Home Blog Page 321

Linh mục David Moses: “Tôi thích làm linh mục, và chính vì vậy mà tôi sống”

Linh mục David Moses: “Tôi thích làm linh mục, và chính vì vậy mà tôi sống”

fr.aleteia.org, Cerith Gardiner – Bérengère Dommaigné, 2023-04-18

Linh mục David Michael Moses

Linh mục trẻ David Michael Moses 29 tuổi, người Mỹ, sinh ra ở Houston, bang Texas, cha có nhiều người theo trên các trang mạng xã hội và không ngần ngại phát sóng các bài giảng cũng như các lời khuyên thiết thực để giáo dân cầu nguyện được tốt hơn. Cha kể cho độc giả trang Aleteia công việc của một linh mục trẻ năm 2023, với những thách thức, niềm vui và những khó khăn cha đã gặp.

Rất nổi tiếng tại Hoa Kỳ, cha có một số lượng người theo đáng kể, nhất là trên kênh Youtube với gần 30.000 người ghi tên, tuy vậy độc giả Aleteia ít biết cha! Trong một phỏng vấn dành cho ấn bản Aleteia tiếng Anh của Mỹ, cha nhìn lại đời sống linh mục của mình một cách sâu đậm, với những niềm vui cha đã trải qua, cũng như các nỗi buồn hay những khó khăn cha phải chịu đựng.

Cha là linh mục lúc cha 25 tuổi, cha sống kinh nghiệm này như thế nào?

Cha David Michael Moses: Lần đầu tiên tôi đến giáo xứ Thánh Faustina (Fulshear, Texas) khi tôi 25 tuổi, ngay ngày đầu mọi người gọi tôi là “Cha”. Có cách nào xưng hô thân mật hơn thế không? Họ không biết tôi, họ chưa bao giờ thấy tôi. Nhưng họ gọi tôi là “Cha” vì Chúa Giêsu đã phái tôi đến với họ. Và nếu tôi đủ tốt với Chúa Giêsu thì tôi cũng đủ tốt với họ. Thật là phi thường. Sau ba năm ở đó, tôi khó để nói lời tạm biệt. Nhưng tôi cảm thấy bình an và hết lòng biết ơn vì đã được họ tiếp nhận thân mật, chia sẻ cuộc sống với họ. Còn các giáo dân Chúa Chiên Lành của tôi ở Spring, Texas lại vô cùng tốt bụng và nồng hậu. Tôi nghĩ thật vô giá cho một linh mục trẻ được thấy cách làm việc như vậy trong một giáo xứ mới, vì thế tôi rất biết ơn khi đến đây. Có lẽ tôi cũng sẽ chỉ ở đây hai hoặc ba năm nên tôi cố gắng tận dụng tối đa thời gian này.

Tôi thích làm linh mục, tôi yêu giáo dân của tôi. Đó là lý do sống của tôi.

 

Đâu là khía cạnh tích cực trong chức vụ linh mục và đâu là điều ngạc nhiên nhất của cha?

Khía cạnh tốt nhất là mình có trách nhiệm hành động trong tư cách là “bản thể Chúa Kitô” cho dân Chúa. Làm linh mục có nghĩa là tôi được liên kết mật thiết với Chúa Giêsu Kitô vì khi tôi nói “Đây là Mình Ta” thì tấm bánh trên tay tôi trở nên Mình Người. Khi tôi nói “Ta tha tội cho con” thì Chúa Giêsu đã tha tội. Ngài và tôi quá gần gũi và tôi nói thay Ngài. Điều ngạc nhiên tích cực nhất là tôi nhận ra thánh chức linh mục thật cuốn hút. Mỗi ngày đều khác nhau và luôn có một cuộc phiêu lưu mới.

Phần khó nhất trong công việc linh mục là gì? Có bao giờ cha muốn bỏ “nghề” không?

Tôi không ngần ngại chút nào để nói, phần khó nhất trong đời sống linh mục, đó là sống độc thân… Và tôi nghĩ nó phải như vậy. Tôi tin tưởng sâu sắc đây là cách nó phải như vậy. Trong suốt thời gian ở chủng viện, sau ước muốn được phục vụ Chúa là ước muốn kết hôn, ước muốn này cũng rất mạnh. Nhưng với tôi, nó không buồn, nó đẹp, bởi vì tôi đã chọn cuộc sống độc thân nên đó là dấu hiệu cho tất cả những người tôi gặp. Dấu hiệu cho thấy tôi rõ ràng, tôi không sống cho thế gian này. May mắn thay, tôi chưa bao giờ nghi ngờ ơn gọi của tôi, nhưng có những lúc khó khăn hơn những lúc khác. Đó là cơ hội để tôi nhận thức được giá trị to lớn của cam kết, nghĩa là làm những gì mình đã khấn, dù khi cảm nhận không còn nữa. Những lúc tôi bị cám dỗ để chọn một con đường dễ dàng hơn, nhưng đó lại là cơ hội để tôi yêu thương nhiều hơn.

Đâu là cách cha sống cuộc sống độc thân tốt đẹp trong thế giới ngày nay?

Chúng tôi đã học về chủ đề này rất nhiều ở chủng viện, nó đã thấm nhuần trong tôi một ý thức lành mạnh về động lực của mối quan hệ và những ranh giới cần có, chẳng hạn như tránh rơi vào tình huống có thể làm mình thiếu thoải mái hoặc phải thỏa hiệp. Cách tiếp cận với đức khiết tịnh của tôi luôn là: “Tôi không biết tôi mạnh đến đâu và tôi không có ý định khám phá nó.” Nói cách khác, tôi không bao giờ muốn tôi ở trong trạng thái mà tội lỗi là một lựa chọn. Xét cho cùng, tôi luôn làm cho tôi được mạnh, trong tôi và những người xung quanh, bản chất sự hiện diện của tôi: bản chất của một người người thiêng liêng phục vụ Chúa Giêsu. 

Tôi thích mang cổ áo la-mã và mặc áo chùng vì khi giáo dân nhìn tôi, họ nghĩ đến Chúa Giêsu và Giáo hội của Ngài.

 

Cha luôn mang cổ áo la-mã, vì sao?

Thực ra, tôi thích mang cổ áo la-mã và mặc áo chùng vì khi giáo dân nhìn tôi, họ nghĩ đến Chúa Giêsu và Giáo hội của Ngài. Khi ở nơi công cộng, tôi thích giáo dân hỏi tôi: “Cha có phải là linh mục không?” Trong những năm đầu tiên, tôi chỉ đơn giản trả lời “Có”. Nhưng bây giờ tôi hiểu, thật ra khi họ hỏi tôi như vậy là họ muốn nói: “Cha có thể giúp tôi được không?” Và nếu tôi không mang cổ áo la-mã thì họ sẽ hỏi ai đây? Bây giờ tôi trân trọng những giây phút này. Dù lịch làm việc của tôi rất bận, nhưng tôi thích mọi người chào tôi ở nơi công cộng, tôi luôn sẵn sàng ban phép lành cho họ ở tiệm tạp hóa, cầu nguyện với họ ở nhà hàng hay giải tội nhanh ở phi trường. Tôi thích làm linh mục. Tôi yêu giáo dân của tôi. Và đó là những gì tôi sống. 

Cha đặc biệt yêu thích bí tích nào?

Tôi vô cùng yêu mến tất cả các bí tích nhưng tôi thích nhất là Bí Tích Thánh Thể. Lý do đơn giản: các bí tích khác mang đến cho chúng ta Chúa Giêsu, nhưng Bí tích Thánh Thể là Chúa Giêsu.

Cha đặc biệt yêu thích thánh nào?

Hiện nay tôi đang hướng về Thánh Gioan-Maria Vianê nhiều nhất, vì ngài là thánh bổn mạng của các linh mục. Khi ngài đến giáo xứ đầu tiên, chỉ có hai người đi lễ. Sau bao nhiêu năm ở chủng viện, hẳn ngài rất thất vọng: “Có phải thế không, thưa Chúa? Con đã dâng hiến đời con cho điều này?” Ngài có thể sẽ dễ dàng tập trung vào một việc nào đó khác, viết sách, tập một môn thể thao thật giỏi, hoặc xin giám mục giao cho mình một việc nào khác! Nhưng thay vào đó, ngài cầu nguyện mỗi đêm: “Lạy Chúa, xin hoán cải giáo xứ của con. Con sẵn sàng chịu đau đớn suốt đời, dù phải đau cả trăm năm, chỉ để giáo dân con được hoán cải”. Và ngài đã làm hết mình: mỗi ngày giải tội 18 giờ, chỉ ăn khoai tây, ngủ trên nền đất cứng lạnh. Và bỗng, có 100.000 người đến giáo xứ của ngài mỗi năm… Họ chờ nhiều ngày để được gặp ngài. Sự tận tụy để cứu rỗi linh hồn này là lý do vì sao ngài là một vị thánh vĩ đại. Tôi bắt đầu đọc lời cầu nguyện của ngài mỗi ngày và tôi hy vọng tôi sẽ có thể là một phần của ngài.

Là linh mục trẻ, cha nghĩ cha sẽ mang gì đến cho giáo dân?

Có lẽ cách tốt nhất để trả lời câu hỏi này là nói về những người bạn linh mục trẻ của tôi. Chúng tôi có năm người bằng tuổi nhau, mỗi hai hoặc ba tuần, chúng tôi ăn sáng với nhau, khoảng 6 giờ sáng, giờ duy nhất tất cả chúng tôi đều rảnh. Và đó là một niềm vui thực sự! Các bạn của tôi cầu nguyện, làm việc bác ái và vui nhộn. Thế giới đôi khi có vẻ điên rồ và mất kiểm soát nhưng mỗi khi tôi cảm thấy không vui về cách mọi chuyện đang diễn ra, tôi nghĩ đến họ. Tôi nghĩ đến việc, trong tất cả những gì họ có thể làm, họ đã chọn làm linh mục. Họ bỏ lại tất cả vì họ nghĩ đến các linh hồn, bây giờ mỗi ngày họ giải tội, họ làm lễ, họ xức dầu cho người bệnh. Và họ sẽ dành phần đời còn lại để chỉ làm những việc này. Dĩ nhiên có rất nhiều bóng tối trên thế gian này. Nhưng những linh mục trẻ này, họ là ánh sáng.

Cha dùng các mạng xã hội để loan truyền lời Chúa, trong tinh thần vui vẻ, hài hước và với tình yêu cao cả. Làm thế nào để cha có thời gian và ý tưởng? Cha sẽ nói gì với các cha mẹ khi họ lo lắng thấy con mình trên mạng xã hội cả ngày?

Tôi thích so sánh mạng xã hội với một khu phố không tốt. Một khu phố xấu là nơi có nhiều rủi ro và thường nguy hiểm. Nhưng nên có một nhà thờ ở mỗi khu phố xấu và có một linh mục ở đó! Các mạng lưới xã hội cũng vậy: nó có thể nguy hiểm nhưng Giáo hội phải ở đó. Chúng tôi chịu chức, chúng tôi được lệnh ra đi muôn phương và tôi nghĩ những phương tiện truyền thông ngày nay là công cụ mạnh mẽ để chúng tôi đi được. Chúng sẽ mạnh hơn trong sứ vụ của tôi, tôi bị giới hạn bởi thời gian và không gian, nhưng với kỹ thuật số, tôi có thể giảng một lần, thâu lại và phát trực tuyến, nó sẽ tiếp tục vô thời hạn.

Dĩ nhiên nó không dành cho tất cả mọi người, vì thế tôi khuyên các cha mẹ nên tránh các mạng xã hội cho đến khi các con lớn hơn, hoặc ít nhất là theo dõi chúng khi chúng dùng các mạng này.

Còn các ý tưởng thì nó đến với tôi một cách tự nhiên qua sứ vụ. Khi có đề tài gì vui vẻ hoặc thú vị, tôi viết ra và sau đó nghĩ về nó. Tôi cũng có người quản lý các tin nhắn tôi nhận được, giúp cho tôi ít mất thì giờ cho các trang mạng. Tôi tập trung nhiều hơn vào mục vụ giáo xứ.

Các dự án trên mạng của cha lúc này là gì?

Dự án chính của tôi lúc này là đào tạo các người giúp lễ cho giáo xứ của tôi! Hiện nay tôi đang viết một quyển sách về phân định ý Chúa sẽ xuất bản vào tháng 8. Tôi cũng sẽ làm một loạt video về đời sống hàng ngày của một linh mục và vài tháng nữa tôi sẽ đăng trên kênh YouTube của tôi, tôi đang viết những bài hát mới cho buổi hòa nhạc hàng năm sẽ trình diễn vào tháng 7, chúng tôi hy vọng sẽ có trên 2.000 người đến xem.

Max Studios | qua YouTube

Cha làm gì để thư giãn?

Dĩ nhiên tôi thích viết lách, sáng tác nhạc và làm video, nhưng tôi cũng thích cưỡi ngựa, gia đình tôi có con ngựa, tôi thích chèo thuyền, leo núi, tập tạ, chơi bóng rổ và dành thì giờ với gia đình và bạn bè.

Xin cha cho biết phản ứng của cha mẹ khi ông bà biết con mình sẽ làm linh mục.

Cha mẹ tôi đã có một sự cân bằng đáng kinh ngạc trong việc hỗ trợ và không tạo áp lực trong suốt thời gian tôi học thần học. Tôi chỉ có thể biết ơn cha mẹ tôi mà thôi. Tôi nhớ có một buổi tối, tôi nói ý tưởng đi tu với mẹ tôi, bà trả lời với tấm lòng của một bà mẹ quan tâm đến con: “Con có nghĩ là con sẽ là linh mục không? Con có nghĩ con sẽ hạnh phúc không?” Qua các câu hỏi của mẹ, tôi hiểu mẹ tôi đã lo cho tôi đến chừng nào.

Ma quỷ thích sự hỗn loạn, nhưng đội quân mà Chúa đang thành lập được tổ chức tỉ mỉ, với một mục tiêu duy nhất: cứu rỗi các linh hồn. Chúng ta sẽ thắng. Trong thực tế, chúng tôi đã thắng.

Câu trả lời của cha tôi còn bối rối hơn. Khi tôi nói với cha, cha  dừng lại một giây, rồi cha nhìn lên trời và nói: “Cha luôn muốn có một đứa con trai linh mục, nhưng thực sự cha không muốn đó là con.” Lúc đó tôi rất ngạc nhiên, nhưng gần đây tôi hỏi cha, cha muốn nói với tôi điều gì, và câu trả lời của cha làm tôi ngạc nhiên. Cha nói: “Dĩ nhiên, cha muốn có một đứa con làm linh mục. Cha đã nói với con, cha thực sự không muốn đó là con, để con biết đây đúng là chọn lựa của con. Cha muốn bảo đảm cho cha, rằng con tự do quyết định.”

Cha có đăng một video cha đi chơi với cháu trai của cha. Là linh mục, cha có thể mang đến điều gì đó cho gia đình cha? Và cha có đủ thời gian để gặp gia đình không?

May mắn là tôi gặp gia đình ít nhất hai tuần một lần. Tôi nghĩ  tôi đã đến gần gia đình hơn khi tôi là linh mục. Chúng tôi có được niềm vui khi ở bên nhau. Trò chơi mới của đứa cháu nhỏ của tôi là lén tháo cổ áo la mã của tôi và giấu đi, và tôi phải đi tìm. Tôi hy vọng giúp gia đình một cái gì đó về mặt thiêng liêng, nhưng họ đã giúp tôi rất nhiều: chính các cháu gái của tôi cho tôi hầu hết các ý tưởng để tôi giảng!

Và cuối cùng, các thách thức nào đang chờ cha và Giáo hội công giáo trong những năm sắp tới? Cha có lạc quan không?

Thách thức trước mắt gần như là sự tấn công liên tục vào sự thật và vào tất cả những người bảo vệ sự thật. Việc làm của ma quỷ là gây nghi ngờ về cuộc sống, về ý nghĩa cuộc sống, về hôn nhân, về đàn ông và đàn bà là gì và chúng chiếm rất nhiều chỗ. Dĩ nhiên chúng tôi mong chờ thế giới phản đối những chuyện này. Điều khó khăn là thấy sự nhầm lẫn chính trong nội bộ Giáo hội. Tuy nhiên, tôi luôn nghĩ đến một thực tế: Chúa Giêsu đã chọn mười hai tông đồ và một trong số họ cuối cùng đã phản bội Ngài. Chúa Giêsu có ngạc nhiên về điều này không? Dĩ nhiên là không. Ngài biết Ngài đã chọn ai. Ngài đã gởi một tín hiệu khá rõ ràng cho tất cả chúng ta: các lỗi lầm của một người nào đó trong Giáo hội, nhưng không vì lý do này để chúng ta rời bỏ Giáo hội. Dù thời nay vẫn có nhiều Giuđa, nhưng Chúa Giêsu đòi hỏi lòng trung tín. Đây sẽ là thử thách lớn nhất cho người công giáo trong tương lai: lòng trung tín.

Dù vậy, tôi vô cùng tin tưởng vào tương lai. Tôi đã sống một giây phút rất mạnh trong lễ truyền chức các linh mục năm ngoái. Tất cả các bạn cùng lớp vừa chịu chức gần đây với tôi ngồi xung quanh tôi. Sau đó, tôi thấy các tân linh mục chịu chức hôm nay, rồi các chủng sinh phục vụ trong cương vị phó tế và sẽ là linh mục năm sau. Rồi tôi nhìn các em giúp lễ, tất cả đều ở chủng viện, và nhóm các thanh niên trẻ đang được đào tạo để làm linh mục, các em ngồi ở hàng ghế đầu, trong đó có một em tôi đỡ đầu khi em thêm sức. Tất cả những em này rất vững vàng. Đó là những con người của cầu nguyện, của Mẹ Maria, những người chính thống, những người trung kiên. Và họ đã chọn con đường này cho cuộc đời mình. Ma quỷ thích sự hỗn loạn, nhưng đội quân Chúa đang thành lập được đào tạo kỹ lưỡng, với một mục tiêu duy nhất: sự cứu rỗi cho các linh hồn. Đối với mọi thách thức mà Giáo hội phải đối diện, Chúa Thánh Thần đã trả lời theo cùng một cách: Ngài gởi một thế hệ linh mục trung thành mới. Tôi có hy vọng không? Có. Chúng ta sẽ thắng. Trong thực tế, chúng ta đã thắng.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Sự xóa mờ tôn giáo và chiến thắng của thuyết tương đối

Sự xóa mờ tôn giáo và chiến thắng của thuyết tương đối

Hình minh họa

lanuovabq.it, Luca Volontè, 2023-05-03

Nhà văn Dostọevski đã nói: “Nếu Chúa không tồn tại, mọi thứ đều được phép”.

Nhưng ngày nay, xu hướng thống trị nói ngược lại bằng cách khẳng định, có một cách rất tốt để sống một cuộc sống đạo đức mà không cần tin vào sự tồn tại của Chúa. Chúng ta có thể thấy những thái cực đã dẫn dắt xã hội: nạn giết trẻ em chưa sinh ngày càng gia tăng, cái chết êm dịu và tự sát được hỗ trợ, sự tầm thường hóa của tất cả các hình thức tình dục, kể cả những hình thức không tự nhiên nhất, v.v.

Theo một nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Pew, những người trưởng thành ở trên hơn mười nước phương Tây nói rằng bạn không cần phải tin vào Chúa để có một cuộc sống đạo đức. Đức Bênêđictô XVI đã đưa ra lời cảnh báo: “Sự biến mất ý niệm về Thiên Chúa kéo theo sự biến mất ý niệm về một thế giới chân thực”.

Một nghiên cứu gần đây do Janell Fetterolf và Sarah Austin, hai nhà nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Pew, thực hiện, những người trưởng thành ở hơn mười nước phương Tây cho rằng, không cần thiết phải tin vào Chúa để sống một cuộc sống đạo đức hoặc có những giá trị tốt. Nghiên cứu, dựa trên các câu trả lời cho Khảo sát thái độ toàn cầu (Global Attitudes Survey) của Trung tâm nghiên cứu Pew, được thực hiện vào mùa xuân năm 2022 và được công bố ngày 20 tháng 4. Ở các nước châu Âu và Bắc Mỹ, cứ mười người được hỏi thì có ít nhất sáu người nghĩ rằng không nhất thiết phải tin vào Chúa mới là người đạo đức. Câu trả lời ở Thụy Điển là chín trên mười, tỷ lệ cao nhất trong tất cả các quốc gia được nghiên cứu. Trong khi đó người Israel trả lời: 47% cho rằng tin vào Chúa là cần thiết, 50% nói ngược lại.

Khi được hỏi “có nhất thiết phải tin vào Chúa thì mới có đạo đức và giá trị tốt đẹp” hay không, người dân các nước Tây Âu trả lời không nhất thiết phải tin vào Chúa mới là người đạo đức: Thụy Điển (90%), Pháp (77%), Vương quốc Anh (76%), Hà Lan ( 76%), Tây Ban Nha (74%), Bỉ (69%), Ý (68%), Đức (62%) và Hy Lạp (60%). Các nước khác ngoài Âu châu, một phần với nền văn minh phương Tây, Úc (85%), Canada (73%) và Hoa Kỳ (65%).

Một thực tế cũng được các quốc gia theo truyền thống được xem là pháo đài của tôn giáo và đức tin xác nhận: đa số người dân ở các nước Đông Âu như Ba Lan (67%) và Hungary (63%), họ có các chính phủ ủng hộ các giá trị truyền thống kitô giáo, quan điểm chính của họ: sống như thể Chúa không tồn tại hoặc như thể Chúa tồn tại, không thay đổi bất cứ điều gì.

Ở Ý, trung bình 68% số người được hỏi cho rằng không nhất thiết phải tin vào Chúa để là người tốt và có giá trị đạo đức tốt, trong đó 61% nói họ thuộc về một Giáo hội (Giáo hội công giáo la-mã), số còn lại tuyên bố họ không theo đạo hoặc có đạo nhưng không thuộc về một Giáo hội nào. Một con số đáng lo ngại với một quốc gia vẫn xem mình là “công giáo” và có nhiều tín hữu. Tuy nhiên, theo dữ liệu được hai nhà nghiên cứu thu thập trong những năm gần đây, cần lưu ý rằng ở Ý, từ năm 2019 đến năm 2022, số người tuyên bố tin vào Chúa là điều cần thiết để có những giá trị đạo đức mạnh mẽ, cũng như những người không nhận ra tầm quan trọng của Chúa vẫn ở mức ổn định 30%, sau thời gian (2002-2013) có sự gia tăng trong số những người nghi ngờ về tầm quan trọng của Chúa và những giảm sút tương ứng ở những người tin Chúa. Dù sao, lời kêu gọi khẩn thiết của Đức Bênêđictô XVI đưa ra lần đầu năm 2005 tại Subiaco, năm 2010 tại Rôma, sau đó ngài nhắc lại ở Bồ Đào Nha năm 2012 về sự cần thiết cấp bách phải sống “như Chúa tồn tại”.

Một Thiên Chúa có khuôn mặt của Chúa Giêsu Kitô, Đấng ngăn cản chúng ta đánh mất phẩm giá của mình, bị nuốt chửng bởi một “chủ nghĩa luân lý mới với những từ ngữ chính là công lý, hòa bình, bảo tồn tạo vật, những từ gợi lại những giá trị luân lý thiết yếu mà chúng ta thực sự cần”. Nhưng chủ nghĩa đạo đức này vẫn còn mơ hồ và do đó, gần như không thể tránh khỏi, trượt vào phạm vi của các đảng phái chính trị… một nỗ lực được đẩy đến mức cực đoan, theo cách mà các công việc của con người làm xem như hoàn toàn không cần đến Chúa, điều này càng ngày càng dẫn chúng ta đến bờ vực thẳm, hướng tới sự gạt bỏ con người hoàn toàn. Do đó, khẩn cấp là phải đảo ngược tình thế, hay như Đức Bênêđictô XVI đã nói, cố gắng sống và định hướng cuộc sống của mình như thể có Chúa ở đó “velut si Deus datur”… (vì) đó là cách mọi thứ chúng ta tìm thấy có được sự nương tựa và tiêu chuẩn mà chúng rất cần”.

Rõ ràng, chỉ có công dân Israel và Singapore là có tỷ lệ ngang nhau cho câu hỏi này, với 50% và 54% số người được hỏi, họ cho rằng tin vào Chúa là điều kiện tiên quyết cho đạo đức và các giá trị tốt đẹp. Malaysia là quốc gia duy nhất mà đại đa số người được hỏi (78%) cho rằng tin vào Chúa là cần thiết để sống một cuộc sống đạo đức với những giá trị tốt đẹp.

Sự khác biệt quan điểm giữa những người theo và không theo tôn giáo trải rộng trên tất cả các quốc gia được nghiên cứu, dù đa số ở cả hai nhóm đều nghĩ không nhất thiết phải tin vào Chúa để có một đời sống tốt. Ở hầu hết các quốc gia được khảo sát, một nửa hoặc nhiều hơn những người theo một tôn giáo nói rằng không cần thiết phải tin vào Chúa mới là người có đạo đức gồm 86% người Thụy Điển và 75% người Úc. Các dữ liệu trong cuộc nghiên cứu này xác nhận bằng chứng đáng lo ngại  qua các báo cáo chúng tôi đưa ra và đánh giá hàng ngày trên báo này: sự suy giảm ý tưởng về Chúa và củng cố tuyên bố điên rồ của Khai sáng về “cuộc sống tốt đẹp khi không có Chúa” đã được trải nghiệm và đã làm cho hàng triệu người là nạn nhân.

Trong những năm gần đây, thần học gia Ratzinger và triết gia Spaeman đã lên án sự kiện, “một nỗ lực được đẩy đến mức cực đoan, theo cách mà các công việc của con người làm xem như hoàn toàn không cần đến Chúa, điều này càng ngày càng dẫn chúng ta đến bờ vực thẳm, hướng tới sự gạt bỏ hoàn toàn con người và sự biến mất ý niệm về Thiên Chúa, kéo theo sự biến mất ý niệm về một thế giới chân thực”. Trước lời tố cáo và lời mời gọi cấp thiết này để khám phá lại lý trí và làm chứng thực sự cho đức tin, chúng ta tất cả được mời gọi để đưa ra câu trả lời và làm chứng. Một thách thức đối với thuyết tương đối mà các Giáo hội kitô giáo đã từ bỏ, như dữ liệu cho thấy.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Thiên Chúa không có bằng chứng

Thiên Chúa không có bằng chứng

presence-info.ca, Louis Cornellier, 2023-04-24

Còn có ai thực sự nghĩ chúng ta có thể chứng minh Thiên Chúa tồn tại hay không tồn tại không? Có vẻ còn, nếu chúng ta dựa vào sự thành công của quyển sách Thiên Chúa, khoa học, bằng chứng (Dieu, la science, les preuves, nxb. Guy Trédaniel, 2021), của các kỹ sư người Pháp Michel-Yves Bolloré và Olivier Bonnassies.

Luận điểm của quyển sách được ông Olivier Bonnassies tóm tắt, ông cũng tốt nghiệp thần học, trong một phỏng vấn với báo Le Figaro ngày 24 tháng 2 năm 2023. Rất đáng để trích dẫn chi tiết ở đây.

Ông giải thích: “Về cơ bản, ngày nay những bằng chứng cổ điển và hoàn toàn có giá trị về sự tồn tại của Chúa đến từ triết học và Mạc khải được bổ sung bằng những khám phá khoa học phi thường trong hàng trăm năm qua, góp phần chứng minh rằng Vũ trụ của chúng ta có một khởi đầu tuyệt đối và đó là thành quả của sự điều chỉnh cực kỳ tinh vi mà nếu không có nó thì không thể có sự sống phức tạp. Tuy nhiên, nếu có một khởi đầu trong thời gian, không gian và vật chất được liên kết với nhau, như Einstein đã đưa ra, thì chính vì vậy, nguyên nhân của sự xuất hiện này là phi thời gian, phi không gian và phi vật chất, tạo ra mọi thứ, điều chỉnh mọi thứ (hệ thống này) “Chúa đã sắp xếp có chừng có mực, đã tính toán và cân nhắc” như Kinh thánh nói (Kn 11, 20).

Tôi nói thẳng: “bằng chứng” này không thuyết phục tôi chút nào. Đầu tiên, nếu ngày nay chúng ta biết nhiều hơn ngày hôm qua về sự khởi đầu của vũ trụ nhờ mô hình Vụ nổ lớn, thì vẫn còn nhiều điều bí ẩn về thời điểm zero của toàn bộ lịch sử. Do đó, bằng một thao tác trí óc logic, chúng ta có thể suy luận, thực sự phải có một nguyên nhân tuyệt đối cho vũ trụ, nhưng chúng ta không còn làm khoa học bằng cách đặt tên của Chúa cho bí ẩn này nữa; chúng ta tin.

Cựu linh mục Dòng Đa Minh Jacques Arnould và là nhà sử học khoa học trong một cuộc phỏng vấn với báo Figaro đã tự hỏi: “Liệu có phù hợp không, để lấp đầy sự thiếu hiểu biết của chúng ta bằng cách viện đến một lập trình viên vĩ đại, một bộ óc thông minh, một Đấng sáng tạo? Đó là làm cho Thiên Chúa, theo cách giải thích hiện nay, thành phương tiện lấp đầy những lỗ hổng do nghiên cứu khoa học để lại; trên hết là làm cho Ngài có nguy cơ thấy mình bị “chôn vùi” do việc xem lại mô hình hiện nay, hoặc thậm chí thay thế nó… vì như thế khoa học mới đi tới!”

Điều hiển nhiên sẽ chiếm ưu thế: khoa học và đức tin là hai lãnh vực riêng biệt. Khi cố gắng hợp nhất chúng, để làm cho chúng phù nhau, chúng ta phản bội cả hai. Chúng ta lấy phép lạ làm ví dụ. Phép lạ là bằng chứng về Chúa chỉ dành cho những người tin; những người khác nhìn thấy, một cách chính đáng, đây là những hiện tượng không thể giải thích được. Nói “Chúa” khi đối diện với những gì vượt quá tầm hiểu biết của chúng ta chẳng chứng minh được gì, ngoại trừ việc chúng ta có đức tin.

Arnould chống chủ nghĩa hòa hợp

Trong quyển sách Chúa không cần “bằng chứng” (Dieu n’a pas besoin de ‘preuves’, nxb. Albin Michel, 2023), tác giả Jacques Arnould đứng lên chống lại cám dỗ của chủ nghĩa phù hợp, khoa học nói những gì nó không thể nói – Chúa tồn tại – và làm cho đức tin trở thành một kiến thức sai lầm. “Độ chính xác của đồng hồ vũ trụ” tất nhiên là chói lọi, nhưng để kết luận có một Chúa sáng tạo thì nhất thiết phải thông qua đức tin. Khoa học không phải là bằng chứng của đức tin, cũng như sự tồn tại của cái ác trên thế giới không chứng minh Chúa là ảo tưởng. Chúng ta hãy rõ ràng, Chúa là đối tượng của đức tin, không phải của khoa học.

Cho dù chúng ta có ‘phủ sóng’ vào bộ não của các thiền sư để biết xem bộ não của họ hoạt động như thế nào khi họ ngồi thiền, thì chúng ta cũng sẽ không chứng minh được có sự tồn tại của Chúa hay không, dù chúng ta có thể quan sát thấy các trạng thái thần kinh đáng kinh ngạc. Chúng ta có thể biết những gì xảy ra trong bộ não của một người khi họ nghĩ về Chúa, hay sự siêu việt tồn tại, nhưng chúng ta sẽ không học được gì về chính Chúa, Đấng rõ ràng vượt xa những biểu hiện này, nếu Ngài tồn tại. Arnould kết luận những kinh nghiệm này minh họa cho điều “con người được tạo ra cho Chúa hay chính xác hơn là cho cảm nhận tôn giáo.” Chúng không cho chúng ta biết Chúa là thực hay ảo. Ở giai đoạn này, chính đức tin mới quyết định.

Dù tác giả thường tạo kích thích và hấp dẫn, nhưng bài khảo luận của Jacques Arnould không may lại làm thất vọng đôi chút. Nhà tư tưởng không thiếu uyên bác và phong cách, nhưng chủ đề của ông không phải lúc nào cũng sáng rõ khi hoàn thành. Mỗi câu của ông đều rõ ràng, nhưng tiến trình lập luận của ông mơ hồ. Chúng ta dễ dàng nắm bắt được tinh thần chung, nhưng các sự kiện nhảy vọt hơn là đi từng bước, làm giảm đi tính rõ ràng của luận điểm.

NOMA của Stephen Jay Gould

Về cùng một vấn đề, có nghĩa là về mối quan hệ giữa khoa học và tôn giáo và về sự cám dỗ của chủ nghĩa hòa hợp, quyển sách của nhà sinh vật học người Mỹ Stephen Jay Gould (1941-2002), Và Chúa phán: “Hãy có Darwin!” (Et Dieu dit: “Que Darwin soit!”, nxb. Points, 2013), vẫn là tài liệu tham khảo không thể vượt qua.

Tranh luận về việc công nhận “giá trị ngang nhau” của hai lãnh vực mà ông gọi là huấn quyền, “cái này cũng cần thiết như cái kia cho toàn bộ sự tồn tại của con người hoàn thành,” Gould khẳng định chúng “vẫn khác biệt về logic và hoàn toàn tách biệt về cách nghiên cứu.” Ông lưu ý, khoa học quan tâm đến các sự kiện và xây dựng các lý thuyết về cách chúng hoạt động. Còn tôn giáo quan tâm đến “ý nghĩa tối hậu” và “giá trị đạo đức”. Điều cần thiết là không nhầm lẫn chúng, để tránh bất cứ một sự tối nghĩa nào. Đó là nguyên tắc của NOMA, có nghĩa là KHÔNG dẫm chân lên Huấn quyền. (Non-overlapping magisteria).

Theo Gould, Darwin, anh hùng của ông, là mẫu hình của thể loại này. Ông biết “Thiên nhiên hoàn toàn không cung cấp cho chúng ta một huấn quyền đạo đức nào”, không có “ý nghĩa tự tại trong Thiên nhiên”, việc đi tìm ý nghĩa tùy thuộc vào mỗi người “ở một nơi vừa không thể xuyên thủng nhất và gần gũi nhất với chúng ta – đó là nội tâm con người mong manh của chúng ta”.

Tuy nhiên, nếu muốn rút ra một ý nghĩa đạo đức từ việc nghiên cứu thiên nhiên là không tôn trọng NOMA, thì một tín ngưỡng cũng cho thấy điều này. Nếu tôn giáo của bạn dựa trên tín điều, rằng Trái đất chỉ có mười ngàn năm tuổi, thì nó cũng không tôn trọng NOMA, vì nó dựa trên nền tảng của các sự việc đi ngược với kiến thức khoa học đã được thiết lập.

Theo tác giả Gould, NOMA nổi bật như một tiêu chuẩn để đánh giá tính hợp lệ của một phương pháp. Sử dụng khoa học để xác định Chúa tồn tại hay không tồn tại thì cũng không phù hợp gì hơn là nói ngược với kiến thức khoa học từ các văn bản được tiết lộ. Chúa không phải là khoa học, nhưng khoa học không phải là thần thánh.

Gould viết: “Tôi là người theo thuyết bất khả tri, (…) vì trên thực tế, chúng ta không thể quyết định.” Tuy nhiên, ông vẫn giữ một “lòng tôn trọng cao cả đối với tôn giáo”. Nếu ông kiên quyết từ chối sự kết hợp giữa khoa học và tôn giáo, thì ông vẫn đề xuất một cách sống, modus vivendi thấm nhuần minh triết: “Cũng như cơ thể cần cả thức ăn và giấc ngủ để tồn tại, không một tổng thể nào có thể bỏ qua sự đóng góp đa dạng của các bộ phận độc lập. Chúng ta phải sống trọn vẹn sự tồn tại trong nhiều nơi chốn, trong một lân cận có thể làm hài lòng tất cả những nghệ nhân cổ động cho sự đa dạng hiện đại.” Tôi nói với bạn, quyển sách này là tuyệt vời, cả về nội dung rực rỡ, cả về văn phong trong sáng và tinh tế.

Tôi tán thành đề xuất của nhà cổ sinh vật học. Cùng ngày, tôi có thể đọc Québec Khoa học và Dụ Ngôn (Québec Science et Parabole), tạp chí của Hiệp hội Kinh thánh Công giáo, vui mừng vì Chúa đã ban sự sống cho Stephen Jay Gould. Tôi tránh hỗn hợp, nhưng tôi không tước đi bất cứ thứ gì.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Các bằng chứng về sự tồn tại của Chúa: “Nghi ngờ là cấu thành của khoa học cũng như của tôn giáo”

Tòa Thánh ký kết thỏa thuận bảo vệ trẻ vị thành niên  

Tòa Thánh ký kết thỏa thuận bảo vệ trẻ vị thành niên

cath.ch, Jacques Berset, 2023-04-23

Hồng y O’Malley và hồng y Tagle ký thỏa thuận ngăn chặn lạm dụng trên những người dễ bị tổn thương nhất | © Truyền thông Vatican

Ngày thứ sáu 21 tháng 4, Vatican News thông báo, Ủy ban Giáo hoàng Bảo vệ Trẻ vị thành niên và Thánh Bộ Truyền giáo đã ký một thỏa thuận cộng tác để phục vụ các Giáo hội cụ thể – đặc biệt là những Giáo hội có nguồn nhân lực hạn chế – trong lĩnh vực ngăn ngừa lạm dụng với những người dễ bị tổn thương nhất.

Thông báo này, được đưa ra khi gần đây linh mục Hans Zollner đã chỉ trích Ủy ban nặng nề, linh mục là thành viên của Ủy ban và đã từ chức, ngài cho rằng Ủy ban đã thiếu minh bạch và bị rối loạn chức năng trong các cấu trúc.

Linh mục Dòng Tên Hans Zollner là thành viên của Ủy ban Giáo hoàng về Bảo vệ Trẻ vị thành niên từ năm 2014 | © Truyền thông Vatican

Linh mục Dòng Tên người Đức, giám đốc Viện Nhân học – Nghiên cứu Liên ngành về Phẩm giá và Chăm sóc những người dễ bị tổn thương (IADC) của Giáo hoàng Học viện Gregorian, là nhân vật lịch sử trong cuộc chiến chống tội phạm trẻ em trong Giáo hội công giáo.

Phục vụ tất cả các nạn nhân

Thỏa thuận được hồng y Luis Antonio Tagle, bộ trưởng Thánh Bộ Truyền Giáo, và hồng y Seán Patrick O’Malley, chủ tịch Ủy Ban Giáo Hoàng Bảo Vệ Trẻ Vị Thành Niên, lấy ý tưởng từ Tông hiến Anh em hãy rao giảng Tin Mừng Praedicate Evangelium. Thỏa thuận đại diện cho một cam kết cộng tác “chủ động và dứt khoát,” để phục vụ tất cả các nạn nhân và các Giáo hội địa phương theo lời kêu gọi của Đức Phanxicô và để Giáo triều Rôma có thể hiện diện trong đời sống của mỗi Giáo hội, đặc biệt là trong các lãnh thổ truyền giáo. Các lãnh vực hợp tác trong đó hai cơ quan của Giáo triều Rôma sẽ trao đổi thông tin, nguồn lực và đào tạo, nhằm phục vụ các nạn nhân, các Giáo hội địa phương và cuối cùng là các giám mục.

Sự hợp tác sẽ nhằm mục đích phát triển các phương tiện hòa nhập hiệu quả nhất dựa trên kinh nghiệm của các nạn nhân trong các thủ tục tố tụng tương ứng. Bản ghi chú đưa ra, những sáng kiến này tìm điểm khởi đầu trong việc phát triển mạng lưới “Các Trung tâm Tưởng niệm” (Centres Memorare), được thiết lập để giúp các Giáo hội cụ thể – nơi họ yêu cầu – thành lập các văn phòng hoặc tổ chức để tiếp nhận và tạo điều kiện thuận lợi cho các vụ khiếu nại.

Đưa vào thực hành các “hướng dẫn” do Vatican yêu cầu

Ủy ban sẽ cung cấp kiến thức chuyên môn cho các thành viên và nhân viên của mình để chia sẻ thông tin về các biện pháp bảo vệ mới nhất. Để thúc đẩy sứ mệnh bảo vệ trong các Giáo hội địa phương, theo yêu cầu của Đức Phanxicô, việc tạo điều kiện thuận lợi cho các cuộc họp của các Hội đồng Giám mục với Ủy ban trong các chuyến thăm ad limina đến Rôma cũng sẽ tiếp tục. Hồng y O’Malley nói: “Chúng tôi sẽ làm việc với các Hội đồng Giám mục khi họ đến Rôma trong chuyến đi ad limina và chúng tôi muốn đảm bảo, một phần trong báo cáo ngũ niên của họ sẽ tập trung vào việc bảo vệ và đưa ra các thách thức và đâu là các thành công: đó là cơ hội để họ đến gặp chúng tôi và chúng tôi cùng nhau bàn luận.” Đó là vấn đề đưa vào thực hành “các hướng dẫn” do Vatican yêu cầu trong tất cả các giáo phận.

Hỗ trợ các giám mục trong vai trò bảo vệ mục vụ của họ

Để giúp các giám mục trong vai trò bảo vệ thừa tác vụ, lắng nghe các nạn nhân, tạo môi trường an toàn và giải quyết các khiếu nại, Ủy ban sẽ cung cấp mạng lưới chuyên gia quốc tế và các tiêu chuẩn quốc tế tiên tiến nhất được tập hợp trên nhiều quốc gia qua những năm tháng làm việc. Ủy ban sẽ hợp tác với Thánh Bộ trong các khóa đào tạo cho các tân giám mục vừa được bổ nhiệm trong các giới hạn thuộc thẩm quyền Giáo hội và với Ủy ban Giáo hoàng Tuổi thơ Thánh, liên quan đến việc đào tạo người trẻ trong sứ mệnh.

Thỏa thuận có hiệu lực ba năm và sự tiến triển trong sự hợp tác giữa hai cơ quan sẽ được báo cáo hàng năm trong báo cáo về việc bảo vệ trong Giáo hội. Ủy ban hiện đang thảo luận với các bộ khác của Giáo triều có thẩm quyền bao gồm công việc bảo vệ trong toàn Giáo hội.

Đôi khi các Giáo hội trẻ bị hạn chế trong nguồn lực của họ

Hồng y O’Malley lưu ý vai trò của Bộ Truyền giáo thực sự rất quan trọng, vì phần lớn trách nhiệm của Bộ là hoạt động với các Giáo hội và các quốc gia truyền giáo, cũng như với các quốc gia mới nổi và các Giáo hội mới. Hồng y nói tiếp: “Rất thường khi có nhiều hoạt động và sự phát triển ở một số bộ nhưng không may, đôi khi các nguồn lực lại bị hạn chế (…) Tôi hy vọng có thể cộng tác với các giáo phận mà thánh bộ có liên quan để giúp họ phát triển các chương trình. Nhưng cũng để có thể đón nhận các nạn nhân và hỗ trợ họ trong mục vụ, để đảm bảo các hướng dẫn của họ không chỉ là thực hành pháp lý mà góp phần vào công việc mục vụ với những người bị tổn thương, để có thể bảo vệ và phòng ngừa, vì điều rất quan trọng là để làm sao đảm bảo cho trường học và cộng đồng của chúng ta là nơi an toàn cho trẻ em và thanh thiếu niên”.

Về phần mình, hồng y Tagle nhấn mạnh: “Ủy ban sẽ có thể giúp thánh bộ và các Hội đồng Giám mục hiểu rõ hơn về tác động đối với cuộc sống của các cá nhân và cộng đồng về hành vi lạm dụng và bạo lực. Trong hầu hết các lãnh thổ thuộc trách nhiệm của chúng tôi, Giáo hội đại diện cho một thiểu số nhỏ: chúng tôi hy vọng với sáng kiến này, các Giáo hội địa phương có thể trở thành chất men trong xã hội nói chung; tất nhiên, với sự giúp đỡ của Thiên Chúa, bởi vì đôi khi tiếng nói của Giáo hội chỉ là tiếng thì thầm, dù tiếng nói này rất cần thiết. Ở đây tôi xem đó là sự đóng góp của Giáo hội cho xã hội theo nghĩa rộng nhất của nó.”

Những mong chờ không thực tế

Khi được hỏi về những lời chỉ trích gần đây đối với công việc của Ủy ban, hồng y O’Malley lưu ý, Ủy ban đã quen với những lời chỉ trích, ngài nói: “Khi Ủy ban mới thành lập đã có những mong chờ không thực tế về những gì nhóm tình nguyện viên này có thể làm để giải quyết tất cả các vấn đề lạm dụng tình dục trong Giáo hội và trên thế giới. Chúng tôi đã học được rất nhiều từ những lời chỉ trích này và tôi tin rằng sáng kiến của Đức Phanxicô đưa chúng tôi vào Giáo triều Rôma với mối quan hệ chặt chẽ với Bộ Giáo lý Đức tin cho chúng tôi cơ hội phục vụ Giáo triều và xây dựng một nền văn hóa bảo vệ bên trong đó”.

Ngài cho biết: “Trong bối cảnh này, linh mục Zollner, người được các thành viên của Ủy ban đánh giá cao, đã không tham gia nhiều vào sinh hoạt của Ủy ban trong năm qua vì thế chúng tôi không biết mối quan tâm của linh mục hoặc mức độ của những mối quan tâm này như thế nào. Tôi rất tiếc là linh mục sẽ không tham dự phiên họp toàn thể của chúng tôi sắp tới, để chia sẻ những lo lắng của linh mục với tất cả chúng tôi, thay vì từ chức và triệu tập một cuộc họp báo – mà theo tôi thì thực sự không có lợi…”

Hồng y Tagle lưu ý thêm, trong những năm gần đây “cam kết của chúng tôi trong việc xây dựng một Giáo hội bảo vệ những người trẻ đã tập trung vào các linh mục, và đây là một điều tốt. Chúng tôi hy vọng qua cách tiếp cận rộng rãi hơn này – cũng là cách tiếp cận thể hiện một văn hóa giám hộ trong Giáo hội – chúng tôi không thể không quan tâm đến hàng giáo sĩ; trên thực tế, chúng tôi muốn mở rộng ra với bộ Giáo dân, Gia đình và Sự sống”. Nhưng hồng y cũng lưu ý, đặc biệt là thông qua việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội, phần lớn các vụ lạm dụng xảy ra tại nhà và do cha mẹ gây ra: “Lý do là đôi khi vì nghèo đói – và đây là nơi bộ Phát triển Nhân bản Toàn diện can thiệp, chẳng hạn, làm thế nào các giáo phận có thể đưa một số yếu tố này vào việc chăm sóc mục vụ cho các gia đình, trong việc chuẩn bị hôn nhân cho các cặp vợ chồng trẻ hoặc trong thừa tác vụ chuẩn bị cho người trẻ tuổi thêm sức. Đó là nơi tôi thấy sự mở rộng của nền văn hóa đó.”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Tân giám mục Loïc Lagadec trẻ nhất nước Pháp

Tân giám mục Loïc Lagadec trẻ nhất nước Pháp

Loïc Lagadec, tân giám mục phụ tá của giáo phận Lyon

fr.aleteia.org, Bérengère de Portzamparc, 2023-04-29

Ngày chúa nhật 30 tháng 4, tân giám mục Loïc Lagadec, 48 tuổi, được tấn phong làm giám mục phụ tá giáo phận Lyon tại nhà thờ chính tòa Thánh Gioan Tẩy giả. Là giám mục trẻ nhất nước Pháp và ở đúng vào thời của mình.

Cho đến nay, ngài là cha tổng đại diện của giáo phận Grenoble-Vienne. Linh mục chưa bao giờ rời vùng Rhône-Alpes. Sinh tại Ardèche tháng 8 năm 1974, tuổi thơ cha sống ở Vienne (Isère) và sau đó học ở Lyon.

Khi còn là sinh viên, cha đã đặt câu hỏi về ơn gọi của mình và quyết định vào chủng viện Lyon. Cha cho biết: “Tôi chắc chắn một điều: tôi không đến đó để xem! Cuộc đời tôi đã thực sự thay đổi, từ một sinh viên công giáo sốt sắng, tôi thành người được tình yêu của Chúa Kitô chiếm lấy, khám phá được Phúc âm vĩ đại hơn những gì mình nghĩ, và tôi muốn dành cả cuộc đời để chia sẻ Tin Mừng.”

Thánh Phanxicô Assisi đã đặc biệt tác động đến tân giám mục

Chịu chức năm 2005, cha làm cha sở giáo xứ Thánh Phanxicô Assisi ở Bourgoin-Jallieu, Thánh Phanxicô Assisi lại là thánh có tác động đến cha nhất, ngài nói với trang Aleteia: “Năm 12 tuổi, tôi hành hương đến Assisi, và tôi thực sự xúc động với thông điệp về tình huynh đệ của ngài, về người anh em phổ quát muốn thay đổi thế giới. Nhiệt huyết trong sự dấn thân của ngài, một nhiệt huyết mà sau này tôi có được khi tôi làm linh hướng cho các người trẻ ở Grenoble.” Sau đó cha phụ trách mục vụ giới trẻ của giáo phận có tên là “Isèreanybody?” ở đó, khi còn là linh mục trẻ, cha cảm thấy mình có một thôi thúc xây dựng lại Giáo hội, như Thánh Phanxicô cảm nhận trong thời của ngài.

Cha giải thích: “Dĩ nhiên, chúng ta không thể tránh những thách thức của Giáo hội ngày nay. Tôi được phong trong một thời buổi phức tạp, và tôi không ngây thơ. Nhưng tôi ở trong sự năng động của ơn gọi. Tôi luôn cố gắng nói Vâng: với Tin Mừng, với sứ mệnh và với Chúa Giêsu.” Tân giám mục có thấy mong muốn trẻ hóa, hoặc làm phát triển hội đồng giám mục Pháp bằng cách trẻ hóa nó không? Ngài nói đùa: “Dù có thời gian dài kề vai sát cánh với nhiều bạn trẻ, nhưng hôm nay tôi không còn thấy mình quá trẻ khi đối diện với những người 20 tuổi nữa!” Ngài nói tiếp nghiêm túc hơn: “Dù sao, chắc chắn cách nhìn của chúng ta về thế giới đã thay đổi, tôi ở trong thời của tôi, trong thời đương đại, nhìn về những tai tiếng đã ảnh hưởng đến Giáo hội, tôi không phải là thế hệ của im lặng. Ngược lại, chúng tôi đang làm việc rất nhiều về những chủ đề này, chúng tôi lên chương trình tháp tùng các nạn nhân, các linh mục, và phát triển mạng phòng ngừa, chúng tôi đang thay đổi rõ ràng văn hóa của mình và tôi hoàn toàn dấn thân trong tiến trình này.”

Với sứ mệnh mới đang chờ đợi, tân giám mục Lagadec cho biết, sau khi sứ thần gọi báo tin, bầu trời như sụp đổ trên đầu tôi: “Tôi cầu nguyện suốt cuối tuần, và chính hình ảnh tổ phụ Abraham đã đồng hành cùng tôi, Ngài đã phải ra đi, một cuộc phiêu lưu đến một chân trời vô định trong đức tin, trong phó thác. Tôi đã rất hạnh phúc ở Grenoble, và bây giờ đến lượt tôi, tôi phải đi đến một chân trời tôi chưa biết, nhưng tôi muốn tìm hiểu, gặp gỡ và thăm viếng các giáo xứ, đó sẽ là con đường của tôi, vừa nhiệt thành vừa thú vị.” Tân giám mục đã chọn câu 21, 15 trong Phúc âm Thánh Gioan làm câu suy niệm: “Này anh Si-môn, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không (…), Chúa Giêsu nói với ông: Hãy chăm sóc chiên con của Thầy.”

“Tôi cảm thấy tôi được gọi với chính con người tôi, với những điểm mạnh, điểm yếu và giới hạn của tôi, nhưng cơ bản tôi yêu mến Chúa Kitô và tôi hạnh phúc khi được phục vụ Tin Mừng.”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Tổng giám mục Robert Francis Prevost, giám mục là mục tử gần với giáo dân chứ không phải là người quản lý

Tổng giám mục Robert Francis Prevost, giám mục là mục tử gần với giáo dân chứ không phải là người quản lý

Tổng giám mục Robert Francis Prevost, bộ trưởng bộ Giám mục kể từ ngày 12 tháng 4 năm 2023. (Vatican Media)

Phỏng vấn tổng giám mục Robert Francis Prevost, Tổng trưởng bộ Giám mục: “Chúng ta thường quan tâm đến việc dạy giáo lý, nhưng chúng ta quên nhiệm vụ đầu tiên của chúng ta là truyền đạt vẻ đẹp và niềm vui được biết Chúa Giêsu”. Về lạm dụng: “Chúng ta phải minh bạch và hỗ trợ các nạn nhân”.

vaticannews.va, Andrea Tornielli. Vatican, 2023-05-04

Ở tuổi 67, ngài sống như “người tập việc” trong chức vụ tổng trưởng bộ Giám mục: Robert Francis Prevost, dòng Thánh Augutinô, sinh tại Chicago, nước Mỹ, làm thừa sai rồi giám mục Chiclayo (Peru), ngài được Đức Phanxicô chọn làm người kế vị hồng y Marc Ouellet. Ngoài tiếng Anh, ngài còn nói tiếng Tây Ban Nha, Ý, Pháp và Bồ Đào Nha. Trong cuộc phỏng vấn với truyền thông Vatican, ngài đưa ra chân dung của một giám mục ở thời chúng ta đang sống.

Điều này mang ý nghĩa gì với cha khi đang là giám mục truyền giáo ở Châu Mỹ Latinh, cha được giáo hoàng bổ nhiệm để giúp ngài chọn các giám mục trên thế giới? 

Giám mục Robert Francis Prevost. Tôi vẫn xem mình là nhà truyền giáo. Ơn gọi của tôi, giống như ơn gọi của bất cứ tín hữu kitô nào, đó là trở thành nhà truyền giáo, loan báo Tin Mừng ở bất cứ đâu mình ở. Chắc chắn, cuộc sống của tôi đã thay đổi rất nhiều: tôi có cơ hội được phục vụ Đức Thánh Cha, phục vụ Giáo hội ngày nay, tại đây, ở Giáo triều Rôma. Một nhiệm vụ rất khác với các nhiệm vụ trước đây, nhưng cũng là dịp để trải nghiệm một khía cạnh khác của đời tôi, đơn giản là luôn trả lời “vâng” khi được yêu cầu phục vụ. Trong tinh thần này, tôi hoàn thành sứ mệnh ở Peru, sau tám năm rưỡi làm giám mục và gần hai mươi năm truyền giáo để bắt đầu một sứ mệnh mới ở Rôma.

Cha có thể vạch ra những đường nét tiêu biểu của giám mục cho Giáo hội thời đại chúng ta không?

Trên hết, người đó phải là người “công giáo”: giám mục đôi khi có nguy cơ chỉ tập trung vào chiều kích địa phương. Nhưng một giám mục phải có một tầm nhìn rộng lớn hơn về Giáo hội và về thực tại, đồng thời cảm nghiệm được tính phổ quát của Giáo hội. Họ cũng phải có khả năng lắng nghe người anh em và xin lời khuyên, cũng như cho thấy mức độ trưởng thành về tâm lý và thiêng liêng của họ. Yếu tố chính của chân dung giám mục là mục tử, gần gũi với các thành viên trong cộng đoàn, bắt đầu là các linh mục mà giám mục là cha, là anh; sống gần gũi với mọi người, không loại trừ một ai. Đức Phanxicô đã nói về bốn gần gũi: gần gũi với Thiên Chúa, với các giám mục anh em, với các linh mục và với tất cả dân Chúa. Người giám mục không chiều theo cám dỗ sống biệt lập, tách biệt trong tháp ngà, cảm thấy đủ với cấp bậc xã hội, với một cấp bậc nào đó của Giáo hội. Và giám mục cũng không được trốn đàng sau ý tưởng quyền lực mà ngày nay không còn ý nghĩa nữa. Thẩm quyền mà chúng ta có là phục vụ, đồng hành với các linh mục, làm mục tử và thầy dạy. Chúng ta thường bận tâm đến việc dạy giáo lý, cách sống đức tin của mình, nhưng chúng ta có nguy cơ quên rằng nhiệm vụ đầu tiên của chúng ta là dạy ý nghĩa của việc biết Chúa Giêsu Kitô và làm chứng cho sự gần gũi của chúng ta với Chúa. Đây là điều đầu tiên phải làm: truyền đi vẻ đẹp của đức tin, vẻ đẹp và niềm vui được biết Chúa Giêsu. Như thế có nghĩa chúng ta sống điều này với chính mình và chúng ta phải chia sẻ kinh nghiệm này.

Chức vụ giám mục đối với sự hiệp nhất quanh người kế vị thánh Phêrô quan trọng như thế nào, vào thời điểm mà sự phân cực cũng đang gia tăng trong cộng đồng Giáo hội?

Ba từ chúng ta dùng trong công việc của Thượng Hội đồng – tham gia, hiệp thông và sứ mệnh – là câu trả lời. Giám mục được mời gọi sống đặc sủng này, để sống tinh thần hiệp thông, cổ võ sự hiệp nhất trong Giáo hội, hiệp nhất với Đức Thánh Cha. Và cũng có nghĩa là người công giáo, vì không có Phêrô thì Giáo hội ở đâu? Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho điều này trong Bữa Tiệc Ly: “Xin cho tất cả được nên một” và chính sự hiệp nhất này mà chúng ta muốn thấy trong Giáo hội. Ngày nay, xã hội và văn hóa đang dẫn chúng ta ra khỏi tầm nhìn về Chúa Giêsu, và như thế nó làm tổn hại rất nhiều. Sự thiếu hiệp nhất là một vết thương mà Giáo hội phải gánh chịu, một vết thương rất đau đớn. Sự chia rẽ và tranh cãi trong Giáo hội chẳng giúp được gì. Trên hết, các giám mục chúng ta phải thúc đẩy con đường tiến đến hiệp nhất, hướng đến sự hiệp thông trong Giáo hội.

Thủ tục bổ nhiệm các tân giám mục có cải thiện không? Trong tông hiến Anh em hãy rao giảng Tin Mừng Praedicate Evangelium có nói “các thành viên dân Chúa” nên tham dự. Và đó là trường hợp?

Chúng tôi đã có một suy tư tích cực giữa các thành viên của Bộ về chủ đề này. Trong một thời gian, chúng tôi đã lắng nghe không chỉ một số giám mục hoặc một số linh mục, mà còn cả các thành viên khác của dân Chúa. Điều này rất quan trọng, bởi vì giám mục được mời gọi để phục vụ một Giáo hội cụ thể. Đó là lý do vì sao việc lắng nghe dân Chúa cũng rất quan trọng. Nếu một ứng viên không được ai biết đến trong cộng đồng giáo dân của mình, thì khó – không phải là không thể, nhưng khó – để người đó thực sự trở thành mục tử của cộng đoàn, của một Giáo hội địa phương. Vì thế điều quan trọng là tiến trình này phải cởi mở hơn để lắng nghe các thành viên khác nhau của cộng đồng. Nhưng không có nghĩa là Giáo hội địa phương nên chọn mục tử của mình, như thể việc được mời làm giám mục là kết quả của một cuộc bỏ phiếu dân chủ, một tiến trình gần như “chính trị”. Cần có một tầm nhìn rộng lớn hơn và các sứ thần Tòa thánh góp phần rất lớn vào công việc này. Tôi tin, dần dần chúng ta phải cởi mở hơn, lắng nghe các tu sĩ, nam nữ giáo dân nhiều hơn.

Một trong những điểm mới là giáo hoàng bổ nhiệm ba phụ nữ trong số các thành viên của bộ Giám mục. Cha có thể nói gì về sự đóng góp này của họ?

Trong một số trường hợp, chúng tôi đã có thể thấy rằng quan điểm của họ rất phong phú. Hai là nữ tu và một là giáo dân. Quan điểm của họ thường hoàn toàn trùng khớp với những gì các thành viên khác của thánh bộ đang nói, có những trường hợp khác, họ đưa ra một quan điểm khác và trở thành một đóng góp quan trọng cho tiến trình. Tôi nghĩ việc bổ nhiệm họ không chỉ là một cử chỉ của giáo hoàng để nói bây giờ chúng tôi có phụ nữ ở đây. Nhưng họ thực sự tham gia và mang lại ý nghĩa cho các cuộc họp của chúng tôi khi chúng tôi thảo luận về hồ sơ ứng viên.

Các quy định chống lạm dụng mới đã nâng cao trách nhiệm của các giám mục, được kêu gọi hành động nhanh chóng và trả lời cho bất kỳ sự chậm trễ hoặc thiếu sót nào. Nhiệm vụ này được cha cảm nhận như thế nào?

Chúng tôi cũng đang đi đúng hướng trong lãnh vực này. Có những nơi đã hoàn thành tốt công việc từ nhiều năm nay và có những quy tắc được áp dụng trong thực tế. Đồng thời, tôi nghĩ vẫn còn rất nhiều điều để học hỏi. Tôi đang nói về tính cấp thiết và trách nhiệm hỗ trợ các nạn nhân. Một trong những khó khăn thường nảy sinh là giám mục phải gần gũi với các linh mục của mình, như tôi đã nói, và họ cũng phải gần gũi với các nạn nhân. Một số người khuyên, giám mục không nên là người trực tiếp tiếp nhận các nạn nhân, nhưng chúng ta không thể đóng trái tim của mình, đóng cánh cửa Giáo hội trước những người đau khổ vì bị lạm dụng. Trách nhiệm của giám mục rất lớn và tôi nghĩ chúng ta còn phải còn phải cố gắng rất nhiều để ứng phó với thực trạng đang gây nhức nhối cho Giáo hội. Sẽ cần thời gian, chúng tôi đang cố gắng làm việc cùng với các bộ khác. Tôi nghĩ, việc đồng hành với các giám mục chưa nhận được sự chuẩn bị cần thiết để đối diện với tình huống này là một phần sứ mệnh của bộ chúng tôi. Điều cấp bách và cần thiết là chúng ta phải có trách nhiệm hơn và nhạy cảm hơn với vấn đề này.

Các luật bây giờ đã có. Nhưng thay đổi não trạng còn khó hơn…

Dĩ nhiên có nhiều khác biệt giữa các nền văn hóa trong cách phản ứng với các trường hợp này. Ở một số quốc gia, điều cấm kỵ khi đưa ra chủ đề này đã phần nào bị phá vỡ, trong khi ở những quốc gia khác, nạn nhân hoặc gia đình họ không bao giờ muốn nói về những lạm dụng mà họ đã phải chịu đựng. Dù sao, im lặng không phải là câu trả lời. Im lặng không phải là giải pháp. Chúng ta phải minh bạch và trung thực, đồng hành và giúp đỡ các nạn nhân, nếu không vết thương của họ sẽ không bao giờ lành. Chúng ta có một trách nhiệm lớn ở đây. Tất cả chúng ta đều bao gồm.

Giáo hội cam kết đi theo con đường dẫn đến Thượng hội đồng hiệp hành. Vai trò của giám mục là gì?

Đây là một cơ hội lớn trong sự đổi mới liên tục này của Giáo hội mà Đức Phanxicô mời gọi chúng ta hưởng ứng. Một mặt, có những giám mục công khai tỏ ra sợ hãi, vì họ không hiểu Giáo hội đang đi về đâu. Có lẽ họ thích sự an toàn của những câu trả lời đã có trong quá khứ. Tôi tin tưởng Chúa Thánh Thần đang hiện diện rất nhiều trong Giáo hội vào thời điểm này và Ngài đang thúc đẩy chúng ta hướng tới sự đổi mới. Đó là lý do vì sao giám mục chúng tôi được kêu gọi đảm nhận trách nhiệm lớn lao trong việc sống điều mà tôi gọi là một thái độ mới. Đây không chỉ là một quy trình, không chỉ là thay đổi một số cách thức nào đó, hoặc có nhiều cuộc họp hơn trước khi đưa ra quyết định. Nó nhiều hơn thế. Nhưng có lẽ đây là điều gây ra một số khó khăn nào đó vì về cơ bản, trước hết chúng ta phải có khả năng lắng nghe Chúa Thánh Thần, những gì Người yêu cầu Giáo hội.

Làm thế nào để đi đến được điều này?

Chúng ta phải có khả năng lắng nghe lẫn nhau, để nhận ra, đây không phải là thảo luận về một chương trình chính trị hay chỉ đơn giản là cố gắng thúc đẩy vấn đề mà tôi hoặc những người khác quan tâm. Đôi khi có vẻ như chúng ta muốn thu gọn mọi thứ thành việc bỏ phiếu để làm những gì đã được bỏ phiếu. Trái lại, nó nói về một điều gì đó sâu xa hơn và rất khác biệt: chúng ta phải học cách thực sự lắng nghe Chúa Thánh Thần và có một tinh thần tìm kiếm chân lý mà Giáo hội sống trong đó.  Chuyển từ một kinh nghiệm trong đó thẩm quyền nói và mọi thứ được thực hiện, sang một kinh nghiệm Giáo hội xem trọng các đặc sủng, các ơn, các thừa tác vụ hiện diện trong Giáo hội. Thừa tác vụ giám mục thực hiện một công việc quan trọng, nhưng sau đó chúng ta phải đặt tất cả những điều này lại với nhau để phục vụ Giáo hội theo tinh thần hiệp hành, có nghĩa đơn giản là cùng nhau bước đi, tất cả cùng nhau và cùng nhau tìm kiếm những gì Chúa yêu cầu chúng ta trong thời gian này. 

Các vấn đề kinh tế ảnh hưởng đến đời sống của các giám mục ở mức độ nào?

Giám mục cũng phải là một quản trị viên giỏi, hoặc ít nhất có thể tìm được một quản trị viên tốt để giúp đỡ mình. Đức Phanxicô nói với chúng ta, ngài muốn có một Giáo hội nghèo cho người nghèo. Trong một số trường hợp, các cấu trúc và cơ sở hạ tầng trong quá khứ không còn cần thiết và khó bảo trì. Đồng thời, ngay cả ở những nơi tôi đã làm việc, Giáo hội chịu trách nhiệm về các cơ sở giáo dục và y tế cung cấp các dịch vụ cơ bản cho người dân vì Nhà nước thường không đảm bảo cho họ. Cá nhân tôi không nghĩ rằng Giáo hội nên bán tất cả mọi thứ để “chỉ” rao giảng Tin Mừng trên đường phố. Tuy nhiên, đây là trách nhiệm rất lớn và không có những câu trả lời duy nhất. Điều cần thiết là cổ động tốt hơn nữa để giúp đỡ các Giáo hội địa phương trong tinh thần huynh đệ. Đối diện với nhu cầu giữ cho các cơ sở tồn tại với mức thu không còn như trước, giám mục phải rất thực dụng. Các nữ tu dòng kín luôn nói: “Chúng ta phải tin tưởng và phó thác mọi sự cho Chúa Quan phòng, vì chúng ta sẽ tìm ra cách để đối phó”. Điều quan trọng là chúng ta đừng bao giờ quên chiều kích thiêng liêng ơn gọi của chúng ta. Nếu không, chúng ta có nguy cơ trở thành nhà quản trị và suy nghĩ như nhà quản trị; mà đôi khi cũng đã xảy ra như thế.

Cha thấy mối quan hệ giữa giám mục và mạng xã hội như thế nào?

Phương tiện truyền thông xã hội là công cụ quan trọng để truyền bá Tin Mừng và đến được với rất nhiều người. Chúng ta phải chuẩn bị để sử dụng chúng một cách khôn ngoan. Tôi e rằng sự chuẩn bị này đôi khi còn thiếu sót. Đồng thời, thế giới ngày nay luôn thay đổi, đặt ra những tình huống mà chúng ta thực sự phải suy nghĩ rất nhiều trước khi nói hoặc viết câu tweet, trả lời hoặc ngay cả khi đặt câu hỏi dưới hình thức công khai, dưới con mắt của mọi người. Đôi khi có nguy cơ gây chia rẽ và tranh cãi. Việc dùng mạng xã hội, truyền thông một cách đúng đắn mang một trách nhiệm rất lớn, vì đó là cơ hội nhưng cũng là rủi ro. Và điều này có thể gây hại cho sự hiệp thông của Giáo hội. Đó là lý do vì sao chúng ta phải rất cẩn thận trong việc dùng các phương tiện này.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Tổng giám mục trong một lần tiếp kiến với Đức Phanxicô.

Các phó tế của các “vùng ngoại vi” là những người mang hy vọng trong trái tim

Các phó tế của các “vùng ngoại vi” là những người mang hy vọng trong trái tim

Các phó tế vĩnh viễn trong giới lao động và môi trường công nhân gặp nhau từ ngày 29 tháng 4 đến ngày 1 tháng 5 năm 2023 tại Merville, miền bắc nước Pháp để bàn về chủ đề hy vọng, đòn bẩy để biến đổi thế giới. CORINNE SIMON/HANS LUCAS

lavie.fr, Veronique Durand, 2023-04-28

Đây là một bước đi thêm cho phó tế vĩnh viễn Jean-Philippe Tizon của giáo phận Limoges, ông đã lập gia đình và đã là ông nội. Ông sẽ tham gia buổi họp đầu tiên của ông, vì lần cuối buổi họp được tổ chức năm 2013, tại Strasbourg, lúc đó ông chưa là phó tế. Xuất thân từ tổ chức Công giáo Tiến hành Công nhân (Action catholique ouvrière, ACO, một tổ chức ông tham gia từ 40 năm nay, ông luôn đứng về phía những người đấu tranh chống lại bất công. Gần đây, ông vận động chống lại cải cách lương hưu.

Sự biến đổi của trái tim

Ông nói: “Trong những cuộc đấu tranh này, chúng tôi luôn chất vấn về phẩm giá con người”, trong một xã hội đặc biệt đau khổ và khốn khổ, sự hiện diện của các chiến binh của Công giáo Tiến hành Công nhân, sự lắng nghe và lời khuyên của họ là rất quan trọng. Ông kê ra các sự kiện: “Trong 10 năm, đã có những biến động liên quan đến Covid và những thay đổi chính trị quan trọng. Sự bấp bênh và khó khăn trong công việc gia tăng, sự khốn khổ về kinh tế và văn hóa bắt đầu, cũng như chúng ta đã thấy tình cảnh hoang vắng của ngành y tế.”

Vì thế, ông xác tín “sự biến đổi của xã hội sẽ phải đi qua con đường biến đổi của trái tim. Với lời này, chúng tôi lên đường”. Dù phải ở trong bối cảnh này, ông thấy có những dấu hiệu đáng khích lệ. Ông nhắc lại, hy vọng “là một nhân đức đối thần”, sẽ là tâm điểm của cuộc gặp dự kiến có 60 phó tế vĩnh viễn cùng với các bà vợ của họ.

Nước Pháp có 200 phó tế vĩnh viễn, Công chứng của họ sẽ được viết trong buổi họp: “Cuộc họp giúp chúng ta suy nghĩ về các chủ đề khác nhau (tương lai của Giáo hội, sứ mệnh, các vùng ngoại vi, chất vấn với chức phó tế, vợ của các phó tế, sự công nhận…) và phát triển hành trình cho những năm tới bằng cách thúc đẩy thế giới lao động và trong các môi trường bình dân.”

“Một sứ mệnh đẹp đẽ nhưng khó khăn”

Trong lĩnh vực này, ông nhận xét: “Lời của Chúa Kitô chất vấn những người ở rất xa Giáo hội. Các nhà hoạt động thường hỏi tôi: ‘Thượng đế của bạn nói gì về điều đó?’ Tôi cảm thấy đây là một chất vấn thiêng liêng và là một cuộc đi tìm ý nghĩa và sự chân thành, sự chân thành này làm cho chúng ta có thể đặt câu hỏi và tranh luận.” Là môn đệ trung kiên của Chúa Kitô Phục Sinh mang trách nhiệm loan báo Tin Mừng của Ngài, ông hân hoan làm chứng cho đức tin của mình: “Chúng ta ở nơi nối kết của thế giới trần tục và thế giới tôn giáo. Vùng ngoại vi là công việc của tôi!” Trong giáo phận của ông, ông là thành viên của nhóm huynh đệ phó tế và cùng với các bạn phó tế, ông “cố gắng sống hiệp nhất trong đa dạng, nhưng không đồng nhất”.

Buổi họp mặt ở Merville cũng sẽ là buổi họp đầu tiên của phó tế Philippe Ladon, 70 tuổi, cựu kỹ sư xây dựng, người đồng hành với phong trào Thanh niên Công nhân Công giáo (JOC) vừa được phong phó tế vĩnh viễn cách đây ba năm. Ông rất vui khi được gặp các “đồng nghiệp phó tế” từ khắp nước Pháp với những kinh nghiệm sống khác nhau của họ: “Tôi sẽ nghe cách họ phát triển và hành động. Sứ mệnh của chúng ta đẹp nhưng khó khăn, và chúng ta cần có khả năng làm chứng cho sứ mệnh đó trong Giáo hội và trong xã hội.”

Được cử đi truyền giáo đến quận nổi tiếng nhất trong thành phố của mình, ông là thành viên của Đại học Nhân dân và Công dân Roubaix. Ông đang làm một công trình với người dân để chỉnh trang khu phố của họ. Ông là nhân chứng: họ có “của cải và chuyên môn của người dân” và đáng được tôn trọng. Thông qua chức vụ của ông, ông giúp mọi người biết thêm điều này: “Họ có giá trị trong mắt Giáo hội.”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Charles III: Vua của những việc tốt lành

Charles III: Vua của những việc tốt lành

Từ nửa thế kỷ nay, tân vương Charles III, người sẽ lên ngôi vào ngày 6 tháng 5 đã dấn thân trong các công việc xã hội. Một cam kết gần với trái tim của ông.

lepelerin.com, Jean-Michel Demetz, 2023-05-03

Quỹ Tín dụng Hoàng tử (Prince’s Trust) của vua Charles đã giúp gần một triệu người và 125.000 doanh nhân. Hình ảnh vua Charles với các thành viên của hội Big Kid. © Chris Jackson-Wpa Pool/Getty Image

Họ là những người ngạc nhiên nhất. Trong số những người trong các gia đình hoàng gia, những người đứng đầu nhà nước và chính phủ, những người ngang hàng của vương quốc được mời đến Tu viện Westminster, London ngày 6 tháng 5 để dự lễ đăng quang vua Charles III, những vị khách này sẽ là những người đặc biệt. Hoàng gia đã gởi  2.000 thiệp mời dự lễ đăng quang, trong đó có 850 thiệp được gởi đến đại diện các Quỹ và tổ chức từ thiện. Một khác biệt so với truyền thống mà tân vương mong muốn, và đó là dấu hiệu ghi nhận sự quan tâm của hoàng gia với các công việc xã hội.

Tân vương Charles, hoàng tử của những việc làm từ thiện, lịch sử đã có gần nửa thế kỷ.

Tất cả bắt đầu vào năm 1976, giữa cuộc khủng hoảng kinh tế, vương quốc của nữ hoàng Elizabeth phải đối diện với tình trạng thất nghiệp hàng loạt, đặc biệt ảnh hưởng đến các người trẻ. Hoàng tử Charles vừa rời Hải quân Hoàng gia. Ông quyết định dùng tiền thưởng khi rời quân đội (7.400 bảng Anh) để giúp các dự án: câu lạc bộ câu cá do các cựu tù nhân điều hành, xưởng sửa chữa xe đạp, đào tạo các nhân viên cứu cấp… Ý tưởng nhất thời của một hoàng tử bị kẹt trong giáo dục thời Victoria, với giọng nói và y phục lỗi thời của một chủ nghĩa hình thức gần như điên cuồng, trước cái nhìn của mọi người trong hàng ngũ của ông chăng?

Ngược với mọi mong chờ, Quỹ Prince’s Trust tiếp tục phát triển. Mục tiêu rất đơn giản: giúp những người từ 16 đến 30 tuổi không được học hành, không có việc làm, không được đào tạo để họ tìm cho họ một con đường, cho họ một cơ hội thứ hai. Gần 50 năm sau, kết quả thật ấn tượng: một triệu thanh niên được tái hòa nhập, 125.000 người khởi nghiệp được hỗ trợ.

Một xác tín thiết thân

Năm 2016, nhân kỷ niệm 40 năm thành lập Quỹ Prince’s Trust, hoàng tử Charles liệt kê các công việc đã được thực hiện: “Tôi rất hãnh diện khi thấy ba phần tư số thanh niên được Quỹ hỗ trợ đã tìm được việc làm, tham gia vào một chương trình giáo dục hoặc được đào tạo.”

Không thể phủ nhận sự cam kết cá nhân của ông. Các chuyến thăm tới những khu dân cư khó khăn, xây dựng các thị trấn mới trên quy mô nhân bản ở vùng đất Cornish được làm trong tinh thần quan tâm đến sự đa dạng xã hội, quan tâm đến hệ sinh thái, đã tạo nên rất nhiều rạn nứt từ lâu, vì bị cho là “gây sốc” ở Cung điện Buckingham, nơi có truyền thống làm từ thiện của gia đình hoàng gia đáp ứng nhiều hơn với mối quan tâm đến những người tự thoát ra khỏi hoàn cảnh của mình, hơn là giúp đỡ những người bị bỏ rơi.

Chắc chắn yếu tố cá nhân đóng một vai trò quan trọng trong cam kết này. Một tuổi thơ bị cô lập và ít hạnh phúc, cảm nhận mình không được hiểu, một số phận từ lâu tóm tắt trong mong chờ bệnh hoạn, chờ cho đến khi mẹ qua đời, ở mọi khía cạnh, cuộc đời của hoàng tử thiếu viễn cảnh của một tuổi trẻ không có tương lai.

Khi vinh danh quyết tâm Quỹ của ông nhằm giúp các thanh niên nam nữ trẻ “có thể có được tự tin và tin tưởng tuyệt đối mình sẽ làm được một cái gì sau này”, có phải  ông muốn điều này cho chính ông không?, theo bà Catherine Mayer, người viết tiểu sử của ông, bà tóm tắt điều này, “khi học để cống hiến cho người khác, ông đã tìm thấy hướng đi của mình”.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Lễ đăng quang của vua Charles III: nghi lễ tôn giáo giữa truyền thống và hiện đại

Đức Phanxicô gặp Trưởng Giáo chủ chính thống giáo Antôn

Đức Phanxicô gặp Trưởng Giáo chủ chính thống giáo Antôn

cath.ch, I.Media, 2023-05-03

Hai nhân vật bắt tay nhau rất lâu và cuộc trao đổi giữa họ kéo dài cả phút – một chuyện hiếm thấy | © Vatican News

Vào cuối buổi tiếp kiến chung ngày thứ tư 3 tháng 5 tại Quảng trường Thánh Phêrô, Trưởng Giáo chủ Antôn của Volokolamsk, Chủ tịch Ủy ban Quan hệ Đối ngoại của Tòa Thượng phụ Matxcova đã công khai đến chào Đức Phanxicô. Trong chuyến tông du Hungary, ngày thứ bảy 29 tháng 4, Đức Phanxicô đã tiếp Trưởng Giáo chủ Hilarion, người tiền nhiệm của Trưởng Giáo chủ Antôn.

Cuộc gặp bất thường, đánh dấu quyết tâm của Tòa Thượng Phụ Mátxcova trong việc thể hiện thiện chí với Rôma. Theo thông lệ hàng tuần, vào cuối bài giáo lý, Đức Phanxicô chào một vài nhân vật đến tham dự buổi tiếp kiến chung này. Trong hầu hết các trường hợp, đó là các hồng y, các giám mục công giáo có mặt vài ngày khi họ đến Rôma.

Sáng nay, người đầu tiên đến chào Đức Phanxicô là Trưởng Giáo chủ Antôn, người đứng đầu bộ phận ngoại giao của Tòa Thượng phụ Matxcova. Ngài đã hôn cây thánh giá Trưởng Giáo chủ mang trước ngực như ngài vẫn làm khi gặp đại diện chính thống giáo, một dấu chỉ nói lên biểu tượng của tình bạn trong Chúa Kitô.

Hai người bắt tay nhau rất lâu và cuộc trao đổi của họ kéo dài cả phút – một chuyện hiếm thấy. Trước khi rời đi, Trưởng Giáo chủ đã tặng Đức Phanxicô thánh giá chính thống giáo, huy chương cao quý với một biểu tượng ở giữa. Sau đó, Đức Phanxicô tặng Trưởng Giáo chủ huy hiệu của triều giáo hoàng. Và Trưởng Giáo chủ rời đi với một nụ cười.

Trưởng Giáo chủ đến Rôma ngày thứ hai. Ngày thứ ba ngài gặp tân tổng trưởng Claudio Gugerotti, thánh bộ các Giáo hội Đông phương. Hôm qua tòa thượng phụ Matxcova cho biết: “Với sự chúc phúc của Thượng phụ Kyrill của Matxcova và toàn nước Nga… chủ tịch Ủy ban  Đối ngoại đã đến Ý trong một chuyến thăm và làm việc ngắn ngày.” 

Quyết tâm xích lại gần nhau

Cuộc gặp gỡ này cho thấy mong muốn của Rôma và Mátxcova về việc nối lại quan hệ hữu nghị, khi cuộc chiến ở Ukraine đã làm căng thẳng mối quan hệ giữa hai Giáo hội. Mùa xuân năm 2022, một loạt chỉ trích đã làm tổn thương mối quan hệ giữa hai Giáo hội, nhất là khi Đức Phanxicô cảnh báo thượng phụ Kyrill không được trở thành “giáo sĩ nhà nước” cho tổng thống Putin.

Ngày thứ bảy 29 tháng Tư, tại Budapest, Đức Phanxicô đã nói chuyện với Trưởng Giáo chủ Hilarion ở thủ đô Budapest. Cuộc gặp này không có trong chương trình chính thức. Tháng 6 năm 2022, Trưởng Giáo chủ Hilarion đã bị giáng chức ở Budapest.

Ngày chúa nhật, trên máy bay từ Budapest về Rôma, Đức Phanxicô cho biết việc duy trì quan hệ với chính thống giáo Nga là điều “cần thiết”. Khi nhiều người chỉ trích thái độ của tòa thượng phụ Matxcova đã biện minh cho cuộc xâm lược Ukraine, Đức Phanxicô nói: “Chúng ta phải dang tay ra với tất cả mọi người.”

Còn với thượng phụ Kyrill, Đức Phanxicô cho biết ngài chỉ nói chuyện với ông một lần kể từ khi bắt đầu chiến tranh. Ngài nhắc lại , một cuộc họp được dự định ở Giêrusalem đã bị đình chỉ vào tháng 6 năm ngoái, nhưng ngài cho biết điều này “sẽ phải xảy ra”.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Hình ảnh cuộc gặp giữa Đức Phanxicô và Trưởng Giáo chủ Antôn trong buổi tiếp kiến chung ngày thứ tư 3 tháng 5-2023.

Lễ đăng quang của vua Charles III: nghi lễ tôn giáo giữa truyền thống và hiện đại

Lễ đăng quang của vua Charles III: nghi lễ tôn giáo giữa truyền thống và hiện đại

Lễ đăng quang của vua Charles III sẽ cử hành ngày thứ bảy 6 tháng 5 tại Tu viện Westminster, London. Nghi thức đăng quang công bố ngày 29 tháng 4 là nghi thức dựa trên các truyền thống có từ hàng thế kỷ nay nhưng cũng mang nét đa dạng của xã hội Vương quốc Anh hiện đại.

la-croix.com, Alice d’Oleon, 2023-05-03

Tổng giám mục Canterbury, Justin Welby sẽ cử hành lễ đăng quang vua Charles III. Hình tổng giám mục Welby ngày 20 tháng 4 năm 2023 tại London. DANIEL LEAL / AFP

Vua Charles III là người đại diện cho mọi tín ngưỡng chứ không phải chỉ tín ngưỡng anh giáo sẽ lên ngôi vua và với chức vị này ông sẽ là nhà cầm quyền tối cao của của Giáo hội anh giáo ngày thứ bảy 6 tháng Năm. Nghi thức đăng quang đã được công bố tại Cung điện Lambeth, dinh thự ở Luân Đôn của tổng giám mục Canterbury, Justin Welby.

Nghi thức truyền thống sẽ được tôn trọng, nhưng nhà vua muốn buổi lễ nói lên tinh thần cam kết của ông với sự cởi mở và đặc biệt là với các tôn giáo khác nên đã có một số sửa đổi.

Đại diện tất cả các tín ngưỡng

Và vì thế đây là lần đầu tiên sẽ có đại diện các tôn giáo do thái giáo, hồi giáo, sikh, phật giáo, ấn giáo, jain, baha’i và zôrôastrô tham dự lễ đăng quang. Bản phụng vụ giải thích, trước khi vua Charles tuyên thệ nhậm chức, tổng giám mục Justin Welby sẽ có lời phát biểu về những truyền thống đức tin khác nhau này, ngài lưu ý anh giáo sẽ “tìm cách tạo môi trường trong đó mọi người thuộc mọi tín ngưỡng có thể sống tự do bên nhau”.

Những lời này lặp lại lời của nữ hoàng Elizabeth II, năm 2012, bà tuyên bố: “Vai trò của Giáo hội chúng ta không phải là bảo vệ anh giáo bằng cách loại trừ các tôn giáo khác. Ngược lại, Giáo hội có nhiệm vụ bảo vệ quyền tự do giữ đạo của tất cả các tôn giáo trên đất nước chúng ta.”

Trong số những bổ sung sáng tạo, tân vương sẽ đọc lời cầu nguyện được viết riêng cho ông, trích từ Kinh thánh (kể cả thư Thánh Phaolô gởi tín hữu Ga-lát, 5). Tổng giáo phận cho biết, phá vỡ sự dè dặt thường lệ của Hoàng gia Anh, đây là lần đầu tiên một tân vương công khai đọc lời cầu nguyện cá nhân. Các chủ đề về lòng bác ái và cởi mở với mọi tín ngưỡng một lần nữa được nhắc lại.

Vua, là người tôi tớ Chúa

Kế đó là giây phút được cho là long trọng nhất buổi lễ: xức dầu cho nhà vua, ông trở thành người tôi tớ của Chúa. Dầu dùng để xức là dầu trên Núi Ô liu, không xa nơi chôn cất công chúa Alice Hy Lạp, người bà của vua Charles, bà đã trở lại chính thống giáo năm 1920.

Con trai của bà là hoàng thân Philip được rửa tội theo đức tin chính thống giáo hy lạp và đã trở lại anh giáo để có thể kết hôn với nữ hoàng Elizabeth II tương lai. Để nhấn mạnh mối liên kết hợp nhất giữa hai nhánh kitô giáo này, dầu thánh đã được thượng phụ chính thống giáo hy lạp Theophilus III và tổng giám mục anh giáo của Giêrusalem, Hosam Naoum làm phép vào đầu tháng 3.

“Vinh danh dân tộc”

Nghi thức xức dầu tân vương sẽ diễn ra ở nơi khuất tầm nhìn, đằng sau tấm màn vải giăng quanh nhà vua để tôn trọng sự linh thiêng của nghi thức. Dầu thánh – được đựng trong chiếc bình hình đại bàng có niên đại từ lễ đăng quang của vua Charles II năm 1661 – sẽ được đổ lên đầu, tay và ngực của tân vương.

Dầu cho lễ đăng quang của vua Charles III được làm phép ở Giêrusalem

Theo một cách chưa từng có, “sự kính trọng của những người ngang hàng” ngày xưa đã được một số thành viên hoàng gia từ lâu giữ truyền thống, bây giờ sẽ được thay thế bằng “sự kính trọng người dân”, những người sẽ được tổng giám mục mời để cam kết trung thành với tân vương. Một khác biệt đáng chú ý khác với các lễ đăng quang trước đây, một số nữ giám mục sẽ tham dự chung vào buổi lễ. Cuối cùng, buổi lễ sẽ kết thúc với lời đồng thanh chào mừng của tất cả đại diện các tôn giáo được mời trong buổi lễ này.

Ngày thứ bảy 29 tháng 4, tổng giám mục Canterbury tuyên bố: “Tôi rất vui vì buổi lễ này tôn vinh truyền thống lịch sử vĩ đại, phong tục của quốc gia chúng ta và tất cả những người đi trước. Tôi cũng rất vui khi thấy những yếu tố mới phản ánh sự đa dạng của xã hội hiện tại của chúng ta.”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Charles III: Vua của những việc tốt lành

Đức Phanxicô tặng vua Charles III hai mảnh của Thánh giá thật

Bài mới nhất