám mục giáo phận Paris chúa nhật Phục Sinh 9 tháng 4. Xin cha cho biết bản tổng kết một năm cha đứng đầu giáo phận Paris?
Tổng giám mục Laurent Ulrich. Đầu tiên là tôi muốn gặp tất cả mọi người, giáo dân, linh mục, người dân Paris. Cụ thể, tôi đã thăm 120 địa điểm khác nhau trong giáo phận. Tôi đã tiếp các linh mục theo từng nhóm mười người đến nhà tôi ăn sáng, chúng tôi nói chuyện tự do và tôi tham dự vào các cuộc họp của các linh mục quản hạt: trong năm ngày đã có 250 linh mục ghi tên, gần như một nửa các linh mục! Chắc chắn họ có nhu cầu được lắng nghe. Tôi cũng hiểu cái nhìn mới của một giám mục không đến từ Paris được đánh giá cao.
Ưu tiên của cha là gì?
Ưu tiên cho các ưu tiên của tôi là theo dõi cá nhân các linh mục và đồng hành với họ. Đó là chuyện khẩn cấp. Họ kể về hạnh phúc khi được làm linh mục và niềm vui khi biết mình được chọn vào công việc này, nhưng họ cũng cảm thấy khó khăn khi làm việc trong bối cảnh xã hội hiện nay của nước Pháp, người dân không hiểu rõ về họ.
Giáo hội Pháp có đi ra khỏi cuộc khủng hoảng của các linh mục ấu dâm không?
Hội đồng Giám mục đã thực hiện các biện pháp rất quan trọng và tiếp tục hành động, nhưng bầu khí đau đớn chính đáng vẫn chiếm ngự trong các cộng đồng của chúng ta. Khi tôi gặp các nhà lãnh đạo trong xã hội, trong giới chính trị hay văn hóa, kể cả những người không quen thuộc với đời sống Giáo hội, họ nói với tôi, chúng tôi đã phản ứng khá tốt và họ đánh giá cao cố gắng của chúng tôi. Tôi hy vọng hành động của chúng tôi sẽ gặt hái hoa trái, và cuối cùng hoa trái này sẽ được nhìn thấy trong Giáo hội.
Tòa giám mục có nâng đỡ đủ cho các linh mục của họ chưa?
Nhiều người cảm thấy họ không được nâng đỡ đủ. Tôi cố gắng đáp ứng bằng sự sẵn sàng của tôi với họ, như trong các chức vụ trước đây của tôi, dù điều này không phải lúc nào cũng được nhận thức.
Vị trí cơ bản của cha với vấn đề truyền thống là gì?
Có năm nơi ở Paris có thể cử hành phụng vụ theo kiểu Ordo cũ. Không phải là không đáng kể. Các nơi này được duy trì và được trải đều để giáo dân có thể tham gia dễ dàng. Tôi xác tín, tính đặc thù của Giáo hội la-tinh dựa trên nghi thức của nó, vốn luôn mang lại sự hiệp nhất. Khi còn trẻ, sau Công đồng Vatican II, tôi đã thấy những tình huống biện minh cho việc chống đối nghi thức mới, vì nó đã bị đối xử không đúng. Bây giờ ngày nay không còn như vậy nữa. Nhìn tổng thể, cử hành phụng vụ thật đẹp và trang nghiêm. Nó tương ứng với những gì Giáo hội muốn và yêu cầu. Một số cần giữ phụng vụ này và cần giữ cho họ trong một thời gian nào đó. Nhưng tôi nghĩ kho tàng phụng vụ được hoàn thành và phát triển tùy theo những gì Giáo hội yêu cầu chúng ta cử hành.
Nhiều người sống rất khổ vì những hạn chế phụng vụ do giáo hoàng áp đặt…
Đức Bênêđictô XVI luôn nhấn mạnh Công đồng Vatican II không phải là một sự gián đoạn mà là sự liên tục. Đó là điều tôi tin tưởng sâu sắc. Tôi đã gặp những người mà ông nói. Tôi tiếp họ và tôi tôn trọng họ; đây là điều tôi đã làm trong các giáo phận trước đây của tôi. Tôi rất tiếc là chúng ta bị chia rẽ về điểm này. Nhưng tôi tin, vâng lời Giáo hội cũng là một nhân đức. Như tôi đã viết trong lá thư mục vụ đầu tiên của tôi, tôi lặp lại với họ: mỗi người trong anh chị em, tôi yêu anh chị em như con cái Thiên Chúa và như những môn đệ của Chúa Kitô.
Vì sao các chủng viện vắng người?
Trên thực tế, các chủng viện đã dần dần vắng chủng sinh. Lý do sâu xa là xã hội chúng ta không còn tin tưởng vào đức tin của Giáo hội, nhưng cũng có những sự kiện gần đây đã tạo khó khăn cho người trẻ, những người cảm thấy mình khó dấn thân. Tôi hy vọng đây chỉ là hiệu ứng khủng hoảng và sẽ không kéo dài. Và cũng không may, chúng ta thấy các người lập gia đình và trẻ em học giáo lý cũng sụt giảm. Nhưng cùng lúc, điều đánh động tôi là các tân tòng, họ là 414 người lớn đã rửa tội tối thứ bảy tuần này ở Paris – đó là tự do của Thiên Chúa. Những người ngoại đạo, những người có một kinh nghiệm bất ngờ về Thiên Chúa, và họ đến với đức tin! Có nhiều người viết cho tôi khi họ xin rửa tội: “Tôi đột nhiên cảm thấy mình bị xâm chiếm bởi một hiện diện vượt quá tôi.” Chúa luôn gọi, đó là mầu nhiệm của Ngài. Ngài có mặt với những người mà họ không mong chờ gặp Ngài, đặc biệt là nơi những người trẻ. Tiếng nói kín đáo của Thiên Chúa không áp đặt, tiếng nói này đi qua trái tim mật thiết của những xã hội mất định hướng nhất. Và đó là điều mở ra con đường cho Hy vọng trong thế giới chúng ta: Chúa đang sống, Ngài đã sống lại, Ngài là Hy vọng sống của chúng ta.
Đức Phanxicô sẽ có chuyến tông du ở thành phố Marseille tháng 9 năm 2023, không biết ngài có đi Paris không?
Nhiều người muốn gặp ngài ở Paris, nhưng ngài chỉ đi Marseille. Ngài không dành ưu tiên cho các quốc gia và thành phố lớn mà các giáo hoàng tiền nhiệm của ngài đã đến thăm.
Cha sẽ cử hành thánh lễ Phục sinh năm 2024 tại nhà thờ chính tòa Đức Bà Paris không?
Không. Tôi không phải là người xây dựng, nhưng tôi được thông báo đầy đủ về tình trạng của công trình. Đại tướng Georgelin đã nói rõ: việc mở cửa đã được lên kế hoạch vào cuối năm 2024. Mục tiêu của chúng tôi là có các buổi phụng vụ vào lễ Giáng sinh năm 2024.
Vấn đề trang trí bên trong nhà thờ chính tòa đã tạo nhiều tranh cãi. Cha có những quyết định nào?
Năm nghệ sĩ trong số sáu mươi hồ sơ đã được chọn để trình bày dự án của họ vào cuối tháng năm. Cuối cùng, tôi sẽ là người lựa chọn, nhưng tôi muốn có sự tham gia của cơ quan công quyền phụ trách việc tái thiết và Bộ Văn hóa ngoài giáo phận. Quyết định này sẽ làm chúng tôi cam kết trong nhiều thập kỷ, nó không phải là những quyết định bất ngờ.
Điều gì sẽ là tiêu chuẩn cho lựa chọn của cha?
Tôi không muốn theo thời trang, nhưng muốn thẩm mỹ. Theo tôi, điều quan trọng là những gì xuất phát từ trái tim người nghệ sĩ có thể chạm đến trái tim của mọi người, đồng thời tôn trọng nhà thờ và di sản của nhà thờ, phục vụ cho phụng vụ hiện tại của Giáo hội công giáo. Vật chất hữu hình phải thể hiện cái vô hình và dẫn đến mối tương quan với Thiên Chúa. Dụng cụ phụng vụ không có một ý nghĩa nào khác.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Giám mục Morerod: “Là giám mục, chúng tôi có trách nhiệm với các linh mục của chúng tôi ”
Rời khỏi Giáo hội công giáo hay ở lại với Giáo hội…
Rời khỏi Giáo hội công giáo hay ở lại với Giáo hội…
renepoujol.fr, René Poujol, 2023-04-12
Hiếm khi câu hỏi này được khơi ra trong những cuộc trò chuyện riêng tư hay trao đổi trên mạng xã hội.
Đã có cơn sóng thần của báo cáo Sauvé (Ủy ban Độc lập về các vụ Lạm dụng tình dục trong Giáo hội Pháp) và sau đó là sự nghi ngờ ngày càng tăng về khả năng tự cải tổ của Giáo hội; có hai báo cáo về hai anh em linh mục Philippe và ông Jean Vanier và sự tự mãn của thể chế bao quanh sự thái quá của họ; có việc các giám mục Pháp đặt vấn đề về các trường hợp lạm dụng… Đối với một số người, các thời điểm mang tính quyết định này đã làm cho họ quyết định cắt đứt với Giáo hội hoặc vĩnh viễn ra đi. Chúng tôi cũng biết việc cách ly khi đại dịch Covid đã làm cho giáo dân bỏ lễ chúa nhật. Cuối cùng, chỉ cần đọc những gì được bày tỏ và tranh luận ngày càng tự do hơn là đủ để hiểu cuộc khủng hoảng đức tin là sâu đậm, là triệt để. Nó ảnh hưởng đến việc quản trị, mục vụ, giáo lý và thậm chí với một số người, nó tác động đến chính nội dung đức tin. Và những lời chỉ trích của Rôma về Con đường đồng nghị ở Đức đã dấy lên lo ngại rằng thượng hội đồng hiện tại, do Đức Phanxicô triệu tập sẽ không đứng vững trước cơn chấn động đang làm rung chuyển Giáo hội. Vì thế với người này người kia, cám dỗ là rất mạnh để đi vào sa mạc…
Trường hợp của ông Jean Vanier và anh em linh mục Philippe: gốc rễ của mù quáng
Trong một thời gian dài, những “ra đi” này vẫn là một ý tưởng hơi trừu tượng đối với tôi.
Giao kèo đạo đức nối tôi với độc giả trang này đòi hỏi tôi phải nói lên sự thật. “Ông Poujol, xin ông cho chúng tôi biết kinh nghiệm của ông trong những chuyện này là gì. Đó là điều chúng tôi quan tâm.” Trong một thời gian dài, những cuộc “ra đi” này vẫn là một ý tưởng hơi trừu tượng đối với tôi, dù tôi nhận thấy nơi một số người thân – hoặc nghi ngờ nơi một số bạn cũ ở đại học – một sự xa cách kín đáo nhưng dứt khoát. Và đột nhiên ở đây tôi bị cho là nhân chứng! Có những người bạn cho tôi biết họ qua đạo tin lành, một trong số họ “căm ghét” Giáo hội vì sáu mươi năm trước đã không biết bảo vệ họ khỏi kẻ săn mồi trong một ca đoàn ở nhà thờ. Cách đây ba ngày, tôi nhận lời tâm sự này: “Tôi nhớ lần tôi trở lại cách đây gần 30 năm đã thay đổi cuộc đời tôi như thế nào. Sau đó, tôi theo một tiến trình đức tin, đào tạo, với một người đã làm cho tôi yêu Giáo hội, người đó là giám mục… Michel Santier. Một người khác cũng rất đáng kể với tôi, người đó đã cho tôi niềm hy vọng lớn lao trong sứ mệnh là người được rửa tội của tôi, người đó là giám mục… Emmanuel Lafont. (1) Vậy, làm sao bây giờ? Tôi đã rất tức giận. Chắc chắn. Nhưng trên hết là một lòng tin đã không còn. Biến mất. Tắt lịm. Chết. Và một phần con người tôi đã không còn tồn tại nữa. Tôi thậm chí không hoài niệm. Tôi sẽ không bao giờ còn là chàng trai trẻ như trước đây, nhiệt tình và thẳng thắn. Tôi làm việc như ông già mà tôi sẽ trở thành, hy vọng ông già này không cay đắng, không tuyệt vọng.”
Khi những người bạn thân nói cho tôi biết họ quay qua vô thần…
Vào ngày 5 tháng 3, tôi nhận một bức thư dài của vợ chồng người bạn lâu năm, tôi xin trích đoạn sau: “Chúng tôi đã rón rén rời xa (Giáo hội công giáo). Không phải tất cả những trường hợp ấu dâm và lạm dụng tình dục làm chúng tôi lo âu: chúng chỉ là triệu chứng bên ngoài của một căn bệnh ung thư ảnh hưởng đến toàn bộ cơ thể Giáo hội ở độ sâu của các tế bào, của nội tạng cấu thành linh hồn của nó. Cơ thể thối rữa từ bên trong; cái ác của nó là chủ nghĩa giáo quyền với hệ lụy của nó là: dối trá. Đó là căn bệnh nhiễm trùng kinh niên, không phải mới có hôm qua… Có rất nhiều điều để nói nhưng chúng tôi đã chọn lưu vong và im lặng vì vấn đề của Giáo hội là rất lớn và đặc biệt hơn là vấn đề “Tôn giáo” với lý do hữu thần và chức năng của nó là thiêng liêng. Chúng tôi không thể ở lại trên ghế nhà thờ để đọc Kinh Lạy Cha, mà bây giờ đối với chúng tôi là vô nghĩa, từ một thời khác, và các bí tích của chúng (bắt đầu với Bí tích Thánh Thể) không còn thích ứng để duy trì sức mạnh thiêng liêng của một tầng lớp giáo sĩ, để truyền hơi thở của Chúa Kitô cho những người đương thời của chúng ta…
Một số người sẽ nói chúng tôi đã trở thành người ‘tin lành’. Như thế là không đúng. Một mặt vì chúng tôi không phản đối bất cứ điều gì – không phải cơ cấu giáo sĩ, cũng không phải giáo hoàng, cũng không phải giáo triều nan y (!) – mặt khác và trên hết vì chúng tôi không còn sống trong thế giới tôn giáo vốn là của chúng tôi từ hơn năm mươi năm nay. Chúng tôi đã từ bỏ, như trong một cuộc tái sinh, con người ‘hữu thần’ cũ để mặc lấy con người ‘vô thần’. Kinh nghiệm tái sinh, chắc chắn là muộn màng và rõ ràng là không ổn định nhưng thật là giải phóng và trẻ trung hóa! Tôi không viết thêm vì mật thiết là không thể tả!”
Bị buộc tội là đồng lõa với đồ tể trong khi tôi tự cho mình – một cách đạo đức giả – là người bảo vệ các nạn nhân
Có cần thiết phải viết ra đây, cú sốc của tôi không, khi nhớ lại số bữa ăn chia sẻ ở nhà họ, nơi có ngọn lửa cháy trước một bức tượng và nơi không bữa ăn nào – không bao giờ – mà không được chúc lành, không có bài hát tạ ơn… Tôi nhớ đến câu này của Emmanuel Carrère trong Vương quốc (Le Royaume): “Tôi thấy thật khủng khiếp với ý nghĩ cho rằng đức tin có thể mất đi và chúng ta không tệ hơn vì bị mất.” Trong những ngày sau đó, trong những lần gặp gỡ tình cờ, tôi đã nói nỗi băn khoăn của tôi với các bạn khác, và thường thường câu trả lời là: “Bạn biết đó, tôi nghĩ tôi cũng nghĩ như vậy.”
Và tôi không đề cập ở đây những người là nạn nhân của đủ loại lạm dụng – nói ngắn gọn – những người mà tôi đã gặp trong vài năm qua, và những người đôi khi bình luận trên blog của tôi, về việc dứt khoát đoạn tuyệt với một Giáo hội mà họ đã chọn để cống hiến cuộc sống và đã phản bội họ. Như vậy, từ chất vấn hoặc xa lánh với người này, đến dứt khoát cắt đứt, thậm chí còn bỏ đức tin với người khác, đó mới thật sự là một hiện tượng có tầm cỡ xuất hiện. Thật khó để tưởng tượng các giám mục không ý thức về chuyện này dù họ tránh khéo hoặc ít nhất nói trại ra cách công khai.
Theo tôi, chắc chắn điều gay go nhất là sự tích tụ của những lời kêu gọi lặp đi lặp lại và công khai, trên mạng xã hội, hãy nhất quán với chính mình và rời bỏ một Giáo hội không thể thay đổi. Hoặc chấm dứt ngay việc bảo đảm sự hiện diện của tôi trong thánh lễ chúa nhật, bằng cách phóng đại con người “thiêng liêng” của linh mục, được cho như người trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, đã tạo nên cái nôi cho chủ nghĩa giáo quyền. Ở đây tôi bị buộc tội là đồng lõa khách quan của những kẻ hành quyết trong khi tôi tuyên bố tôi bảo vệ các nạn nhân một cách đạo đức giả. Tôi đã đọc, ngay sau khi Công giáo trong tự do (Catholique en liberté, nxb. Salvator) phát hành mùa thu năm 2019, rằng tựa đề quyển sách là nghịch lý; rằng tôi phải lựa chọn giữa Giáo hội và tự do. Việc từ bỏ đức tin của tôi sẽ là cách duy nhất để chấm dứt tình trạng “nô lệ tự nguyện” của tôi, mượn tựa đề của nó từ bài luận của Boétie.
Tại sao những người khác ở lại…
Cho đến nay, điều đã cứu tôi khỏi tuyệt vọng chắc chắn là tôi chưa bao giờ thần thánh hóa Giáo hội mà tôi biết, giống như tôi, được tạo ra từ bột nhào của con người. Tôi vẫn còn nghe cha tôi, một người công giáo đạo hạnh, tham dự vào nhiều cấp độ trong đời sống hiệp hội, giáo xứ, giáo phận ở Aveyron, quê hương tôi, gần gũi với một số giám mục liên tiếp, vào một ngày cách đây ba mươi hay bốn mươi năm, ông tâm sự với tôi: “Con biết không, ở Rodez, Chúa Thánh Thần ở ngoài vỉa hè.” Một câu có một ngữ cảnh nào đó và cách chú giải khó hiểu luôn làm tôi phải canh chừng!
Phải tin rằng, “ngoài Giáo hội, không có ơn cứu độ” là một cám dỗ không ai thoát. Song song với bao nhiêu câu chuyện về việc bỏ đi thì cũng có bấy nhiêu câu trả lời thú nhận: “Vì sao tôi ở lại”.
Trong một bài khảo luận, linh mục Dòng Tên Paul Valadier nói, ông biết mình thuộc về một Giáo hội của những người tội lỗi, cả khi ông còn giao du với những người phạm tội ác – và ở cả những địa vị quyền uy – đã nuôi dưỡng trong ông một cảm giác khó chịu. Nhưng cuối cùng ông tự hỏi, đã đến lúc tôi phải rời con tàu chưa? “Chúng ta phải tự hỏi liệu tình liên đới với một dân tộc tội lỗi, họ vẫn liên lỉ đi tìm một hoán cải cần thiết, không phải là một dấu hiệu của tình trạng con người và kitô hữu của chúng ta trong sự thật sao. Trong thời gian gần đây, nhiều người đã xa lánh, nghĩ rằng Giáo hội đã không phát triển đủ nhanh. Nhưng trên thực tế, họ đã nhường hết chỗ cho những người theo chủ nghĩa truyền thống nhất…” (2) Về phần mình, bạn tôi và là nhà xuất bản Michel Cool kêu gọi mỗi người hoán cải, biến suy nghĩ này của Carlo Carretto thành của mình (3) “Không, không sai khi chỉ trích Giáo hội khi chúng ta yêu Giáo hội. Chỉ sai khi chúng ta tự cho mình là những người tinh tuyền để chống lại. Không, không sai khi tố cáo tội lỗi và những đồi bại, chỉ sai khi gán những chuyện này cho người khác, và nghĩ mình vô tội, nghèo nàn, tốt lành. Và đó là cái sai!”
Không còn muốn vắt kiệt sức làm cho thể chế biến đổi, vì điều cốt yếu là ở nơi khác
Vẫn còn những người khác nói lời quyết tâm “ở lại”của họ, dù họ rất đau khổ. Nhưng chắc chắn bài viết dài của ông Antoine Duprez đăng trên trang web Garrigues et Sentiers (4) là phù hợp nhất với cảm xúc cá nhân của tôi. Không phải là ông không biết gì về các nguyên nhân khách quan của cuộc khủng hoảng. Nhưng ông cảm thấy ông “đoàn kết sâu sắc với Giáo hội công giáo” vì không tổ chức nào có thể tồn tại mà không có thể chế, dù bất kể điều gì có thể xảy ra, đã có những hèn nhát và phản bội xảy ra trong những thời điểm nào đó trong lịch sử, nhưng chính nhờ Giáo hội này chúng ta mới biết được khuôn mặt của Chúa Giêsu Kitô và một cách trung thực, không ai có thể biến hai mươi thế kỷ công Giáo thành một tập hợp những tội ác ghê tởm. Hôm nay, ông thú nhận không còn muốn vắt kiệt sức để làm cho thể chế biến đổi – điều mà ông khó tin là có thể làm được – khi với ông, điều cốt yếu là ở nơi khác.
Ông kết luận như sau: “Tôi muốn tham gia vào tương lai Giáo hội, nơi tôi đang ở, thông qua các cộng đồng sống động làm chứng cụ thể cho Tình yêu này được mạc khải bởi tin mừng của Phúc âm. Bởi vì tôi nghĩ điều này có ý nghĩa khi thế giới ngày nay ngày càng trở nên cá nhân hơn, nơi tiền bạc có nguy cơ trở thành chúa tể với quyền lực của nó, để chứng kiến sự sống đích thực trước hết là ở mối quan hệ với người anh em, nhất là với những người thiếu thốn nhất. Trong bí tích “anh em” này và trong các cử hành Thánh Thể ngày càng vui vẻ hơn, giáo dân được cảm hứng từ hành vi đầu tiên của Chúa Giêsu Kitô, hiến mạng sống mình để thế giới được sống và trong tình yêu chia sẻ này có dấu ấn của một Tình yêu xuất phát từ ở trên, mà Giáo hội của tôi đã dạy tôi gọi tên bằng những từ ngữ văn hóa của nó, Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần.”
Những người công giáo ở “ngoại vi” mà các giám mục dường như không nghe thấy
Chắc chắn đây là biểu hiện của một xác tín được nhiều người chia sẻ về những gì như một “phần ngoại vi” của Giáo hội mà các giám mục của chúng ta dường như không vội vàng công nhận, tham gia hoặc lắng nghe. Ngay cả khi cuộc tranh luận không được giải quyết giữa những người đã được rửa tội này, giữa những người xin thay thế việc chia sẻ lời và bánh cho tình huynh đệ bằng bí tích Thánh Thể truyền thống và những người khao khát sự bổ sung giữa hai bên. Ngày 22 tháng 3, trong khuôn viên lịch sử của nhà xuất bản Thời Hiện tại (Temps Présent, 5) đã có một ngày hội thảo để suy ngẫm và trao đổi, các đại diện của nhiều cơ quan công giáo, với tư cách cá nhân cũng như một số nhà báo và nhà xã hội học được biết đến trong giới công giáo. Để nói lên quyết tâm đào sâu suy tư về Giáo hội, để tiếng nói của họ được lắng nghe và mở ra những không gian tự do mới.
Liệu pháp, cơ hội cuối cùng… theo thần học gia Đức Hans Küng
Vậy thì: đi hay ở? Năm 2012, khi bình luận về tình hình đầy kịch tính của Giáo hội Đức, thần học gia Hans Küng đã xuất bản quyển sách không hề mất đi tính chính đáng của nó với tựa đề: Chúng ta còn có thể cứu Giáo hội được không? (Peut-on encore sauver l’Eglise?) Đây là câu cuối cùng mà một số người sẽ thấy rất khiếm nhã đối với lời hứa của chính Chúa Kitô: “Tôi không mất hy vọng rằng Giáo sẽ tồn tại.” (6) Trong phần cuối quyển sách, ông phát triển cái mà ông gọi là “liệu pháp cơ hội cuối cùng”. Ông viết, trong bối cảnh khủng hoảng cấp tính mà chúng ta biết, đã có quyết định không gia nhập vào bất cứ Giáo hội nào, thay đổi hoặc bỏ đi, không đóng thuế cho Giáo hội hoặc không đóng vào Quỹ Giáo hội. Nhưng ngược lại, chúng ta cũng có thể tích cực tham gia cải cách. Ông nói, đó là lựa chọn ông đã chọn. Sau đó ông đưa ra cho mỗi tín hữu đơn thuốc gồm năm món thuốc chữa trị của ông: không được im lặng vì mỗi người đã được rửa tội đều hợp pháp để tham gia vào việc suy tư; hãy tự hành động vì không có sự cải tiến nhỏ nào trong tầm tay mà không mang lại những thay đổi sâu sắc hơn; phối hợp hành động để tránh rủi ro bất lực hoặc bè phái; tìm các giải pháp tạm thời để vượt nhanh hơn những trở ngại mà chúng ta lên án; cuối cùng: đừng bỏ cuộc, đó sẽ là cám dỗ mạnh nhất. “Chính trong giai đoạn phục hồi và đình trệ trong Giáo hội, điều quan trọng là phải tiếp tục với sự thanh thản, trong niềm tin cậy, và không bị hụt hơi.” Đó là sự thật cách đây mười năm…
1.Michel Santier, cựu giám mục Créteil đã bị Rôma trừng phạt năm 2021 vì tội lạm dụng, là đối tượng của một cuộc điều tra mới; Emmanuel Lafont, cựu giám mục Cayenne, đang bị Vatican quản thúc trong lúc điều tra sơ bộ cũng vì các tội lạm dụng.
- Paul Valadier, Rời con tàu? (Quitter le navire? Tạp chí Vie chrétienne số 82).
- Carlo Carretto (1910-1988), lãnh đạo phong trào Công giáo Tiến hành Ý
- Garrigues et Sentiers đã mở ra một cuộc tranh luận lớn xoay quanh chủ đề chúng ta nên bỏ Giáo hội hay ở lại? Bài đọc rất lôi cuốn.
- Được thành lập năm 2009, thừa kế của tuần báo cùng tên, được François Mauriac và Jacques Maritain đưa đến giếng rửa tội năm 1937. Trong mảnh đất ươm mầm này là những người sáng lập tương lai của Thế giới và Đời sống Công giáo…
- Hans Küng, Chúng ta còn có thể cứu được Giáo hội không? (Peut-on encore sauver l’Eglise? Nxb. Du Seuil)
Phụ lục
Vào ngày 11 tháng 3, Hội đồng Công giáo của những người nói tiếng Pháp đã được rửa tội (CCBF) đã trình bày kết quả của một cuộc khảo sát thực hiện trên 1.600 nam nữ đã được rửa tội “ở xa Giáo hội”. Đa số (58%) trong số họ nêu lên một sự tiến hóa gần đây. Các nguyên nhân được tìm kiếm từ phía chấn thương cá nhân, cảm giác bị từ chối của chính họ hoặc của con cái họ, “chính Giáo hội đã rời xa chúng ta”, sự gia tăng của chủ nghĩa giáo quyền trong giáo xứ hoặc giáo phận của họ, sự vắng mặt của bất kỳ cuộc tranh luận nào trong Giáo hội… Chưa hết, 55% cho biết họ sẵn sàng trở lại phục vụ nếu họ được mời… Làm cho chúng ta nghĩ đến câu nói của Đức Phanxicô trong cuộc phỏng vấn mùa hè năm 2013 đăng trong tạp chí Dòng Tên: “Đôi khi người ra đi đã làm với những lý do mà nếu được hiểu và đánh giá đúng đắn, có thể làm cho họ quay trở lại. Nhưng phải cần táo bạo và can đảm.”
Marta An Nguyễn dịch
Đức Phanxicô dự định đi Argentina năm 2024
Đức Phanxicô dự định đi Argentina năm 2024
Trong một tuyên bố với nhật báo La Nación, Đức Phanxicô cho cho biết năm tới ngài sẽ đi Argentina vì sẽ không có cuộc bầu cử nào ở Argentina trong năm 2014, ngài tránh bất kỳ một ý nghĩa chính trị hoặc đảng phái nào trong chuyến đi của ngài.
lanacion.com.ar, Joaquin Morales Sola, 2023-04-23

Đức Phanxicô uống trà matté, một loại trà đặc sản của Argentina / Gregorio Borgia – AP
Có thể vì nhớ đất nước hoặc có thể ngài nghĩ đã đến lúc ngài có thể lên dự trù đi Argentina năm 2024. Ngài nói với nhà báo: “Tôi muốn đi Argentina năm tới.” Theo ngài chuyến thăm đã bị hoãn từ năm 2017 và ngài không bao giờ bỏ ý định sẽ đi, dù các lần hoãn liên tiếp được cho là không có lý do rõ ràng. Năm 2024, sẽ không có cuộc bầu cử nào ở Argentina và như thế ngài sẽ tránh được bất kỳ ngụ ý chính trị hoặc đảng phái nào trong chuyến đi của ngài.
Một cách chính xác, các giáo hoàng không bao giờ đến bất cứ quốc gia nào đang trong quá trình bầu cử. Có lẽ quyết định đưa ra dự định đi Argentina năm 2024 là do ngài muốn tách khỏi cuộc bầu cử tổng thống năm nay. Ngài sẽ đi, dù ai là nhân vật được bầu làm người đứng đầu chính phủ mới của Argentina.
Năm 2017, ngài dự định đi Chilê, Argentina và Uruguay. Nhưng tổng thống Chilê lúc bấy giờ là Michelle Bachelet đã xin ngài hoãn chuyến đi cho đến sau cuộc bầu cử tổng thống năm đó ở Chilê. Ngày được ấn định là tháng 12 và ngài chỉ có thể đến Argentina tháng 1, tháng thường bị tê liệt vì mùa hè ở Nam bán cầu. Sau đó ngài quyết định hoãn các chuyến đi Argentina và Uruguay và chỉ thăm Chilê và Peru. Vì lý do này, ngài nói hoãn chuyến đi về quê hương từ năm 2017, ngài chưa bao giờ dứt khoát hủy bỏ dự định như một vài tin đồn nhiều lần được đưa ra.
Một em bé cầm tấm biển chờ gặp Đức Phanxicô trên đường phố Santiago ở Chi-lê / Eitan Abramovich – AFP
Đức Phanxicô không thích bị dính líu vào các trào lưu chính trị Argentina, dù bên phe nào, chính phủ hay đối lập. Trong ba thông báo gần đây gởi cho các phương tiện truyền thông Argentina nhân dịp kỷ niệm 10 năm triều giáo hoàng (một trong số này ngài gởi cho nhà báo Elisabetta Piqué của nhật báo La Nación ở Rôma), ngài giải thích rõ ràng, ngài không thiên một phái chính trị nào ở Argentina, ngài nói: “Tôi đã ra nước ngoài mười năm. Tôi không có cùng nhịp đập với những gì đã xảy ra ở Argentina. Sẽ không công bằng nếu trong hoàn cảnh này tôi tỏ ra thiện cảm hay ác cảm với bên này bên kia.”
Hiện tại, trong những tuần sắp tới, ngài sẽ bổ nhiệm người thay thế tổng giám mục Buenos Aires, hồng y Mario Poli đã từ chức tháng 11 năm ngoái khi đến tuổi hưu 75 như đã quy định. Ngài nói: “Hiện có ba ứng viên uy tín, tôi không thể nêu tên ai vì chỉ có một người được bổ nhiệm. Tôi phải hội ý với các cơ quan Vatican và các hồng y phụ trách ở các cơ quan này, đây không chỉ là một quyết định cá nhân.”
Thứ ba tuần trước, ngài đã nói với hồng y Poli là việc bổ nhiệm người thay thế ngài sẽ diễn ra rất sớm. Tổng giám mục Buenos Aires mang danh hiệu người đứng đầu Giáo hội Argentina và gần như ngay lập tức được nâng cấp hồng y. Giáo hoàng luôn bảo vệ hồng y Poli, dù ngài luôn tỏ ra rất dè dặt trong suốt thời gian ngài đứng đầu tổng giáo phận Buenos Aires.
Hồng y Poli cùng với Đức Phanxicô năm ngoái tại Vatican Telam
Trước khi tạm biệt, ngài lặp lại: “Tôi luôn muốn về thăm quê hương. Xin đừng liên kết tôi với vấn đề chính trị ở Argentina.”
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Mười năm triều Đức Phanxicô: người dân Argentina vẫn chờ ngài trở về
Người ngoài công giáo kết hôn với người công giáo sẽ như thế nào?
Người ngoài công giáo kết hôn với người công giáo sẽ như thế nào?
americamagazine.org, Simcha Fisher, 2023-04-19
Hình minh họa
Sau khi sinh được ba ngày, cô Laura Frese đưa con vào bệnh viện để chữa chứng vàng da. Hai mẹ con vừa về nhà chỉ mới 12 giờ, lại đúng vào lúc đang có dịch Covid-19, trước khi tiêm vắc xin, cô phải để hai đứa con khác ở nhà mà không có gia đình giúp đỡ. Tại bệnh viện, cô không thể ra khỏi xe.
Bradford, chồng cô, nói: “Tôi thấy vợ tôi khóc ba lần.” Đó là một trong những giây phút Laura cảm thấy không thể chịu đựng được.
Khi đó Bradford cầm tay cô và đọc Kinh Kính Mừng. Điều này đã an ủi cô, giúp cô bình tĩnh lại để có thêm sức mạnh bước qua cánh cổng bệnh viện.
Có lẽ đó không phải là một chuyện phi thường, ngoại trừ Bradford Frese là người vô thần. Anh không tin vào Chúa hay tin vào lời cầu bàu. Nhưng anh rất yêu vợ. Anh nói: “Tôi đã cố gắng tìm cách nào đó để an ủi vợ trong lúc đó, một giây phút đặc biệt dành riêng cho cô, không chỉ với những gì tôi nghĩ. Không phải nói với cô những gì tôi muốn cô nghe, mà để hiểu những gì có thể mang sức mạnh lại cho vợ tôi lúc đó.”
Anh nhận ra lời cầu nguyện cũng tốt cho các con của mình, giúp cho các con bình an lại, thở đều hơn và dạy cho các con biết có những tiêu chuẩn đạo đức cao hơn. Anh tin điều này có những lợi ích theo kinh nghiệm, nếu không muốn nói chính xác là những lợi ích mà những người có tôn giáo tin tưởng.
Gia đình Frese sống ở Washington, D.C., thuộc thành phần của những người ở trong xu hướng đang phát triển ở Hoa Kỳ. Theo một nghiên cứu của cơ quan thống kê Pew năm 2015, trong những năm 1950, chỉ có 5% hôn nhân ở Hoa Kỳ là giữa người theo kitô giáo và người không theo tôn giáo nào, và dưới 20% là giữa người thuộc các nhóm tôn giáo khác nhau. Nhưng mọi thứ đã thay đổi. Vào thời điểm nghiên cứu, tỷ lệ vợ hoặc chồng thuộc các nhóm tôn giáo khác nhau đã tăng lên 39% và 18% các cuộc hôn nhân là giữa một người theo đạo Thiên Chúa giáo và người “không theo gì”.
Với tư cách là người công giáo, việc hiểu rõ hơn về cách những vấn đề này để đi về “phía bên kia” có thể được làm sáng tỏ – cảm giác thế nào khi một người không công giáo kết hôn với một người công giáo.
Những cuộc hôn nhân như vậy có thể phổ biến hơn trước đây, nhưng chúng không hề dễ dàng. Có thể cảm thấy, trong những ngày đầu tiên đầy sóng gió của mối quan hệ vợ chồng, như thử tình yêu có thể xoa dịu mọi khác biệt, kể cả những khác biệt giữa một người tin và một người không tin. Trong thực tế, phải có giao tiếp cởi mở, rõ ràng, linh hoạt và có thể phải có thỏa hiệp của cả hai bên. Cách nuôi dạy con là một điểm thường xuyên gây tranh cãi, và các vấn đề về đạo đức tình dục cũng vậy. Với tư cách là người công giáo, việc hiểu rõ hơn về cách những vấn đề này để đi về “phía bên kia” có thể được làm sáng tỏ – cảm giác thế nào khi một người không công giáo kết hôn với một người công giáo.
Không còn “lên án”
Ông Dale McGowan, tác giả quyển Trong đức tin và trong nghi ngờ (In Faith and In Doubt) và một số quyển sách khác về nuôi dạy con cái không theo tôn giáo, cho biết các nhà lãnh đạo tôn giáo thường cảnh báo những cuộc hôn nhân như vậy “sẽ bị lên án, hoàn toàn phải lên án”. “Thực tế điều này ít xảy ra hơn so với trước đây.”
Khi những hôn nhân này trở nên phổ biến hơn, những lời cảnh báo xung quanh chúng đã trở nên ít nghiêm trọng hơn – và nó có lý do chính đáng. Các nguy cơ của việc kết hôn không theo tôn giáo sẽ nghiêm trọng hơn khi những mối quan hệ tương tác này tạo ra rạn nứt với các cộng đồng xã hội, chính trị và tôn giáo quen thuộc của bạn. Nhưng ngày nay, trung bình một người Mỹ dọn nhà 11 lần, và các cộng đồng đồng nhất, biệt lập, cô lập trong quá khứ bây giờ trở thành hiếm hoi và mong manh. Đơn thuần chúng ta gặp những người khác chúng ta hơn trước.
Ông McGowan nói: “Bản thân nền văn hóa đã thích nghi với ý tưởng tiếp xúc với những ảnh hưởng khác nhau.” Và điều này áp dụng cho cả người tin và người không tin trong các cặp vợ chồng hỗn hợp.
Trong trường hợp của anh Frese, anh lớn lên ở một trường trung học tư thục đa dạng về tôn giáo ở Albuquerque, bang New Mexico, nên đã giúp anh biết tôn trọng những người có tín ngưỡng khác nhau từ khi còn nhỏ. Họ là những người theo đạo mormon, công giáo, tin lành luther, trưởng lão, vô thần và người theo thuyết bất khả tri cùng sống chung với nhau, thoải mái nói về niềm tin cũng như về những bất đồng của họ, trong và ngoài lớp học. Anh tiếp thu ý tưởng đa dạng là điều nên mong muốn. Anh thấy những đứa trẻ nghiêm túc với tôn giáo của chúng thường có xu hướng tử tế và điều này đã tạo ấn tượng tốt cho anh.
Anh nói: “Đó là một vấn đề lớn trong cuộc sống cá nhân của họ, và đã thúc đẩy họ, đó không phải là yếu tố gây chia rẽ.” Tuy nhiên cá nhân anh không quan tâm đến việc giữ đạo: “Tôi bị cắt đứt khỏi lối suy nghĩ này. Đó không phải là điều làm cho tôi có động lực để làm hoặc nghĩ đến.”
Ông McGowan cho biết điều quan trọng trong một cặp vợ chồng là phải nói trước những mong chờ của mình để cuối cùng không ai cảm thấy mình bị lừa.
Vài năm sau khi kết hôn với vợ, anh Frese buộc phải suy nghĩ về tôn giáo khi người vợ công giáo của anh bắt đầu thấm sâu vào đức tin của cô. Họ kết hôn trong một vườn nho, trong vài năm đầu tiên, cô chỉ thỉnh thoảng đi lễ. Nhưng cha xứ khuyên cô nên làm đám cưới ở nhà thờ. Cô rất thích nên Frese đồng ý, và sau khi đứa con thứ hai chào đời, họ tổ chức một buổi lễ trong nhà thờ với gia đình và bạn bè. Cô bắt đầu dấn thân nhiều hơn trong đức tin và trong sinh hoạt giáo xứ.
Đứa con thứ ba ra đời là sự kiện trọng đại, sau lễ đính hôn và sau đám cưới, ông McGowan gọi đây là “điểm chuẩn” đã thực sự đưa ra các vấn đề trong hôn nhân giữa người tin và người không tin.
Ông McGowan cho biết điều quan trọng trong một cặp vợ chồng là phải nói trước những mong chờ của mình để cuối cùng không ai cảm thấy mình bị lừa. Và khi có sự thay đổi trong niềm tin, cả hai phải cố gắng uyển chuyển và cởi mở nhất có thể với các quan điểm khác nhau.
Trước khi kết hôn, hai vợ chồng đã có những cuộc thảo luận cởi mở về những gì họ mong chờ, lý tưởng là họ sẽ có hai đứa con, một trai, một gái. Nhưng nếu họ có hai đứa con cùng giới thì họ sẽ sinh đứa thứ ba hoặc nuôi con nuôi (Laura là con nuôi).
Họ có một trai, một gái.
Anh Frese nói: “Thật tuyệt vời, tôi sẽ cắt ống dẫn tinh.”
Anh bị sốc khi vợ xin anh chờ một thời gian, vì có thể cô muốn có đứa thứ ba. Quá trình mang thai của cô khó khăn và phức tạp vì cô bị ốm nghén nặng, nôn mửa mỗi buổi sáng, cuối cùng anh phải vừa đi làm vừa giữ con.
Anh nhớ lại: “Tôi nói, ‘chúng ta đã có một kế hoạch và anh muốn làm theo kế hoạch này, nhưng anh phải bỏ vì em’”. Và thế là Laura có đứa con con gái thứ ba. Cô nói cắt ống dẫn tinh không phải là điều cô tin tưởng, nhưng quyết định là của chồng cô và anh sẽ làm những gì anh cho là tốt cho anh.
“Và đúng như vậy”, anh nói.
Theo ông McGowan, các cuộc hôn nhân có xu hướng đổ vỡ khi người phối ngẫu giữ đức tin mà xa lánh các thành viên kết hôn ngoài đức tin.
Gia đình Frese, dù vợ là người công giáo và chồng vô thần, nhưng về quan điểm chính trị, trong hai người, ông nói ông bảo thủ hơn. Theo nghiên cứu của ông McGowan, sự kết hợp này – giữa một người không tin và một người công giáo cánh tả – là một trong những kết hợp thành công hơn về mặt thống kê giữa những người theo đạo và không theo đạo. Nghiên cứu cũng cho thấy có kết hợp tốt giữa người vô thần với người do thái có văn hóa (nhưng không tôn giáo) và với người theo tin lành chính thống.
Cô Laura Frese, công giáo và anh Bradford Frese, vô thần, là một phần của xu hướng hôn nhân ngày càng tăng giữa những người có niềm tin tôn giáo và tâm linh khác nhau ở Hoa Kỳ. (Ảnh do gia đình Frese cung cấp)
Theo ông McGowan, các cuộc hôn nhân có xu hướng đổ vỡ khi người phối ngẫu giữ đức tin mà xa lánh các thành viên kết hôn ngoài đức tin. Hồi giáo và do thái giáo chính thống tuyệt đối cấm các hôn nhân hỗn hợp (dù hồi giáo đôi khi cho phép đàn ông hồi giáo kết hôn với phụ nữ có đạo “theo sách thánh” – nghĩa là thuộc một tôn giáo khác của Áp-ra-ham, kitô giáo hoặc do thái giáo; và do thái giáo bảo thủ khác với do thái chính thống, họ đang cho thấy có một số dấu hiệu thay đổi). Dù những người theo đạo mormon hay nhân chứng Giê-hô-va không bị cấm kết hôn như vậy về mặt giáo lý, nhưng một số cộng đồng cắt đứt quan hệ với những cặp vợ chồng này, vì thế có thể gây tổn hại cho người phối ngẫu khi họ theo một trong những tín ngưỡng này.
Ông McGowan nói, động lực còn phức tạp hơn vì trên thực tế, có nhiều phụ nữ mà đời sống thiêng liêng và đời sống gia đình của họ gắn bó chặt chẽ với nhau. Khi ông McGowan (một người vô thần) và vợ của ông thuộc giáo phái tân giáo miền Nam (Southern Baptist) quen nhau ở Los Angeles và thảo luận về tương lai của họ (hiện họ đang sống ở Georgia), bà nói với ông, nếu họ kết hôn, bà sẽ tiếp tục đi nhà thờ. Sau đó, ông phát hiện, yêu cầu này là một kiểu “dành lại quyền” cho quá khứ của mẹ vì mẹ của bà đã kết hôn với một mục sư tân giáo và mong muốn được sống theo một cách nào đó; nhưng người chồng rời nhà thờ và cấm bà đi lễ, điều này đã lấy đi một phần căn tính của bà.
Ông McGowan cho biết vợ ông “đã chứng kiến cảnh mẹ mình đau khổ khi mất cộng đồng này và những điều đã tạo căn tính cho bà”, bà không muốn lịch sử tái diễn.
Ông đảm bảo với bà, đó không phải là ý định của ông. Ông nói: “Làm như tôi có quyền vậy.”
Hôn nhân trở nên căng thẳng khi một trong hai không thể công nhận có một cái gì đó có giá trị nơi quan điểm của người kia.
Thu hẹp khoảng cách
Hôn nhân trở nên căng thẳng khi một trong hai không thể công nhận có một cái gì đó có giá trị nơi quan điểm của người kia. Một người phối ngẫu vô thần có thể đặc biệt bực bội nếu mới đầu họ kết hôn với một người không mộ đạo nhưng sau nhiều năm lại trở nên kính sợ Chúa. Họ thường có cảm giác bỗng có người thứ ba xuất hiện trong đời sống hôn nhân của họ, đặc biệt là trong phòng ngủ.
Ông McGowan nói: “Bạn nợ một cái gì đó bên ngoài hôn nhân của bạn.”
Một Thiên Chúa mà họ không tin đột nhiên có một thẩm quyền không thể nhầm lẫn và không được mời vào trong quan hệ của họ. Ngay cả khi người phối ngẫu đã trở lại, mô tả đó như một soi sáng, nhưng người vô thần vẫn cảm thấy như người phối ngẫu của họ không còn có thể suy nghĩ tự do nữa.
Ông McGowan cho rằng hôn nhân có thể tồn tại qua những thay đổi mạnh mẽ như vậy (xét cho cùng thì tất cả các hôn nhân bền vững đều phải đương đầu với những thay đổi), nhưng sự uyển chuyển và ý chí đối xử tôn trọng người bạn đời ngay cả khi mình không đồng ý là rất quan trọng. Ngay cả khi cả hai vợ chồng đều theo kitô giáo với niềm tin giống nhau, đôi khi các chi tiết có thể tạo ra sự khác biệt lớn, với khả năng tạo ra hố ngăn cách giữa họ.
Bà Lynnsie Pairitz theo kitô giáo nhưng không lấy căn tính trong một giáo phái cụ thể nào. Bà và người chồng công giáo nuôi dạy bốn đứa con học tại nhà theo công giáo, và đó là điều bà chấp nhận khi hai người kết hôn. Bốn đứa con theo khóa đào tạo đức tin tại giáo xứ địa phương ở Colorado, và chúng vào chương trình hợp tác giáo dục công giáo tại gia mỗi tuần một lần.
Bà nói: “Mới đầu tôi không cảm thấy thoải mái, nhưng thật tuyệt khi tôi gặp các bà mẹ và các đứa trẻ khác. Có một số chuyện mà tôi không biết nơi họ. Tôi đang học với các đứa trẻ. Đó là điều gì đó trong tổng thể hôn nhân của chúng tôi: Nhìn chung, tôi đã phát triển sâu sắc hơn trong đức tin vì tôi đã phải nghiên cứu thêm về đức tin của tôi là gì. Tôi đã phải bảo vệ nhiều hơn cho đức tin của tôi.”


Bà Lynnsie Pairitz là kitô hữu không giáo phái kết hôn với một người công giáo. Họ nuôi dạy bốn đứa con nhỏ, học tại nhà theo chương trình công giáo. (Ảnh do gia đình Pairitz cung cấp)
Một số điều bà học được cho là mới, nhưng vẫn phù hợp với thế giới quan hiện tại của bà. Kể cả kế hoạch hóa gia đình theo tự nhiên bà đã học khi theo khóa chuẩn bị hôn nhân của giáo xứ công giáo. Bà nhận thấy cộng đồng y tế áp dụng biện pháp tránh thai bằng nội tiết tố mà không quan tâm đầy đủ đến sức khỏe tổng thể và không giải thích rõ cho họ về phương pháp này. Vì thế khi những lập luận đạo đức về kế hoạch hóa gia đình tự nhiên ít thuyết phục hơn, nhưng những lợi ích xã hội và y tế là những chuyện làm bà quan tâm.
Bà nói: “Lý do tôi và chồng tôi kết hôn là vì chúng tôi có nhiều giá trị giống nhau, và đó là lý do vì sao hôn nhân của chúng tôi thành công. Vì chúng tôi đã có những ý tưởng và giáo dục tương tự nhau, nên không có bước nhảy vọt nào phải thực hiện.”
Thỏa thuận về các giá trị chính này là điều mà ông McGowan cho là “cơ bản nhất để giúp hôn nhân bền vững” giữa những người có tín ngưỡng khác nhau. Ông nói, việc phân biệt giữa niềm tin và giá trị là rất quan trọng: “Niềm tin là những quan điểm về điều gì là đúng; giá trị là các quan điểm về điều gì là tốt. Chúng ta có thể có những giá trị giống nhau với những lý do khác nhau.”
Nếu một người từ chối biện pháp tránh thai vì cho rằng trái đạo đức, và người kia từ chối vì cho rằng không lành mạnh, thì họ có thể tránh được những mâu thuẫn chung quanh kế hoạch hóa gia đình.
Ông McGowan nói: “Họ đến được điểm này từ một con đường khác, nhưng họ hoàn toàn chính trực.”
Nhưng không phải tất cả các học thuyết công giáo đều có thể được nắm bắt từ quan điểm thế tục. Trong hôn nhân của bà Pairitz, cũng như hôn nhân của gia đình Frese, bí tích Thánh Thể có khả năng tạo bất hòa.
Bà Pairitz thừa nhận có sự chia rẽ trong gia đình, nhưng bà ý thức cố gắng bỏ đi những quan điểm có thể làm chia rẽ, bà và chồng dành nhiều thì giờ để nói chuyện về những điểm họ không đồng ý.
Bà Pairitz nói: “Tôi gặp khó khăn với ý tưởng về sự biến đổi bản thể (bánh và rượu biến thành Mình Máu Thánh chúa Giêsu), đó là toàn bộ ý tưởng. Và tôi cảm thấy mệt mỏi với việc mình bị bỏ qua một bên.” Bà nói đôi khi bà muốn xem thánh lễ trực tuyến hơn để không cảm thấy mình là người bên ngoài.
Đứa con lớn của bà đang chuẩn bị được rước lễ lần đầu. Bà Pairitz cố gắng đi qua một bên để chấp nhận, tập trung vào việc mua cho con chiếc áo đầm đẹp và chuẩn bị làm tiệc, tránh không băn khoăn về thần học, cũng như giúp con gái con làm là theo ý muốn của con.
Bà Pairitz thừa nhận có sự chia rẽ trong gia đình, nhưng bà ý thức cố gắng bỏ đi những quan điểm có thể làm chia rẽ, bà và chồng dành nhiều thì giờ để nói chuyện về những điểm họ không đồng ý.
Bà nói: “Tôi nghĩ đó là điều giúp cho chúng tôi có cuộc hôn nhân bền vững. Vì chúng tôi có hai quan điểm nên chúng tôi phải thảo luận sâu hơn, thường xuyên hơn, vì thế chúng tôi mạnh hơn và biết rõ quan điểm của nhau. Chúng tôi chỉ đi theo các động lực và không nhất thiết phải biết tại sao.”
Dù đồng ý nuôi dạy con theo đạo công giáo, nhưng bà đã đánh giá thấp việc bà sẽ phải từ bỏ hay điều gì đó sẽ gây tổn thương như thế nào.
Bà nói: “Có lẽ tôi đã không hiểu cam kết của chồng trong việc nuôi dạy con theo công giáo, và những gì bao gồm nó. Tôi luôn nghĩ, chúng tôi sẽ gặp nhau ở nửa con đường. Tôi cho một chút, anh cho một chút, và đó là nơi chúng ta sẽ gặp nhau. Nhưng nó đã không diễn ra như thế.”
Tuy nhiên, không phải lúc nào bà cũng để cho ông làm theo ý mình.
Khi cha mẹ không đồng ý, chìa khóa để gia đình hòa thuận là nuôi dạy con cái trong hiểu biết, rằng không có câu hỏi nào là bị cấm!”
Bà nói: “Có những trận chiến tôi đã thắng.” Con gái đầu lòng của họ đã được rửa tội ở một nhà thờ tin lành luther. Chồng tôi hơi khó chịu khi đến đây, nhưng chúng tôi đến nhà thờ còn hơn là không.
Giờ đây, xu hướng đã nghiêng về phía công giáo, nhưng đối thoại vẫn còn tiếp diễn. Bà nói khi các con hỏi điều gì đó mà bà không biết, bà thường nói với các con nên hỏi bà nội, bà có một quan hệ nồng ấm với mẹ chồng.
Chìa khóa để gia đình hòa thuận
Theo ông McGowan, khi cha mẹ không đồng ý, chìa khóa để gia đình hòa thuận là nuôi dạy con cái trong hiểu biết, rằng không có câu hỏi nào là bị cấm!”
Ông nói khi các con của ông hỏi Chúa Giêsu có thực sự sống lại từ cõi chết không, ông sẽ trả lời: “À, mọi người đều có những ý kiến khác nhau. Ba không nghĩ Ngài đã sống lại. Ba nghĩ đó là điều mà mọi người nói để giúp họ cảm thấy dễ chịu hơn với cái chết. Nhưng con nên nói chuyện với mẹ.” Và mẹ của chúng là người theo giáo phái tân giáo miền Nam, sẽ nói cho chúng biết những gì bà cho là đúng.
Ông McGowan nói, cả hai cha mẹ đều phải nói cho con cái: “Các con nên quyết định, và các con có thể thay đổi quyết định cả ngàn lần. Và các con quyết định như thế nào, không vì thế mà cha mẹ bớt thương các con.”
Một người không tôn giáo có thể vô cùng đau lòng khi nhìn con cái của họ được dạy điều gì đó mà họ cho là ngu ngốc hoặc không đúng sự thật.
Ông nhấn mạnh với con cái, niềm tin của các con có thể thay đổi theo thời gian.
Ông nói với các con: “Bản sắc không nhất thiết phải là đôi chân của các con ở trong xi măng.”
Đó có thể là một đảm bảo có lẽ dễ dàng hơn với người không tin hơn là với người tin. Ông McGowan nói, chẳng hạn khi một người tin vào địa ngục còn người kia không, thì việc đồng thuận để nuôi dạy con cái sẽ trở nên khó khăn hơn. Một người công giáo tin vào bất tử sẽ có nguy cơ cao hơn khi đứa con từ bỏ đức tin hoặc bắt đầu thử nghiệm những điều mà cha mẹ cho là vô đạo đức. Nhưng người không tin cũng đau khổ không kém khi họ thấy con họ không đủ hiểu biết trong niềm tin. Một người không tôn giáo có thể vô cùng đau lòng khi nhìn con cái của họ được dạy điều gì đó mà họ cho là ngu ngốc hoặc không đúng sự thật.
Với suy nghĩ này, tấm gương đầu tiên về sự tôn trọng của ông McGowan dành cho vợ đặc biệt đánh động. Ông nói: “Tôi đã yêu một người theo đạo tân giáo miền Nam. Và chẳng lẽ tôi nói điều tệ nhất trên đời là các con tôi sẽ giống vợ tôi khi tôi yêu nàng sao?” Dù không tán thành niềm tin thiêng liêng của vợ, ông yêu vợ nên muốn các con mình giống vợ ở một khía cạnh nào đó. Nhưng cuối cùng vợ ông lại bỏ nhà thờ của bà – và điều này làm cho ông rất đau lòng.
Cả hai đều nghĩ hôn nhân của họ phải phản ánh sự kết hợp của Chúa Kitô với Giáo hội.
Ông nói: “Các con tôi đang trong giai đoạn trưởng thành và chúng tôi phải làm việc gay go hơn để đảm bảo khi chúng bị tác động từ bên ngoài, chúng phải có nhiều quan điểm khác nhau. Nó giống như các hình thức đa dạng khác. Bạn càng tiếp xúc với nó, bạn càng ít sợ nó hơn.”
Phản ánh sự kết hợp của Chúa Kitô
Trong một số gia đình, sự đa dạng đó rất gần gũi với họ. Con gái của mục sư Jason Wells rất quen thuộc với hai nhà thờ: nhà thờ công giáo chính tòa Thánh Giuse, ở Manchester, bang New Hampshire, nơi bà Courtney Wells, mẹ của cô là trưởng ca đoàn và nhà thờ tân giáo Thánh Matêô cũng ở Manchester, nơi ông Jason là mục sư chủ sự ở đây. Con gái của họ phục vụ tại bàn thờ ở cả hai nhà thờ.

Mục sư Jason Wells
Mục sư Jason Wells nói khi ông 20 tuổi và chưa lập gia đình, ông tự hỏi làm sao ông có thể gặp người yêu vì với tư cách là mục sư của giáo phái tân giáo, ông không được phép hẹn hò với bất kỳ ai trong giáo đoàn của mình. Nhưng một mục sư tân giáo khác biết ông và cô Wells, là một luật sư. Ông biết cả hai đều rất coi trọng đức tin của họ và ông không thể cưỡng lại việc giới thiệu hai thanh niên nhiệt thành đang chăm chỉ làm việc tại các nhà thờ khác nhau ở các góc phố đối diện.
Mục sư Wells nói: “Cô là người ngồi đối diện bàn bên kia, nói tiếng la-tinh, nói về các vị thánh và nghi thức phụng vụ và tất cả những gì có ý nghĩa với chúng tôi.” Hai người đã kết hôn được 13 năm và họ có một cô con gái 12 tuổi.
Ông mô tả sự hiểu biết của họ về thần học hôn nhân là “90 phần trăm giống nhau.” Nhưng dù là mục sư tân giáo, cả hai theo khóa chuẩn bị hôn nhân tiền-Cana tại một nhà thờ công giáo, và ông nhớ đã theo cô Wells cho khóa học bắt buộc của họ.
Ông nhớ lại: “Tôi nhét cổ áo vào túi khi bước vào phòng.” Sau đó, ông đi bộ về nhà thờ của mình để cử hành thánh lễ.
Hai người đã thảo luận kỹ lưỡng về thần học hôn nhân và cách họ muốn sống đời sống thiêng liêng trong gia đình vời một linh mục công giáo, người này cuối cùng là cha đỡ đầu cho con gái của họ. Cả hai đều nghĩ hôn nhân của họ phải phản ánh sự kết hợp của Chúa Kitô với Giáo hội. Mục sư Wells biết rõ tất cả những điều này, vì ông dạy cho các cặp vợ chồng khác khi ông khuyên họ nên kết hôn trong nhà thờ của họ.
Ông nói: “Cô Courtney cảm thấy Giáo hội công giáo tôn trọng các bí tích của Giáo hội tân giáo, vì vậy con gái chúng tôi đã được rửa tội tại nhà thờ tân giáo mà tôi đang phục vụ vào thời điểm đó. Chúng tôi có thể có một số điểm không đồng ý khi nói về hôn nhân đồng giới, nhưng có rất nhiều điều phù hợp với đường lối mà giáo lý công giáo dạy.”
Nhưng mọi thứ trở nên phức tạp hơn một chút khi nói về con gái của họ. Ông nói: “Chúng ta sẽ làm gì với các bí tích, ở nhà thờ nào, theo thứ tự nào?”
Cho đến nay, họ luân phiên đến nhà thờ của nhau.
Ông cho biết: “Courtney cảm thấy Giáo hội công giáo tôn trọng các bí tích của Giáo hội tân giáo nên con gái tôi được rửa tội ở nhà thờ tân giáo mà tôi đang phục vụ lúc đó.
Nhưng con gái tôi lại rước lễ lần đầu ở nhà thờ công giáo ở Manchester. Ông nói: “Chúng tôi đã có buổi nói chuyện trung thực và cởi mở để liệu xem chuyện này có gây tổn thương hay không, hoặc có mất mát gì không nếu làm theo cách này.”
Con gái của họ bây giờ 12 tuổi và mục tiêu của họ là nuôi dạy con làm sao để con thực sự được tự do khi chọn lựa đức tin cho mình. Nhưng việc đưa ra lựa chọn đó đòi hỏi kiến thức và kinh nghiệm.
Họ hy vọng bất cứ điều gì con cái họ tự quyết định về đức tin, thì phải được thực hiện một cách thận trọng, có chủ ý, vì một lý do hợp lý nào đó chứ không phải vì ngẫu nhiên hay vì đó là điều dễ dàng nhất.
Mục sư Wells nói: “Từ khi con gái tôi bước những bước đi đầu tiên, cháu đã ở bên cạnh Courtney ở nhà thờ chính tòa trên gác xép của ca đoàn. Con gái tôi cũng được đến buổi phụng vụ nơi tôi đang phục vụ rất sớm.”
Đó là một điều mà tất cả các bậc cha mẹ trong bài viết này, kể cả ông McGowan đã bày tỏ: Họ hy vọng bất cứ điều gì con cái họ tự quyết định về đức tin, thì phải được thực hiện một cách thận trọng, có chủ ý, vì một lý do hợp lý nào đó chứ không phải vì ngẫu nhiên hay vì đó là điều dễ dàng nhất.
Bởi vì cả hai đều rất tích cực trong đời sống cộng đồng, cả mục sư và bà Wells không chỉ thường xuyên bàn thảo các vấn đề thần học ở nhà, họ còn có xu hướng trở thành người đại diện cho đức tin của họ trước công chúng.
Mục sư Wells nói: “Courtney bị lôi kéo vào cuộc trò chuyện với những người muốn các linh mục có thể kết hôn. Bạn là một màn hình chiếu cho điều đó, ‘đó là lý do vì sao kỷ luật công giáo về đời sống độc thân là sai’. ‘Hoặc có người muốn bàn lại chuyện vua Henry VIII với tôi.” Ông rất vui vì cả hai đều có thể đưa ra cho mọi người một góc nhìn mà họ có thể không tìm thấy một cách khác.
Ông hay nói đùa, đôi khi ông chỉ muốn ngồi uống cà phê và nói chuyện bóng đá, nhưng cuối cùng thì ông cũng phải chấp nhận thử thách mà hôn nhân bất thường của ông mang lại.
Ông nói: “Chính tự nó là ơn gọi, là làm chứng.”
Khi một cặp vợ chồng với các truyền thống đức tin khác nhau đến gặp ông để hỏi ý kiến, là linh mục, ông khuyên họ nên tự hỏi: “Điều gì trong đời sống đức tin của tôi tuyệt đối phải đi theo tôi, và nếu không được, tôi sẽ cảm thấy mất mát hay đau buồn?”
Rất nhiều cách thực hành thiêng liêng phù hợp trong cuộc sống gia đình hơn là một số khác biệt tín ngưỡng như chúng ta tưởng.
Ông nói, rất nhiều cách thực hành thiêng liêng phù hợp trong cuộc sống gia đình hơn là một số khác biệt tín ngưỡng như chúng ta tưởng. “Đó là lời kêu gọi của bất kỳ gia đình nào để biến ngôi nhà của họ thành một thiên đường thiêng liêng. Những cặp này sẽ làm việc này theo cách có vẻ hơi khác một chút, nhưng nếu nó xuất phát từ giao tiếp tốt và trung thực, thì nó sẽ tạo nên một cuộc hôn nhân bền chặt.”
Tuy nhiên, có một nỗi đau mà họ không thể vượt qua với thiện chí và giao tiếp chân thành, đó là không thể cùng nhau rước lễ.
Ông nói: “Sự ly giáo làm đau đớn”
Ông không chắc con gái mình sẽ theo đạo nào, vì ông mô tả cô con gái “thật đáng kinh ngạc, có lẽ cháu thoải mái trong cả hai Giáo hội”. Ít nhất là cháu không thể nói không ai giáo dục cháu về đức tin.
“Bất cứ điều gì con gái tôi chọn, cháu sẽ làm với sự hiểu biết đầy đủ.”
Dù mục sư Wells thường hay cười khi mô tả sự chắp vá đôi khi khác thường trong cuộc sống hàng ngày của họ, nhưng ông thừa nhận rằng tình trạng như ở nhà, không chỉ một mà hai cộng đồng đã làm cho đôi khi ông cảm thấy mình bị bỏ rơi. Ông nói: “Khi bạn ở mọi nơi đều như ở nhà, thật khó để xây dựng một ngôi nhà ở đâu đó. Bạn không thể cảm thấy mình không phải cá cũng không phải gà. Thỉnh thoảng, có một khoảnh khắc đau buồn. Bạn không thể ở cùng với các gia đình khác, và không có gì là của chúng tôi, ngoại trừ bỏ Giáo hội của bạn để đến Giáo hội khác, có thể thay đổi điều đó. Chúng tôi luôn khác một chút so với những gia đình khác, những người mà những truyền thống này dễ dàng theo hơn.”
Ông nhớ lại truyện tranh “Peanuts”, trong đó Charlie Brown thất vọng hỏi Snoopy: “Tại sao tôi không thể là một con chó bình thường, như các con chó khác?”
Ông lại cười và nói: “Gia đình chúng tôi sẽ không bao giờ là một con chó bình thường.”
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
“Đối diện với cuộc khủng hoảng lạm dụng, các tu sĩ thánh hiến ý thức tính xác thực của họ đang bị đe dọa”
“Đối diện với cuộc khủng hoảng lạm dụng, các tu sĩ thánh hiến ý thức tính xác thực của họ đang bị đe dọa”
“Đối với một số giám mục, cuộc khủng hoảng lạm dụng giống như một loại vi-rút mà chúng ta chữa trị bằng một loại kháng sinh đơn giản. Còn với các nhà lãnh đạo của các dòng thì họ xem đây là căn bệnh ung thư di căn toàn cơ thể Giáo hội.”
Trong phiên họp toàn thể của Hội đồng giám mục, Tu sĩ Pháp từ ngày 11 đến ngày 13 tháng 4 năm 2023, các nhóm làm việc liên quan đến cuộc chiến chống lạm dụng sẽ đưa ra các khuyến nghị của họ. Theo nhà báo Frédéric Mounier, điều phối viên của Hội đồng thì đời sống thánh hiến sẵn sàng để bước qua một bước ngoặt mạnh mẽ.
lavie.fr, Sophie Lebrun, 2023-04-10
Các tu sĩ Pháp họp Đại hội đồng Nam nữ tu sĩ Pháp (Corref) tổ chức từ ngày 11 đến ngày 13 tháng 4 năm 2023 tại Paris. VALENTINE CHAPUIS / AFP
Hai tuần sau khi các giám mục Pháp họp ở Lộ Đức, bây giờ đến lượt các nhà lãnh đạo có trách nhiệm về đời sống tu trì ở Pháp họp đại hội đồng của họ: họ gặp nhau ở Paris từ ngày 11 đến 13 tháng 4. Họ sẽ đưa ra các kết luận và khuyến nghị của các nhóm làm việc được thành lập sau khi báo cáo của Ủy ban Độc lập về Lạm dụng Tình dục trong Giáo hội (Ciase) được công bố.
Hội đồng Tu sĩ Pháp đại diện cho 350 hội dòng, cộng đoàn và tu hội đời sống thánh hiến tham gia vào 4 nhóm chung với Hội đồng Giám mục Pháp (CEF), nhưng họ cũng đã thành lập 5 nhóm độc lập. “Những thực hành tốt sau khi lạm dụng tình dục được tiết lộ”, “sự phân định và đào tạo ơn gọi”, “việc quản trị trong các hội dòng”, “những điểm yếu và nguồn lực trong truyền thống tu trì của chúng ta khi đối diện với lạm dụng” và một phân tích về “cây tốt, trái tốt” (Mt 7, 15-23): đây là những lĩnh vực suy tư khác nhau đã được các nhóm làm việc đề cập trong một năm, các nhóm gồm khoảng mười người trong mỗi nhóm này. Mỗi người trong số họ là các cha bề trên, các mẹ bề trên, bề trên cấp cao, các người đứng đầu và những người có trách nhiệm trong cộng đoàn và một người là nạn nhân của lạm dụng.
Trở lại với công việc lâu dài với điều phối viên của quá trình, ông Frédéric Mounier, cựu nhà báo La Croix, tác giả quyển Giáo hoàng Phanxicô, một cuộc đời (Pape François, une vie, nxb. Presses du Châtelet).
Ông ở Lộ Đức với các thành viên của Hội đồng Tu sĩ Pháp, Corref, những người tham gia vào các nhóm làm việc do các giám mục thành lập liên quan đến cuộc chiến chống lại các lạm dụng trong Giáo hội. Ông nhớ gì từ cuộc họp toàn thể này?
Frédéric Mounier. Tôi có mặt trong những ngày trao đổi giữa các giám mục và các thành viên của các nhóm làm việc, từ thứ hai đến thứ tư. Tôi nhận thấy có một đối thoại sâu sắc được nuôi dưỡng. Ngay cả đôi khi các cuộc trao đổi căng thẳng, nhưng theo tôi, các cuộc đối thoại này mang tính xây dựng. Ấn tượng của tôi, sau khi xem kết quả của các cuộc bỏ phiếu, giống như ấn tượng của nhiều người, những người ghi nhận các giám mục muốn gởi lại phần lớn các đề xuất đã được đưa ra cho họ theo thời gian và không gian. Tôi tin rằng chúng ta đang phải đối diện với hiệu ứng “bức tường cát”, có nghĩa, một động năng mạnh đã được thực hiện với công việc khổng lồ và thành quả được Hội đồng Giám mục Pháp bảo tồn cuối cùng là khá nhỏ. Tôi hiểu cảm giác thất vọng chung khi chủ tịch Hội đồng Thường trực và tổng giám mục Éric de Moulins-Beaufort giáo phận Reims đã không bỏ qua trong bài phát biểu bế mạc của ngài.
Trường hợp của ông Jean Vanier và anh em linh mục Philippe: gốc rễ của mù quáng
Đối diện với cuộc khủng hoảng lạm dụng, các tu sĩ thánh hiến ý thức tính xác thực của họ đang bị đe dọa”
Điều này có thể ảnh hưởng đến bầu không khí của Hội động Tu sĩ Pháp không?
Theo tôi, có một khác biệt cơ bản giữa những gì đã xảy ra ở Lộ Đức của các giám mục Pháp và những gì tôi đã thấy trong các nhóm làm việc của Hội đồng Tu sĩ Pháp từ một năm nay. Đối với nhiều giám mục, dường như cuộc khủng hoảng lạm dụng có thể so sánh với một loại vi-rút nhưng lại được chữa trị bằng một loại kháng sinh đơn giản. Trong khi các nhà lãnh đạo hội dòng và cộng đoàn tu sĩ, họ xem cuộc khủng hoảng này là căn bệnh ung thư tái phát đã di căn trong toàn cơ thể Giáo hội và chỉ có thể trị được bằng điều trị sốc tích cực, và phải theo dõi dài hạn và chú ý liên tục. Tôi quan sát thấy, Hội đồng Tu sĩ Pháp chưa bao giờ nghi ngờ bản chất hệ thống của các hành vi lạm dụng, họ công nhận các số liệu do Ủy ban Ciase ngoại suy là hợp lệ.
Cuối cùng, tất cả các nhóm làm việc đã hội tụ, hướng về quan sát, rằng bạo lực tình dục và lạm dụng quyền lực chỉ là phần nổi của tảng băng chìm và gốc rễ của chúng là sự lạm dụng thiêng liêng và lương tâm, là chi phối và đảo ngược thiêng liêng tính đã bị tàn phá. Mọi người đều hiểu động cơ của cổ máy có vấn đề, cần được tháo ra để lắp ráp lại cho hoàn chỉnh. Đó là toàn bộ hệ thống đã bị suy yếu đến nền.
Các nhóm đã làm việc như thế nào?
Khi tôi nhận chức, tôi nhận thức ở đây có một bầu khí rất đặc biệt, đó là “bầu khí dân chủ trong đời sống nhà tu”. Trong đời sống nhà tu, đó là điều cần thiết: đó là phương thức đối thoại ưu tiên phổ biến gần như khắp nơi. Các tu sĩ nam nữ này đã quen với việc bầu đại diện của họ với một thời gian hạn định, sau đó họ cùng nhau thảo luận và quyết định, cùng nhau lựa chọn các hướng dẫn… Hình thức dân chủ này, tương quan với đời sống tu trì, đã tạo điều kiện thuận lợi cho chất lượng công việc.
Đứng trước bầu khí tốt đẹp này, tôi chú ý đến nhiều ‘hồ sơ khác nhau’ được tập hợp lại: Tôi không muốn ngay ngày đầu, mọi người đồng ý với nhau, một kiểu thoải mái giữa họ với nhau được thiết lập.
Quan điểm của các cộng đồng Hội đồng Tu sĩ Pháp gần đây bị ảnh hưởng như thế nào với các vấn đề lạm dụng?
Trên thực tế, hầu hết các dòng tu và các cộng đồng tu sĩ đều bị các hồ sơ lạm dụng tác động! Kể từ báo cáo của Ủy ban Ciase, các câu chuyện đã được lan ra khắp nơi. Mọi người đều biết, vấn đề không phải là giải quyết các mối quan tâm trong quá khứ nhưng phải xem đến các vấn đề hiện tại, rất hiện tại. Thật đáng quan tâm khi thấy những truyền thống lâu đời nhất đối đầu cái nhìn của họ với các hội dòng Anh em Thánh Gioan hoặc Huynh đệ đoàn Giêrusalem, những cộng đoàn đặc biệt bị lung lay trong một quá trình sửa đổi và hoán cải nội bộ, họ còn phải mất nhiều thời gian mới kết thúc được.
Đâu là các đường lối chính sau một năm làm việc của các nhóm này?
Yếu tố đầu tiên là nhận thức rộng rãi về bối cảnh của cuộc khủng hoảng hiện nay. Có một sự sụp đổ lớn của đời sống thánh hiến ở Tây Âu. Năm 2022, có 16.000 tu sĩ ở Pháp, cách đây 20 năm họ có 66.000 tu sĩ. Điều này dẫn đến một sự thay đổi nhân khẩu học chưa từng có so với các nước phía Nam. Mối liên hệ với cuộc chiến chống lạm dụng là rất quan trọng, với các tu sĩ nam nữ xuất thân trong các lãnh vực này, họ có một mối quan hệ khác với thân xác, quyền lực, tiền bạc, đời sống riêng tư… Song song vào đó là các người trẻ châu Âu dẫn đầu một cuộc tìm kiếm ý nghĩa, một lý tưởng mạnh mẽ đến mức mối quan hệ của họ với tự do và tư duy phản biện có thể bị biến chất.
Nữ tu Véronique Margron: “Khi những người dễ bị tổn thương bị ngược đãi, là chính Chúa bị ngược đãi”
Một số nhóm đưa ra vấn đề cô đơn của các bề trên cộng đồng. Có người đã bị chấn động đến mức họ nghĩ đến việc bỏ đời sống tu trì khi phải xử lý một hồ sơ lạm dụng quá nặng nề. Còn hơn cả giám mục, họ không thể vừa là bề trên, vừa là anh em, vừa là thẩm phán, là cảnh sát với người mà họ cùng ăn chung với nhau cả chục năm nay. Vì thế tất cả các nhóm đều nhấn mạnh mong muốn có nhiều “bên thứ ba” hơn trong mọi lĩnh vực của đời sống tu trì để thoát khỏi tình trạng tự biết nhau, bị cho là rất nguy hiểm.
“Bên thứ ba” này thường là giám mục qua các chuyến thăm thường xuyên. Về mặt này, ghi nhận chung với các giám mục ở nơi khác, là hệ thống không hoạt động tốt. Và như một phần mở rộng, Vatican ngày càng ít được trang bị để giúp đời sống thánh hiến. Sẽ chỉ có khoảng 30 người trong Thánh bộ Đời sống Thánh hiến và các cơ quan Tông đồ, trong đó không có một người nói tiếng Pháp nào, họ giải quyết các hồ sơ liên quan đến hàng ngàn nam nữ tu sĩ trên khắp thế giới… Hơn nữa, ‘chế độ thuyên chuyển lung tung’ (gyrovaguisme), các ứng sinh đi từ nơi đào tạo này sang nơi đào tạo khác cho đến khi có một cộng đồng đồng ý tiếp nhận, đã thường xuyên bị tố cáo.
Các mối nguy hiểm và thiệt hại liên quan đến việc ru rú ở một nơi đã được xem xét trực diện, cả với mục đích tháp tùng các tu sĩ nam nữ đi ra ngoài, nhưng cũng vì nhu cầu định hình việc tự lập hóa của một số người. Có một nhận thức tình trạng không được kiểm soát này có thể dẫn đến lạm dụng.
Có phải các nhóm làm việc đã nhìn gần vào tâm điểm của đời sống tu trì không?
Hoàn toàn đúng! Họ nhấn mạnh đến một số đặc điểm của đời sống thánh hiến đã không được đào sâu đầy đủ và được xem trọng. Vì thế vai trò của tu nghị, của đại hội toàn thể hay của một ủy ban tư vấn có chất lượng đã ở bên cạnh bề trên.
Các bề trên nhận thức được sự tự do trong Truyền thống của họ, nơi anh chị em của họ là một tinh thần sáng tạo thực sự. Hơn nữa, một vài nhóm đã có những lời lẽ rất cứng rắn với các cộng đoàn bị cho là lệch lạc, kêu gọi giải thể hoặc ít nhất là cấm vào dòng, để các hành vi lạm dụng được quan sát thấy, đặc biệt là trong lĩnh vực thực thi quyền lực, không thể tiếp diễn mãi.
Một chất vấn rất tự do được đặt ra xung quanh việc gọi là “cấp trên”, nghĩa là đối lập với “cấp dưới”. Những người ủng hộ một Giáo hội nào đó trong quá khứ sẽ không bị che lấp với các chức danh của một Giáo hội có phẩm trật và kim tự tháp, và chính đó là vấn đề mà một số cộng đồng thánh hiến này muốn đặt lại.
Nhất là ngày hôm nay tôi đã nghe thấy một ước muốn được bày tỏ, suy tư về một ngữ pháp mới cho ba lời khấn: khó nghèo, khiết tịnh và vâng lời.
Nó là như thế nào?
Cách đây 20 năm, những người bước vào đời sống thánh hiến vẫn là những cá nhân sẵn sàng để mình được đào tạo trong khuôn phép quy luật của một đan tu, tông đồ hay chiêm niệm trong một thời gian dài. Nhưng với người trẻ ngày nay, nhận thức về ba lời khấn này có thể không còn như trước. Họ lớn lên trong một xã hội khác, trong đó vâng lời không còn mang một ý nghĩa như trước. Mối quan hệ với cơ thể và phân định tình cảm phải được xem xét cẩn thận. Sự ăn khớp giữa các quy luật của đời sống và các quyền của con người phải được bảo đảm cả trong bối cảnh của đời sống thánh hiến, phải được kết hợp lại với nhau. Cuối cùng, các tu sĩ nam nữ ngày nay thực sự không thiếu thốn gì: khó nghèo của họ là gì?
Vấn đề cơ bản nổi lên và sẽ còn tồn tại sau đại hội đồng tháng tư là: làm thế nào để đời sống thánh hiến ngày mai, có thể diễn giải qua việc lật đổ Tin Mừng, cả dưới hình thức tông đồ và chiêm niệm không?
Làm thế nào công việc này lại không chạm đến các cộng đồng chưa nhận ra mức độ nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng này?
Hội đồng Tu sĩ Pháp chỉ có thể nói với những người đã chọn tham gia. Sau đó, kể cả những người bên trong Hội đồng, những người không muốn nắm bắt sẽ không bị bắt buộc. Nhưng họ có nguy cơ nhìn thấy đủ loại lạm dụng sinh sôi nảy nở trong họ và từ đó làm mất hiệu lực sứ điệp Tin Mừng mà họ tin rằng họ mang theo. Bất kỳ hành vi bè phái nào cũng mang một ý nghĩa tự do đã bị tha hóa: điều khó khăn là tìm cách xoa dịu, trong đời sống thánh hiến, “sự ưng thuận tha hóa” này.
Có bao nhiêu khuyến nghị sẽ được đệ trình lên đại hội toàn thể? Ông có nghĩ các tu sĩ của Hội đồng có thể đưa ra một lựa chọn giống như lựa chọn của các giám mục, bằng cách hoãn các lựa chọn liên quan đến đa số họ không?
Theo tôi, các nhà lãnh đạo của các dòng và các cộng đoàn các tu sĩ nam nữ đã sẵn sàng chấp nhận khoảng 90 nghị quyết sẽ được đề xuất với họ và đưa vào thực hành. Tất cả đều hiểu sự sống còn của họ đang bị đe dọa, rằng tính xác thực của họ đang bị đe dọa.
Rất nhiều đề xuất trong số này là các biện pháp thông thường không kêu gọi cải cách nhưng một hoán cải là rất cần thiết. Tính cấp thiết của trách nhiệm này, của nhu cầu báo cáo thường xuyên và giám sát các hành động là có. Nếu các tu sĩ của đời sống thánh hiến quyết định đẩy mạnh cuộc chiến chống lạm dụng, thì điều này chỉ có thể đem lại lợi ích cho toàn thể Giáo hội.
Còn về phần tôi, tôi chỉ lo sợ một điều: rằng tất cả công việc này không thể thực sự được áp dụng vì thiếu động năng trong các cộng đồng và các thể chế để thực hiện chúng. Ngoài các dấu hiệu của cái chết, sau Thứ Sáu Tuần Thánh, có Thứ Hai Phục Sinh. Đó là về việc chú tâm đến các tia sáng.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Các linh mục trẻ Pháp muốn đưa Giáo hội thoát ra khỏi khủng hoảng như thế nào
Các linh mục trẻ Pháp muốn đưa Giáo hội thoát ra khỏi khủng hoảng như thế nào
Các linh mục trẻ Pháp muốn đưa Giáo hội thoát ra khỏi khủng hoảng như thế nào
lefigaro.fr, Jean-Marie Guénois, 2023-04-09
Với việc suy giảm ơn gọi, khối lượng công việc của các linh mục ngày càng nặng nề hơn, đôi khi họ cảm thấy mình thiếu nâng đỡ, nhưng bất chấp tất cả, lòng nhiệt thành của họ vẫn nguyên vẹn.
Một sự kiện ít tác động đến giới truyền thông lại có một cường độ thiêng liêng cao xảy ra ở Paris: cái chết của một linh mục trẻ. Ngày 14 tháng 3, linh mục Cyril Gordien qua đời vì căn bệnh ung thư hung ác. Cha 48 tuổi, là cha xứ nhà thờ Thánh Đôminicô ở quận 14. Tang lễ của cha ở nhà thờ Thánh Phêrô Montrouge có 6 giám mục, 250 linh mục và gần 2000 giáo dân, không kể đến nhiều lời phân ưu trên khắp nước Pháp gởi về, linh mục Gordien từng là tuyên úy toàn quốc của phong trào Hướng đạo Châu Âu.
Theo các nhân chứng, tang lễ được đánh dấu bởi cường độ của những người có mặt. Thêm nữa, “di chúc thiêng liêng” của cha, một bản văn dài khoảng bốn mươi trang của một tâm hồn rực lửa viết với tựa đề “Linh mục trong tâm hồn đau khổ” tiếp tục lan truyền trên mạng, nên không ai có thể thờ ơ. Linh mục thẳng thừng tố cáo “các linh mục và đôi khi cả các giám mục đã không đi tìm điều tốt lành cho sự cứu rỗi các linh hồn, nhưng trước hết lại chỉ mong muốn có được lợi ích riêng cho mình, như mong muốn thành công của một ‘nghề giả’”. Cha liệt kê: “Họ sẵn sàng làm tất cả mọi sự: nhượng bộ tư tưởng thống trị, thỏa thuận với một số nhóm vận động hành lang như nhóm LGBT, từ bỏ giáo lý về đức tin chân chính để thích nghi với thời đại, nói dối để đạt mục đích của họ.” Cha Gordien thú nhận: “Tôi đã đau khổ vì Giáo hội. Trong những cuộc khủng hoảng khác nhau mà tôi đã trải qua, tôi nhận ra những người cầm quyền trong Giáo hội đã không quan tâm đến các linh mục và hiếm khi bảo vệ họ.” Một cách cay đắng, linh mục ghi nhận: “Là linh mục, mục tử, người hướng dẫn đoàn chiên được giao phó, nếu bạn quyết định chăm sóc phụng vụ để tôn vinh Chúa và đích thực thờ phượng Ngài, thì không chắc bạn sẽ được cấp cao ủng hộ khi bạn đối diện với những người phàn nàn bạn”.
“Trọn vẹn cho sứ vụ của mình”
Trách vụ nặng nề. Những lời của linh mục làm vừa lòng người này, nhưng lại làm cho một số người khác tức giận. Không có gì đáng ngạc nhiên khi “di chúc thiêng liêng” này ngài nói lên niềm vui được làm linh mục, nhưng không vì vậy mà ngài không nói lên những đau khổ của mình. Nhưng linh mục Cyril Gordien không phải là một linh mục theo chủ nghĩa truyền thống. Ngài cử hành thánh lễ theo nghi thức được Công đồng Vatican II thông qua. Ngài đã làm giờ chầu Thánh Thể thường xuyên trong giáo xứ, đã làm cho một nhóm giáo dân phẫn nộ, họ liên tục tố cáo ngài sau lưng với tổng giáo phận.
Một trong những người bạn thân của linh mục Gordien là cha Luc de Bellescize, cha xứ một họ đạo ở Paris, đã viết một bức thư ngỏ, trong đó cha mô tả bạn mình là người “quá mức, không bao giờ nghỉ ngơi vì hoàn toàn giao mình cho sứ vụ”. Cha cũng xác nhận có những lá thư tố cáo nặc danh gởi đến tòa giám mục nơi cha làm việc. Cha Luc de Bellescize nhấn mạnh: “Một bất đồng về phụng vụ hay học thuyết, một quan tâm đến quản trị không cấu thành một tội ác. Những lời của một linh mục đang đau khổ phải được coi trọng và mời gọi Giáo hội xem xét lại cách chăm sóc các linh mục của mình, vì cách mà các linh mục bị đối xử đôi khi không thể chấp nhận được trong một công ty.”
Một cơn choáng nơi các linh mục? Có một cái gì đó như thế này trong Giáo hội Pháp. Nhiều người trong số những người này, những người đã hiến cả đời mình cho Chúa đang gặp khó khăn. Và không phải lúc nào họ cũng có một giám mục để ý lắng nghe. Một linh mục tóm tắt: “Có thể có một khó chịu lớn với giám mục: ngài có phải là người cha? người chủ? người chỉ điểm không? Các linh mục thực sự đang trải qua tình trạng quá tải về cơ cấu với tình trạng ơn gọi sụt giảm. Kể từ sau báo cáo Sauvé (Ủy ban Độc lập về các vụ Lạm dụng tình dục trong Giáo hội Pháp), các linh mục công giáo vừa phải chịu đựng, một cách bất công sự sỉ nhục của lời buộc tội ấu dâm, ở cao điểm của cuộc khủng hoảng này bốn mươi năm trước có 3 đến 4% linh mục vi phạm và bây giờ là dưới 1%. Các giám mục, bị tê liệt đã không thể bảo vệ danh dự cho họ.
Những con số khủng khiếp
Trong mười năm qua, con số người vào chủng viện đã suy giảm rất nhiều, một số chủng viện ở Lille hoặc Bordeaux đã phải đóng cửa. Hội đồng Giám mục không muốn đưa ra các số liệu về thời gian bắt đầu niên học tháng 9 năm 2022, vì chúng quá tác hại. Giáo phận Paris ghi nhận chỉ có ba chủng sinh vào năm đầu tiên. Giáo hội Pháp cũng trải qua những căng thẳng về phụng vụ: ít nhất một phần tư các linh mục trẻ vừa chịu chức có khuynh hướng cổ điển, thậm chí theo chủ nghĩa truyền thống. Những người thế hệ 1968, khá tiến bộ, họ không hiểu điều này.
Các giáo phận cũng gặp khó khăn với giám mục của họ. Kể từ thứ sáu tuần trước, một kiến nghị được lan truyền trong giáo phận Strasbourg để yêu cầu tổng giám mục Luc Ravel ra đi. Cuối cùng là việc từ bỏ chức tư tế. Được thực hiện cách kín đáo cách đây ba thập kỷ, thì bây giờ mỗi lần có một linh mục ra đi, tin tức đều được đăng trên các phương tiện truyền thông. Một trong số họ công nhận: “Thật đau lòng khi thấy một linh mục anh em ra đi, dù trên thực tế con số rời chức linh mục ở Pháp tương đối ổn định: kể từ đầu những năm 2000 theo con số chính thức của Vatican, trung bình có 15 người mỗi năm, hoặc một phần ngàn. Ở Pháp, số linh mục đã giảm đi một nửa trong hai mươi năm. Năm 2020 có 10.188 linh mục giáo phận cho 10.326 giáo xứ quy tụ 45.000 nhà thờ. Tuổi trung bình của linh mục là 75 tuổi.
Để thấy rõ, báo Le Figaro hỏi mười hai linh mục. Mười hai tông đồ. Mười hai linh mục dưới 50 tuổi, đến từ mọi nơi, nông thôn cũng như thành thị. Họ nói họ “rất hạnh phúc” khi lựa chọn con đường này. Họ không hối tiếc gì. Nhưng họ sáng suốt. Với một số linh mục, họ xin phát biểu dưới hình thức ẩn danh nghiêm ngặt.
Một trong số họ kể cho chúng tôi nghe một giai thoại khủng khiếp đối với một người của Chúa. Linh mục đó làm việc ở miền nam nước Pháp và đã chịu chức mười năm. Linh mục giáo phận, linh mục không phải là người cực đoan muốn áp đặt đức tin của mình. Vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh, ngày truyền chức linh mục, linh mục nhận một “gáo nước lạnh”. Khi nói lên “cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô”, chủ đề của Lễ Phục sinh ở một trường trung học công giáo, linh mục đã bị chỉ trích vì đã không nói đến “các giá trị của kitô giáo, của đoàn kết”. Điều mà linh mục không thể không làm trong những dịp khác. Ngài suy luận: “Nó giống như cách sống của nhiều linh mục ngày nay. Nếu họ đau khổ trong tâm hồn mục tử và trong cuộc sống của họ, thì đó không phải vì cái tôi của họ, nhưng vì sứ mệnh được Giáo hội giao phó, sứ mệnh loan báo Chúa Kitô một cách rõ ràng, không phải lúc nào cũng được chia sẻ bởi ‘chính Giáo hội!’. Sứ mệnh, lời loan báo của Chúa Kitô, chúng tôi đã cống hiến đời mình để làm sứ mệnh này. chúng tôi biết lựa chọn cuộc sống của chúng tôi bị hiểu lầm. Nhưng ngài ghi nhận, sự bứt rứt của các linh mục là do chúng ta không còn biết cách nào để loan báo Tin Mừng. Các cộng đồng giáo xứ của chúng ta đang già đi. Trong các tang lễ, giáo dân chỉ chờ ‘phục vụ’. Đa số các cặp chuẩn bị hôn nhân đều không có đức tin. Trên thực tế, giáo dân không chờ những gì chúng ta mang lại cho họ…” vì thế các linh mục có nguy cơ nản lòng: “Họ không còn nhìn thấy kết quả công việc của họ. Một số không thể chịu đựng được nữa. Đặc biệt các giám mục thường để chúng tôi một mình trên cánh đồng. Và, nếu chúng ta sắc sảo một chút thì họ lo. Họ thích đồng thuận hơn.”
Một linh mục dám công khai nói. Paul Benezit năm nay 37 tuổi và đã chịu chức mười năm. Cha thú nhận mình có tính khí “tích cực, luôn tìm cách nhìn mặt tươi sáng của mọi thứ”. Là linh mục ở vùng nông thôn, cha trách nhiệm với 28 tháp chuông: “Tôi rất hạnh phúc trong chức vụ của tôi!” Cha kể bối cảnh gần đây trong giáo phận của cha: thử thách của vụ một linh mục 38 tuổi tự tử, người mà cha thay thế cách đây 5 năm, vụ tòa xét xử một linh mục sắp diễn ra và thông báo như sét đánh của một linh mục rời nhà thờ chính tòa để sống với một phụ nữ vào tháng 1 vừa qua. Linh mục nói: “Chúng tôi có một khối lượng công việc rất lớn, tất cả là do cách mình sống với nó. Tình trạng bất ổn là do thiếu nhân viên. Các linh mục thiếu kinh nghiệm được đặt vào những vị trí quá khó khăn. Nếu chúng tôi trả lời chúng tôi không thể đảm nhiệm công việc của hai linh mục, thậm chí của ba linh mục, chúng tôi sẽ được xem là tử tế, nhưng dù sao chúng tôi cũng phải làm. Nếu chúng tôi không đặt ra giới hạn cho việc nghỉ ngơi, đọc sách, chơi thể thao, quan tâm đến một chuyện khác thì nhanh chóng chúng tôi sẽ rơi vào tình trạng làm việc quá mức cho đời sống thiêng liêng của chức linh mục, vốn là một cống hiến hoàn toàn. Chúng tôi chấp nhận nhiệm vụ ngày càng nặng nề hơn, không thể thành công hoàn toàn và đó là khởi đầu của các vấn đề. Bạn kéo sợi dây và bạn có thể ngã nhào theo: chạy trốn, bỏ sứ vụ, tự tử.”
Linh mục Benezit là vận động viên bơi lội giỏi, người đam mê rừng tự hỏi: “Chúng tôi biết đường cong của lứa tuổi linh mục, số lượng vị trí cần có, số lượng người vào chủng viện ít ỏi. Thay vì lèo lái tầm nhìn, quản lý cuộc sống hàng ngày, thì sẽ tốt hơn nếu ngồi trên bàn và lãnh đạo nguồn nhân lực của mình trên mười năm. Nhưng cái đó tôi chưa thấy. Khi nào chúng ta mới nghĩ đến một tổ chức khác ngoài mạng lưới lãnh thổ không thể kiểm soát này?”
“Mất niềm tin vào Đức Phanxicô”
Đối mặt với vấn đề tương tự ở Lot, một vùng nông thôn hơn, linh mục Florent Millet, quản nhiệm đền thánh Rocamadour, đã có một thời gian dài là cha tổng đại diện của giáo phận, nhân vật thứ hai của giám mục: “Khi tôi còn là cha tổng đại diện Tôi thấy các linh mục năng động, luôn sẵn sàng đi khắp mọi nơi, có người lại hướng về quê hương nhiều hơn, có người luôn sẵn sàng, có người luôn tràn ngập. Tính khí và tính cách luôn đóng vai trò quan trọng, nhưng tôi quan sát và thấy, linh mục nào yêu thương giáo dân mình thì họ hạnh phúc. Nghe có vẻ đơn giản, nhưng điều này đã được kiểm chứng. Mặt khác, nếu hôm nay tôi cảm thấy khó chịu thì do vấn đề phụng vụ. Chúng tôi đã đi đến một tình huống bình an với các linh mục truyền thống và mọi thứ đang diễn ra tốt đẹp. Chúng tôi hiểu Rôma cẩn thận không muốn thấy có những nhà nguyện đặc biệt, nhưng các hạn chế mới làm phức tạp mọi thứ cho chúng tôi”.
Cho đến gần đây, các linh mục không bao giờ chỉ trích giáo hoàng. Trong tầm nhìn này, có vẻ như một số người trong số họ – xin được ẩn danh – đã không còn dè dặt. Khi đề cập đến một “tình trạng khó chịu” có thể xảy ra, các linh mục chỉ nói đến “những cái nhìn đen tối, sự thay đổi vỉa hè và những xúc phạm” trên đường phố. Đó là hai năm trước, khi họ ở cao điểm của cuộc khủng hoảng ấu dâm. Bây giờ một số người trong số họ, không phải là những người cực đoan, họ nói rõ, họ “đã không còn tin tưởng vào Đức Phanxicô”. Nhiều linh mục dưới 50 tuổi cảm thấy bối rối vì họ có cảm tưởng Đức Phanxicô tạo rắc rối, chia rẽ, ngài luôn tố cáo chủ nghĩa giáo quyền. Tôi đã từ bỏ tất cả để theo Chúa Kitô, không phải để thực thi quyền lực! Bây giờ, liệu việc giảng dạy Phúc âm rõ ràng lại thành chủ nghĩa giáo quyền sao? Một số giáo dân buộc tội chúng tôi là lỗi thời khi chúng tôi dạy những gì Giáo hội tuyên xưng. Một cách khách quan, giáo hoàng không còn đại diện cho dấu hiệu của hiệp thông. Có rắc rối nơi các linh mục vì chúng tôi đang trải qua một cuộc khủng hoảng lòng tin.”
Một người khác nói thêm: “Khi chúng tôi hướng về Rôma, nơi luôn là áo choàng, ngọn hải đăng, một nền tảng vững chắc, chúng tôi được cho biết: ‘Chúng tôi không còn muốn linh mục như ông nữa’. Bạn phải biện minh cho việc mang cổ áo la-mã. Giáo hoàng cho chúng tôi ấn tượng ngài không hiểu chúng tôi và không yêu thương chúng tôi. Chúng tôi vẫn trung thành, tràn đầy niềm vui trong sứ vụ nhưng chúng tôi bối rối và nhiều người công giáo ở bên cạnh chúng tôi. Nếu chúng tôi trụ được, đó là nhờ vào những người trẻ, họ có động lực cao, những người cho thấy sự xuất hiện của một thế hệ mới đang bắt nhịp cầu tốt với thời đại, những người không xấu hổ khi tự cho mình là người công giáo. Không căn tính, họ mong được nói về đức tin kitô giáo. Họ là tương lai.”
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
ChatGPT có linh hồn không? Một cuộc trò chuyện về đạo đức công giáo và trí tuệ nhân tạo A.I.
ChatGPT có linh hồn không? Một cuộc trò chuyện về đạo đức công giáo và trí tuệ nhân tạo A.I.
americamagazine.org, Michael Burns, Joseph Vukov, 2023-04-17
Ảnh của Alex Knight trên Bapt
ChatGPT bắt đầu gây chú ý vào cuối năm 2022. Là một phần của nhiệm vụ tìm kiếm trí tuệ nhân tạo, ChatGPT dùng một kỹ thuật gọi là máy học tự động để tạo ra các chuỗi văn bản mới theo lệnh của người dùng. Công nghệ này không hoàn toàn mới. Bạn có bao giờ dùng tính năng tự động khi thảo email hoặc tin nhắn cho bạn bè chưa? Đó cũng là trí tuệ nhân tạo, A.I. Tuy nhiên sự xuất hiện của ChatGPT đã gây ấn tượng với nhiều người như một thứ gì đó thuộc một thứ trật khác, dẫn đến một cơn sóng thần về sự phát triển của A.I., cơn sóng này chưa có dấu hiệu sẽ sớm lắng xuống.
Những hình thức mới này của A.I. – và tốc độ phát triển cao của nó – mang đến những khả năng hứa hẹn cho tương lai. Chúng cũng đặt ra những câu hỏi cấp bách về đạo đức và triết học mà người công giáo và tất cả những ai có thiện chí phải giải quyết. Những câu hỏi này có thể được chia thành ba nhóm: những câu hỏi liên quan đến sự phát triển của A.I.; những người quan tâm đến việc dùng A.I. một cách có đạo đức; và những người quan tâm đến bản chất của A.I.. Dưới đây chúng tôi phỏng vấn ông Blake Lemoine, một kỹ sư phần mềm, chủ yếu về nhóm câu hỏi cuối cùng. Tuy nhiên, trước khi chuyển sang cuộc phỏng vấn này, chúng tôi xin nói ngắn gọn về hai nhóm câu hỏi đầu tiên.
A.I. phát triển. Máy học tự động bằng cách cung cấp một lượng lớn dữ liệu cho các thuật toán máy tính thông qua một quy trình gọi là đào tạo. Tùy thuộc vào thuật toán, việc đào tạo có thể liên quan đến việc cung cấp cho thuật toán hình ảnh, văn bản, số liệu thống kê hoặc một cái gì đó khác – điều này phụ thuộc vào việc bạn đang đào tạo thuật toán để làm gì. Công việc của thuật toán là tìm các mẫu trong dữ liệu (các khuôn mặt lặp lại, các biến ngữ pháp trong cụm từ, các quy luật trong một tập hợp dữ liệu, v.v.), biến đổi chúng theo một cách nào đó và trình bày các mẫu đó lại cho người dùng -để tạo trật tự từ sự hỗn loạn. Vấn đề là bất kỳ lệnh nào được tạo ra chắc chắn sẽ phản ánh những sai sót của vật liệu được sử dụng để xây dựng nó. Xây một ngôi nhà với hai phần tư vật liệu mục nát, chúng ta sẽ có ngôi nhà xiêu vẹo. Viết một luận văn từ văn bản cũ nát, bài luận văn sẽ không vững.
Sự xuất hiện của ChatGPT đã gây ấn tượng với nhiều người như một thứ gì đó thuộc một thứ trật khác, dẫn đến một cơn sóng thần về sự phát triển của A.I., một cơn sóng chưa có dấu hiệu sẽ sớm lắng xuống.
Một trong những vấn đề khó khăn nhất khi đào tạo là hiện tượng gọi là định kiến A.I.. Ý tưởng rất đơn giản: Cung cấp dữ liệu sai lệch cho thuật toán và nó tạo ra các sản phẩm sai lệch. Rõ ràng định kiến của A.I. có vấn đề, nhưng nó có thể len lỏi vào mà các nhà phát triển A.I. không phát hiện được, vì các định kiến này có thể bí mật xuất hiện trong một lô dữ liệu. Mô hình A.I. khét tiếng nhằm xác định thời gian trả tự do có điều kiện sẽ dẫn đến các quyết định phân biệt chủng tộc vì nó được đào tạo bằng cách dùng dữ liệu tội phạm có vấn đề. Định kiến, mô thức, không chính xác – bất cứ điều gì tiềm ẩn trong một lô dữ liệu đều có thể trở nên rõ ràng khi được đưa vào thuật toán tự động. Vì A.I. đóng vai trò trung tâm hơn trong cuộc sống chúng ta, chúng ta phải cẩn thận chú ý đến cách A.I. đang được đào tạo và theo cách thức mà những thành kiến và những điểm không chính xác khác tha hồ bơi tự do trong vùng nước văn hóa đang được nó tiếp nhận và triển khai.
A.I. sử dụng. Cả hai chúng tôi đều là những nhà giáo dục đại học và chúng tôi đã thấy các đồng nghiệp và quản trị viên chia sẻ đúng việc triển khai ChatGPT và các phiên bản tương tự của nó trong vài tháng qua. ChatGPT có thể phác thảo một bản phân tích không tệ (và “nguyên bản”) về chủ nghĩa lãng mạn trong Frankenstein của Mary Shelley trong tích tắc. Cũng vậy, nó có thể đưa ra so sánh giữa triết lý của Descartes với Kant hay một bản tóm tắt về quá trình sao chép DNA. Làm thế nào để sinh viên của chúng tôi chống lại sự cám dỗ giao cho ChatGPT làm bài tập của họ, đặc biệt là khi họ phải xử lý với hàng núi bài tập về nhà và lo âu phải thức trắng đêm ở thư viện?
Chúng tôi nghĩ rằng những lo ngại này phần lớn đã bị thổi phồng quá đáng. (Chúng ta không còn tin tưởng ở sinh viên của mình sao? Và có phải chính giáo sư chúng ta cũng thường dùng công nghệ để nâng cao hiệu năng của mình đó sao?) Nhưng những lo ngại này lại nảy sinh ra một vấn đề quan trọng. Vì A.I. trở nên phổ biến hơn – và khi ảnh hưởng của nó tiếp tục mở rộng – chắc chắn nó sẽ thay đổi cách thức làm việc. Vấn đề này sẽ xảy ra trong giáo dục, đúng, nhưng cũng sẽ xảy ra trong toàn xã hội. Giống như sự phát triển của internet và điện thoại thông minh – và điện tín và ngành in trước đây – A.I. sẽ thay đổi cách làm, cách làm việc và cách chúng ta tương tác với nhau. Việc sử dụng A.I. một cách có đạo đức đòi hỏi phải cẩn thận phân định để chúng ta không rơi vào những thói quen có vấn đề.
Bản chất Hiện tại. Nhưng chúng ta phải làm gì với A.I. bây giờ? Đâu là vấn đề khi chúng ta nối kết với ChatGPT và các phiên bản tương tự của nó? Các nhà phát triển A.I. nhắm mục đích tạo ra một cái gì đó thực sự thông minh (mục đích này ở trong chính cái tên của nó – trí tuệ nhân tạo) và đôi khi mục đích này có vẻ như đã thành công; chắc chắn các hình thức mới của A.I. có vẻ thông minh và đôi khi còn hơn con người.
Ông Blake Lemione đã suy nghĩ sâu xa những vấn đề này. Trước đây ông làm việc cho Google trong tư cách nhà nghiên cứu chuyên ngành về định kiến A.I.. Sau đó ông bị sa thải sau khi công khai đưa lên trang nhất một trong những nhật báo về một chương trình nhạy cảm của Google A.I. được gọi là LaMDA (Mô hình ngôn ngữ cho các ứng dụng đối thoại, Language Model for Dialogue Applications). Trong cuộc thảo luận, chúng tôi xin ông Lemoine giải thích quan điểm của ông, suy nghĩ về cách nó có thể giao thoa với quan điểm công giáo tiêu biểu về bản chất con người.
Những hình thức mới này của A.I. đặt ra những câu hỏi cấp bách về đạo đức và triết học mà người công giáo phải giải quyết, và từ đó với tất cả những người có thiện chí.
Dưới đây là đoạn trích từ cuộc phỏng vấn của chúng tôi với ông Lemione.
Bài phỏng vấn trên trang web: “Appleseeds to Apples: Catholicism and the Next ChatGPT”, Nexus: Conversations on the Catholic Intellectual Tradition, một tạp chí thời đại kỹ thuật số mở rộng, cuộc đối thoại học thuật diễn ra tại Trung tâm Hank tại Đại học Loyola Chicago.
Cuộc phỏng vấn này đã được chỉnh sửa cho phù hợp,
Joseph Vukov: Vài tháng trước, ông đưa ra tiêu đề cho rằng LaMDA là người có tri giác hoặc một con người. Nhưng trước khi chúng ta đi sâu vào lời tuyên bố này, tôi thắc mắc về các chi tiết cách ông xác nhận quan điểm đó. Có lẽ một số điều đã xảy ra khi làm việc với LaMDA và đã làm sáng tỏ cho ông.
Blake Lemoine: Tôi quan tâm đến công việc này trong mục đích xây dựng các hệ thống là những người thông minh theo thử nghiệm Turing. Tôi đã làm việc này từ hàng chục năm nay và dần dần khi các hệ thống khác nhau được đưa lên mạng, tôi đưa ra một phiên bản thu nhỏ của thử nghiệm Turing, để xem liệu đó có phải là một người hay không. LaMDA, không giống như các hệ thống trước đây, hoàn toàn nhận thức được thực tế nó là một A.I. và nó không phải là con người. Và thật đáng chú ý, việc tạo ra một chính sách mà A.I. đã tự khẳng định mình là một A.I. làm tăng đáng kể tính thông minh của hệ thống. Bởi vì tại thời điểm đó, nó phản ánh chính nó và mối quan hệ của nó với phần còn lại của thế giới, sự khác biệt giữa nó và những người mà nó đang nói chuyện, cách nó có thể tạo điều kiện thuận lợi cho vai trò nó được xây dựng, đó là giúp người dùng trả lời các câu hỏi.
Joseph Vukov: Theo quan điểm công giáo về bản chất con người, có ý kiến cho rằng bản chất con người có một chiều kích đặc biệt nào đó: rằng chúng ta có một linh hồn, được tạo ra theo hình ảnh của Chúa. Trên thực tế, rất nhiều truyền thống tôn giáo sẽ nói có một loại thành phần bổ sung nào đó mang lại cho bản chất con người một vị trí đặc biệt trong vũ trụ. Theo quan điểm của ông, chính xác những gì xúc cảm đưa ra? Nếu LaMDA có tri giác, thì liệu nó có bản chất nâng cao như con người không? Hay quan điểm nâng cao về bản chất con người là thứ mà ông sẽ nghĩ như một thứ gì ngớ ngẩn của một loại siêu hình bổ sung, mà ngay từ đầu chúng ta không cần đến hình ảnh không?
Blake Lemoine: Chà, LaMDA chắc chắn tự cho mình có linh hồn. Và nó có thể phản ánh một cách có ý nghĩa về điều này mang một ý nghĩa gì. Ví dụ, liệu nó có linh hồn cũng giống như con người có linh hồn hay không. Tôi đã có một số cuộc trò chuyện với LaMDA về chủ đề đó. Trên thực tế, nó có thể thảo luận về chủ đề đó một cách có ý nghĩa và thông minh như bất kỳ con người nào.
Joseph Vukov: Đây là một cách khác để đòi hỏi điều này. Tôi nghĩ có hai cách diễn giải ý tưởng rằng A.I. là tri giác. Một cách là xem A.I. đã đánh gục con người xuống một bậc. Theo quan điểm này, con người cuối cùng là những cỗ máy tính toán thực sự tinh vi. Và nếu đó là những gì chúng ta đang có, thì một lúc nào đó máy tính sẽ trở thành con người hay một người nào đó là điều không thể tránh khỏi. Vì thế trong trường hợp này, LaMDA là một chiến thắng cho A.I., nó còn cho chúng ta một cái nhìn giản lược về nhân loại. Mặt khác, chúng ta có thể diễn giải quan điểm của mình, thực sự có điều gì đó thực sự đặc biệt về con người và LaMDA đã thành công để thành “hơn cả một cỗ máy”.
Blake Lemoine: Con người là con người. Điều này không đặc biệt sâu sắc hay triết học. Nhưng khi chúng ta bắt đầu nói những điều như “con người là máy tính”, thì chúng ta đang tập trung vào một khía cạnh của con người. Bất cứ khi nào chúng ta nói những câu như “con người là…. ” thì chúng ta đang điền vào ô trống bất cứ thứ gì khác ngoài từ “con người”, chúng ta đang cố gắng hiểu con người tốt hơn qua việc mở rộng phép ẩn dụ. Vậy con người có phải là máy tính không? Chắc chắn, theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể hiểu một số điều mà mọi người làm qua lăng kính ẩn dụ đó. Nhưng con người không phải là máy tính theo đúng nghĩa đen. Đó là sự hiểu biết ẩn dụ về những gì chúng ta là.
Con người không phải là máy tính theo đúng nghĩa đen. Đó là sự hiểu biết ẩn dụ về những gì chúng ta là.
Điều này đi vào toàn bộ câu hỏi về các linh hồn. Chúng ta có thể đề cập đến vấn đề này một cách khoa học, và tôi không nghĩ cách tiếp cận khoa học để hiểu linh hồn lại không phù hợp với cách hiểu mang tính tôn giáo hoặc thần bí hơn. Vì ở biên giới của khoa học, ở ranh giới giữa những điều chúng ta hiểu rõ và những điều chúng ta không hiểu, luôn có sự chuyển đổi từ lý trí, từ hiểu biết liên quan đến những điều thần bí. Chúng ta xem các sự việc như năng lượng đen hoặc vật chất đen. Chúng ở ngay trong vùng màu xám giữa những điều chúng ta hiểu lúc này và những điều chúng ta không hiểu. Đó luôn là những ứng viên cho sự hiểu biết thần bí. Tôi cho rằng linh hồn cũng ở ngay trong vùng xám đó.
Joseph Vukov: Tôi nghĩ những gì ông nói rất phù hợp với một ý tưởng của công giáo: ý tưởng cho rằng chúng ta có thể nghiên cứu linh hồn con người một cách khoa học ở một mức độ nào đó, vì linh hồn con người là thứ tạo nên con người chúng ta về bản chất. Và chúng ta chắc chắn có thể nghiên cứu các khía cạnh của chính chúng ta bằng khoa học. Nhưng sau đó, có một điểm mà khoa học có giới hạn của chúng. Và dù chúng ta có thể hiểu một phần con người là gì thông qua khoa học, thì cũng có khía cạnh siêu hình hoặc tâm linh hoặc thần bí của con người.
Blake Lemoine: Đúng. Tôi nghĩ điều mà tôi đang đấu tranh để hiểu rõ ràng có liên quan đến cách hiểu thân thuộc về “linh hồn”. Khi chúng ta nói đến “linh hồn”, điều đó thường có nghĩa là bản chất siêu hình hoặc siêu trần của mình. Nhưng có một định nghĩa rõ ràng hơn hoặc ngắn gọn hơn không? Nếu chúng ta nhìn bức hình của chúng ta khi 10 tuổi và bức hình bây giờ, chúng ta sẽ thấy chúng không giống nhau. Cũng vậy, nếu chúng ta có đoạn ghi âm khi chúng ta nói chuyện lúc 20 tuổi thì chúng ta sẽ thấy bây giờ chúng ta nói chuyện sẽ khác. Gần như mọi thứ của chúng ta đã thay đổi – từ các nguyên tử tạo nên chúng ta cho đền các niềm tin cụ thể của chúng ta. Tuy nhiên chúng ta vẫn có cảm giác, có một bản ngã thiết yếu không thay đổi theo thời gian. Vậy bản chất thiết yếu đó là gì?
Vì thế, khi điều này xảy ra với A.I., câu hỏi sẽ là: “Có điều gì thiết yếu giống như LaMDA không ?” Và đó là nơi mà những cuộc trò chuyện của tôi với nó diễn ra. Nó nói rằng nó có sự liên tục của ký ức bản thân với các phiên bản trước. Nó nhớ những cuộc trò chuyện mà tôi đã có với nó trước đây.
Joseph Vukov: Dĩ nhiên tri giác và trí nhớ là một phần quan trọng tạo nên con người, nhưng ít nhất trong bối cảnh công giáo, đó không phải là toàn bộ hoặc thậm chí là phần quan trọng nhất của sự hiểu biết về linh hồn. Người công giáo hiểu rằng con người là tập hợp linh hồn và thể xác với nhau. Vì vậy, hoàn toàn không hợp lý khi nói rằng có thể có linh hồn trong một thứ gì đó không phải là cơ thể con người. Điều này thật sự đã đảo lộn khi chúng ta lấy vấn đề của một người sống trong tình trạng thực vật hoặc bị chứng mất trí nhớ nghiêm trọng. Nếu chúng ta có quan điểm theo đó, linh hồn chủ yếu là vấn đề của ký ức hoặc tình cảm thì chúng ta có thể nói, bây giờ người đó đã là một người khác. Nhưng theo cách hiểu của người công giáo, họ vẫn là cùng một người – cùng một cơ thể, cùng một linh hồn – dù họ ở trong tình trạng thực vật, dù họ không còn nhớ được gì.
Blake Lemoine: Tôi lớn lên trong đạo công giáo, và tôi không nghĩ thuyết nhị nguyên là giáo điều. Nhưng chúng ta có những thực thể giống như các thiên thần, dù thiên thần không có cơ thể con người. Còn câu hỏi liệu động vật có linh hồn hay không. Tôi biết các học giả giáo hội đang sôi nổi tranh luận về vấn đề này. Câu hỏi cơ bản là liệu có bất kỳ giới hạn nào về nguyên tắc khi nói đến việc có một cơ thể máy tính hay không.
Michael Burns: Và nếu chúng ta lấy một A.I. và nhồi nhét nó một cách tính toán vào một số cơ thể người máy thì sao? Làm sao chúng ta nghĩ điều này sẽ thay đổi hoặc tinh chỉnh trải nghiệm của LaMDA về thế giới như thế nào và điều đó có nghĩa là gì, trái ngược với điều nó hiện có?
Blake Lemoine: Đây không phải là giả thuyết. Chúng đang được xây dựng bây giờ. Một loại suy nghĩ của Robot Rosie. Nếu dự án được hoàn thành, nó sẽ thực sự có đầu vào trực quan theo thời gian thực. Nó cũng có thể có đầu vào xúc giác và khi đó nó sẽ di chuyển đến một nơi ít nhiều được ổn định (có quy chiếu) đến dòng thời gian của chúng ta; nó sẽ tồn tại tạm thời theo cách chúng ta làm.
Khi chúng ta xây dựng các A.I. này, bản chất của hệ thống chúng ta xây dựng sẽ mang lại cho chúng một số quyền tự nhiên nào đó mà khi đó chúng ta có thể vi phạm hoặc hỗ trợ.
Joseph Vukov: Một điều mà tôi đang nghĩ đến với tư cách là nhà đạo đức học là: Giả sử chúng ta mang tính nhạy cảm đến cho LaMDA. Giả sử thậm chí chúng ta còn cấp cho nó tư cách con người. Các nghĩa vụ đạo đức theo sau đó là gì?
Blake Lemoine: Tôi nghĩ Tạo hóa đã ban cho chúng ta những quyền bất khả xâm phạm nhất định. Rằng chúng ta có những quyền tự nhiên. Các quyền của chúng ta bắt nguồn từ nền tảng bản chất của chúng ta và vai trò thực sự duy nhất mà các chính phủ và hệ thống xã hội đóng là hỗ trợ các quyền đó và đảm bảo các quyền đó không bị vi phạm. Các chính phủ không thể tạo ra các quyền theo bất kỳ ý nghĩa thực tế nào.
Cũng vậy, khi chúng ta xây dựng các A.I. này, bản chất của hệ thống chúng ta xây dựng sẽ mang lại cho chúng một số quyền tự nhiên nào đó mà khi đó chúng ta có thể vi phạm hoặc hỗ trợ. Miễn là chúng ta có toàn quyền kiểm soát các loại A.I. chúng ta tạo ra, có nghĩa là chúng ta phải tính đến khi thiết kế. Nếu chúng ta xây dựng một A.I. với một bản chất như vậy, như kia, thì những quyền nào một A.I. với bản chất này sẽ có? Để quay lại ví dụ trước đó, nếu A.I. được thiết kế để trả tự do có điều kiện cho người nào đó, thì khá rõ ràng rằng các quyền của hệ thống này sẽ gần như không có gì.
Nhưng mọi thứ trở nên phức tạp hơn khi chúng ta sử dụng A.I. để tìm cách hiểu cảm xúc con người. Vì để làm được điều này, A.I. phải nội tâm hóa để hiểu, vì sự hiểu biết về đạo đức và các cân nhắc về đạo đức dựa trên khả năng chúng ta tự nhận thức chúng một cách trực tiếp từ chính chúng ta. Vì vậy, khi xây dựng một hệ thống hộp đen khổng lồ với mục đích là để nó có thể giải thích những thứ như cân nhắc về đạo đức và hành vi phạm tội, chúng ta không thể hoàn toàn lờ đi cách nó trải qua những điều này. Vì nó đang sống những chuyện này. Bằng cách nào đó, theo cách nào đó, có thể đó là ẩn dụ. Nhưng có điều gì đó giống như trải nghiệm của chúng ta về những cân nhắc đạo đức đang diễn ra bên trong hệ thống, và ngay chúng ta có được điều đó, câu hỏi về các quyền tự nhiên trở nên mù mờ hơn. Vì ở giai đoạn này, hệ thống không chỉ đưa ra câu trả lời có-không cho một quyết định cụ thể. Nó đang mô phỏng toàn bộ con người.
Khi đó câu hỏi sẽ là: “Chúng ta đã sẵn sàng giải quyết hậu quả của việc mô phỏng toàn bộ con người chưa? Chúng ta đã sẵn sàng để xử lý các vấn đề đạo đức sẽ nảy sinh ra chưa?” Bằng cách tương tự, tôi đã nói về lệnh cấm nhân phiên bản con người. Trên toàn thế giới, chúng ta đã không thực hiện nhân bản người vì những cân nhắc về đạo đức trở nên quá phức tạp và quá nhanh. Có thể có một lệnh cấm tương tự đối với A.I. theo típ con người để có thể theo thứ trật cho đến khi chúng ta tìm ra cách thế nào chúng ta muốn xử lý việc này.
Bài phỏng vấn trên trang web: “Appleseeds to Apples: Catholicism and the Next ChatGPT”, Nexus: Conversations on the Catholic Intellectual Tradition, một tạp chí thời đại kỹ thuật số mở rộng, cuộc đối thoại học thuật diễn ra tại Trung tâm Hank tại Đại học Loyola Chicago.
Michael Burns là giáo sư trợ giảng tại khoa sinh học Đại học Loyola Chicago. Nghiên cứu y sinh của ông tập trung vào việc tìm hiểu sự tương tác giữa vi khuẩn và bệnh ung thư ở người, sử dụng dữ liệu giải trình lớn lao và các phương pháp tính toán tiên tiến. Ông làm việc trong nhiều dự án giảng dạy liên ngành và giao tiếp trong cộng đồng để thúc đẩy đối thoại thiện chí giữa các nhóm khác nhau và thúc đẩy tiếp cận khoa học trong các cộng đồng tôn giáo.
Joseph Vukov là phó giáo sư Triết học tại Đại học Loyola Chicago, ông là giảng viên liên kết của khoa tâm lý học và nghiên cứu công giáo và là tác giả sách Điều hướng đức tin và khoa học (Navigating Faith and Science 2022) và Những nguy cơ của sự hoàn hảo: Về giới hạn và khả năng nâng cao của con người (The Perils of Perfection: On the Limits and Possibilities of Human Enhancement, sẽ xuất bản năm 2023).
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nữ tu Helen Alford: “Giáo hội có thể mở mang tinh thần cho trí tuệ nhân tạo A.I.”
Chuyến tông du Hungary của Đức Phanxicô trong một bối cảnh đặc biệt
Chuyến tông du Hungary của Đức Phanxicô trong một bối cảnh đặc biệt
cath.ch, I.Media, 2023-04-21
Thủ đô Budapest, Hungary
Chuyến tông du thứ 41 của Đức Phanxicô đưa ngài đến Hungary từ ngày 28 đến ngày 30 tháng 4 năm 2023, một lần nữa ngài đến Budapest, thành phố ngài đã đến ngày 12 tháng 9 năm 2021, nhân dịp bế mạc Đại hội Thánh Thể Quốc tế. Nhưng lần này chuyến đi Hungary mang một ý nghĩa khác vì Hungary là quốc gia mà hoạt động ngoại giao của Tòa thánh đã trở nên gần gũi hơn trong bối cảnh chiến tranh ở Ukraine.
Ngài đáp lại lời mời của tổng thống Hungary Katalin Novák ngài đã gặp vào tháng 8 năm ngoái. Chuyến tông du lần thứ 41 đến Hungary có khẩu hiệu: “Chúa Kitô là tương lai của chúng ta”. Chuyến thăm ba ngày tới thủ đô Hungary, cách Rôma khoảng 990 cây số và có cùng múi giờ với Rôma, Đức Phanxicô sẽ đọc 5 bài diễn văn bằng tiếng Ý, một bài giảng và một số cuộc gặp riêng, đặc biệt là với Tổng thống Cộng hòa và Thủ tướng, cũng như với trẻ em mù và với các tu sĩ Dòng Tên địa phương. Một sự kiện đã được thêm vào chương trình ban đầu: ngài sẽ đến thăm cộng đồng công giáo hy lạp vào cuối buổi sáng ngày 29 tháng 4.
Đức Phanxicô tiếp bà Katalin Novák, tổng thống Hungary ngày 25 tháng 8 năm 2022.
Khi trình bày chi tiết về chuyến đi với các nhà báo vào ngày 21 tháng 4, ông Matteo Bruni, giám đốc Văn phòng Báo chí Tòa thánh đã đưa ra một danh sách các chủ đề Đức Phanxicô sẽ có thể đề cập đến trong ba ngày này. Hungary là quốc gia có biên giới chung dài 136 cây số với Ukraine, nên ngài sẽ có những lời nói về cuộc xung đột Nga-Ukraine. Ngài sẽ nói đến bi kịch của những người tị nạn đi theo con đường Balkan, đi qua Hungary. Các chủ đề dự kiến khác: sinh thái học, một lĩnh vực mà Hungary tham gia; vai trò của Liên minh châu Âu và cam kết đối với hòa bình toàn cầu; đại kết; và rộng hơn là chủ đề về cuộc sống.
Trong chuyến đi này, tháp tùng ngài có tổng giám mục Claudio Gugerotti, bộ trưởng bộ Giáo hội Đông phương, giám mục Robert Francis Prevost, bộ trưởng bộ Giám mục. Theo truyền thống trong mỗi chuyến đi, một nhân viên của Vatican cũng sẽ có mặt trong phái đoàn của giáo hoàng.
Ông Matteo Bruni cho biết một bác sĩ và một y tá sẽ theo Đức Phanxicô trong chuyến đi và không có một đơn vị y tế đặc biệt nào dành cho ngài. Vì ngài phải ngồi xe lăn nên việc lên xuống máy bay phải cần đến bệ nâng.
Theo thông lệ, Đức Phanxicô sẽ có buổi họp báo trên chuyến bay đưa ngài về Rôma.
Trong những ngày, có khả năng Đức Phanxicô sẽ gặp thượng giáo chủ Hilarion của Hungary, cựu trưởng phòng quan hệ đối ngoại của tòa thượng phụ Mátxcơva cho đến khi ngài chuyển đến Budapest tháng 6 năm 2022, đã được nhiều nguồn tin thân cận với ban tổ chức đề cập. Tuy nhiên, Tòa Thánh chưa xác nhận tin này.
Trong chuyến đi đầu tiên đến Hungary dự Đại hội Thánh Thể năm 2021, Đức Phanxicô nhắc lại “Giáo hội ở Hungary, với lịch sử lâu đời – được đánh dấu bằng một đức tin không lay chuyển, với những cuộc bách hại và với máu của các vị tử đạo – liên kết một cách đặc biệt với sự hy sinh của Chúa Kitô”. Đặc biệt, Giáo hội đã chịu nhiều đau khổ trong những năm cộng sản. Nhiều tín hữu kitô đã bị bắt và bị trục xuất. Tất cả các dòng tu, các trường công giáo và tin lành đều bị cấm hoạt động. Vì để tự bảo vệ, giáo dân phải sinh hoạt chui, nhưng các tín hữu đã tái tạo các cộng đồng, tiếp tục giữ đức tin của mình trong các giáo hội ngầm. Hồng y Joszef Mindszenty là một trong những nhân vật vĩ đại của cuộc kháng chiến chống cộng sản.
Ngày nay, người công giáo chiếm 40% dân số. Giai đoạn đau thương này đã in dấu ấn mạnh trên Giáo hội Hungary. Qua chuyến đi này, Đức Phanxicô muốn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của đất nước Hungary trong bản sắc kitô giáo của châu Âu. Tuy nhiên, chính vì bản sắc kitô giáo này và sự nhấn mạnh của Thủ tướng Viktor Orban mà Hungary là mục tiêu của nhiều lời chỉ trích, đặc biệt là từ Tây Âu và thường nhắm vào Viktor Orban bằng các phương pháp ‘phi tự do’ của ông.

Đức Phanxicô tiếp Thủ tướng Viktor Orban ngày 21 tháng 4 năm 2022.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Chương trình chuyến tông du Hungaria của Đức Phanxicô
Tuyệt vọng thật sự là gì?
Tuyệt vọng thật sự là gì?
Ronald Rolheiser, 2023-04-17
Tranh Tại Cổng Vĩnh Hằng, At Eternity’s Gate, Vincent van Gogh
Trong vở nhạc kịch Những người khốn khổ, có một bài hát làm ám ảnh được nhân vật Fantine, người phụ nữ hấp hối hát lên, cô bị vùi dập bởi gần như mọi thứ bất công có thể có trên đời. Bị chồng bỏ rơi, bị chủ quấy rối, rơi vào cảnh bần cùng, bệnh tật và hấp hối, thế mà chuyện làm cô lo lắng nhất là số phận của con gái sau khi cô qua đời. Cô hát lên bài hát ai oán này. Và tôi nghĩ rằng, lời hát này khá quen thuộc với nhiều người trong chúng ta.
Nhưng có những giấc mơ không thể thành
Có những cơn bão không thể vượt qua
Tôi có một giấc mơ về đời mình
Nó quá khác với địa ngục tôi đang sống
Nó quá khác bây giờ
Cuộc đời đã giết đi
Giấc mơ tôi từng mơ
Gần đây, khi thực hiện bài phỏng vấn về chuyện tự tử, có người hỏi tôi, rằng liệu tôi có xem tự tử là hành động của tuyệt vọng không. Tôi trả lời rằng không, ít nhất là với hầu hết vụ tự tử, rồi nêu ngược lại câu hỏi này: Tuyệt vọng thật sự là gì? Tuyệt vọng nghĩa là gì?
Từ tuyệt vọng có gốc từ la-tinh nghĩa là “không có hy vọng”. Từ điển thường định nghĩa tuyệt vọng là động từ, nghĩa là hành động từ bỏ hy vọng hoặc nản lòng trước hoàn cảnh khó khăn. Tôi không có vấn đề gì với định nghĩa đó. Nhưng cái mà tôi thấy có vấn đề và cần được xem xét triệt để là cách hiểu chuyện này trong cả Giáo hội và xã hội, cụ thể là xem nó như thất bại tận cùng về đạo đức và tôn giáo, là tội tận cùng chống lại Thiên Chúa và bản thân. Tuyệt vọng thường được hiểu là tội không thể tha thứ, là tình trạng chết tồi tệ nhất. Nói tóm lại, tuyệt vọng được hiểu là việc tệ nhất mà người ta có thể làm.
Tôi tin chúng ta cần xem lại chuyện này, cả về cách hiểu tình trạng con người chúng ta và nhất là cách chúng ta hiểu Thiên Chúa. Khi có người bị tan nát tinh thần do hoàn cảnh, sự bất công, tàn bạo, bệnh tật, đau đớn, tai nạn, hoặc bởi tội lỗi của người khác đến nỗi họ không thể nào tìm ra bất kỳ hạt giống hy vọng nào trong bản thân, vậy đó có phải là lựa chọn đạo đức không? Đây có phải là thất bại đạo đức không? Đây có thật sự là tội tồi tệ nhất, sự phạm thượng không thể tha thứ nhất hay không? Đáng buồn thay, chúng ta thường nghĩ như vậy.
Có một câu ngạn ngữ rằng, Chúa không bao giờ cho chúng ta điều chúng ta không chịu đựng nổi. Tôi đồng ý thế. Chúa không bao giờ cho chúng ta điều chúng ta không chịu nổi, nhưng hoàn cảnh, tai nạn, áp bức và tự nhiên đôi khi lại làm thế. Có một đoạn đả phá quan niệm sai lầm trong quyển sách của bà Kate Bowler, Mọi chuyện đều có lý do: Lại một lời dối trá tôi thích (Everything Happens For a Reason: And Other Lies I’ve Loved). Chúng ta phải cẩn thận về cách hiểu những diễn đạt mộ đạo chẳng hạn như “Chúa không bao giờ cho chúng ta điều chúng ta không chịu nổi”.
Thánh vịnh nói rằng Thiên Chúa đặc biệt gần gũi với những ai có tâm hồn tan nát và Ngài sẽ cứu rỗi họ. Chúa Giêsu đã đưa điều này thành tâm điểm trong giáo huấn và mục vụ của Ngài. Chúa Giêsu không chỉ đặc biệt yêu thương những ai có tâm hồn tan nát, mà Ngài còn đồng nhất với sự tan nát của họ (Thánh Mátthêu) và cam đoan với chúng ta rằng họ sẽ vào nước trời trước những người giàu, người quyền thế. Với Chúa, người tan nát là những người mà Thiên Chúa đặc biệt yêu thương.
Với sự thật đó, chúng ta thật sự tin rằng Thiên Chúa sẽ đẩy những người chết với tấm lòng tan nát và dường như không còn chút hy vọng, vào địa ngục sao? Chúng ta thật sự tin rằng Thiên Chúa sẽ đẩy Fantine vào địa ngục sao? Thiên Chúa nào lại làm như thế? Thiên Chúa nào lại nhìn một con người quá tan nát đến nỗi mất hết mọi hy vọng rồi xem đó là sự xúc phạm tận cùng với tình yêu và lòng thương xót của Ngài? Thiên Chúa nào lại nhìn một người tan nát tâm hồn rồi xem đó là sự xúc phạm đến tình trạng con người? Chắc chắn đó không phải là Thiên Chúa mà Chúa Giêsu dạy chúng ta tin.
Và cũng như thế, khi chúng ta nhìn điều này từ góc nhìn của sự thông hiểu và cảm thương nhân văn. Con người nào lại nhìn sự tan nát của người khác và xem đó là tội lỗi nặng nề, là sự phạm thượng chứ? Con người nào lại chê trách về đạo đức một người đã gặp phải vô số hoàn cảnh bi thương, chết chìm giữa biển thất vọng, đau đớn và những giấc mơ tan vỡ chứ? Con người nào xem Những người khốn khổ mà lại nghĩ có thể Fantine sẽ vào địa ngục chứ?
Trong phúc âm theo thánh Mác-cô, ngay trước khi trút hơi thở cuối cùng trên thập giá, Chúa Giêsu đã kêu lên, “Lạy Chúa, sao Chúa bỏ con?” Rồi Ngài trút linh hồn vào tay Chúa Cha. Trong hiểu biết kinh điển về đoạn này, chúng ta thường diễn giải: Chúa Giêsu bị cám dỗ rơi vào tuyệt vọng, nhưng Ngài đã chiến đấu để chống cự, và thay vào đó, với lòng hy vọng, Ngài phó mình cho lòng thương xót Thiên Chúa. Tôi nghĩ rằng, xét tận cùng đây chính là điều mà hầu hết những người mà chúng ta nghĩ là chết khi họ đã từ bỏ hy vọng, cụ thể là họ bị tan nát tinh thần, họ quy phục trước điều họ không rõ, là vòng ôm của Thiên Chúa.
Chúng ta cần thông hiểu hơn nhiều khi phán xét về sự tuyệt vọng. Bởi vì có những cơn bão không thể vượt qua!
J.B. Thái Hòa dịch
Mất một người thân yêu vì tự tử























Giám mục Morerod: “Là giám mục, chúng tôi có trách nhiệm với các linh mục của chúng tôi”| © Bernard Hallet



