Home Blog Page 319

Xin cám ơn các linh mục

Xin cám ơn các linh mục

Đức Phanxicô hôn tay một tân linh mục trong thánh lễ ngày 7 tháng 5 năm 2017

Nhân Ngày Ơn gọi, bà Bénédicte Delelis, giáo sư tại Viện Bernardins, Pháp tác giả quyển “Chúa đi rất gần chúng ta” (Dieu passe tout près de nous, nxb. Emmanuel) viết bài xã luận cám ơn các linh mục, qua họ chúng ta có Chúa Giêsu và nhắc họ, họ không đơn độc gánh chịu những đau khổ mà Giáo hội đang trải qua.

famillechretienne.fr, Bénédicte Delelis, 2023-05-07

Thật phiêu lưu khi nói một lời với các linh mục, khi để tất cả họ vào một nơi và không rõ ràng. Vì có những linh mục thành phố, linh mục nông thôn, linh mục vừa rời khỏi chủng viện còn sợ hãi hoặc nghĩ mình đã đủ khôn ngoan, những linh mục lớn tuổi kiệt sức, nghĩ mình chẳng biết gì hoặc đã mất tất cả.

Có những người cảm thấy quá thoải mái khi ngủ trên chiếu, có người có phòng khách thời vua Lu-i XV, có người mặc áo sang trọng polo, có người mặc áo giáo sĩ, áo chùng, có người hát tiếng do thái, tiếng la-tinh, có người lần chuỗi, có người thuộc lòng các bài thánh vịnh. Có người thoải mái với người trẻ, có người biết cách nắm tay người sắp qua đời, có người dạy học, có người đỏ mặt khi phải nói một câu dài. Có người thích thể thao, có người hoạt bát, có người khổ hạnh, có người biết cách mừng lễ, có người biết khóc với người khóc.

Một đấu tranh khó khăn hàng ngày

Có linh mục đơn độc, linh mục cộng đoàn, có linh mục dành thì giờ để phục vụ, có linh mục kiệt sức vì gánh nặng đè trên vai. Có linh mục cho rằng độc thân là đấu tranh gay go mỗi ngày, có người cho rằng đức khiết tịnh là thử thách đẫm máu, có người cho nhận đức khiết tịnh cách bình yên, với họ, đó là nơi của ân sủng và tự do. Có người xem cầu nguyện là cần thiết và bao la như không khí để thở, có người thì khó cầu nguyện. Có người có gia đình chung quanh, có người không có. Có những linh mục bị bệnh. Có những linh mục nghèo.

Đíng, thật phiêu lưu khi nói chuyện với tất cả họ cùng một lúc, ở một nơi. Tuy nhiên, thỉnh thoảng, với trái tim rộng mở, chúng tôi muốn nói với họ: xin cám ơn các linh mục! Ồ, chúng ta không nói lời cám ơn các linh mục như thể họ là những người cuối cùng nâng đỡ Giáo hội bằng đôi tay khó nghèo của họ, lại càng không thể xem họ là những người phi thường hoặc đã là thánh: vì như vậy là không hiểu họ và không yêu thương họ. Nhưng với lòng biết ơn, chúng ta tạ ơn, vì qua bàn tay bất xứng của họ, bàn tay thánh hiến của họ, Chúa Kitô hằng sống có thể đến với chúng ta. Chúng ta không thể quen với phép lạ này… Chúng ta cám ơn vì nhờ lời nói của họ, chúng ta có thể đứng dậy, thoát khỏi tội lỗi của mình.

Cùng với họ, chúng ta là Giáo hội

Chúng tôi cũng muốn nói với họ, họ không đơn độc: cùng với họ, chúng ta là Giáo hội, chúng ta cùng mang với họ các gánh nặng, các đau khổ, các xấu hổ của họ, cùng với họ, chúng ta cảm thấy có trách nhiệm với sứ mệnh, với công việc từ thiện, với cầu nguyện. Chúng ta không sợ số lượng nhỏ của họ. Chúng ta tin tưởng, từ đàn chiên nhỏ bé này, từ con người còn sót lại nhỏ bé này, Thiên Chúa sẽ tiếp tục công trình Cứu Độ của Ngài cho muôn vàn người. Chúng ta không sợ sự yếu đuối của họ, vì chúng ta cũng yếu đuối, và chúng ta sẵn sàng mang theo những yếu đuối này để Chúa Kitô đổ đầy sức mạnh của Ngài lên họ. Chúng ta không ngại khổ đau cùng với họ để Tin Mừng được loan báo. Và cùng với họ, chúng ta vui mừng vì lý do vui mừng vô tận của Giáo Hội kể từ buổi sáng Phục Sinh: Lòng Thương Xót không mệt mỏi của Chúa Kitô Phục Sinh.

Chúng ta thường nghe, các linh mục Pháp bị thử thách đau khổ. Chắc chắn có nhiều linh mục hạnh phúc, nhưng cũng có một số bị thử thách đau khổ. Chính với họ, mà “lời cám ơn” của dân Chúa, những giáo dân gặt hái vô số ân sủng từ những thử thách thầm kín, những đấu tranh của họ, lòng trung thành của họ, ngay cả khi không hoàn hảo. Đúng, làm sao không cảm ơn tất cả với lòng yêu mến và biết ơn, tất cả các linh mục, những người qua họ mà chúng ta có Chúa Giêsu?

Marta An Nguyễn dịch

Đại sứ Andrii Yurash: “Nếu Đức Phanxicô muốn đi Ukraine, chúng tôi sẵn sàng cho ngài ngày mai”

Đại sứ Andrii Yurash: “Nếu Đức Phanxicô muốn đi Ukraine, chúng tôi sẵn sàng cho ngài ngày mai”

vidanuevadigital.com, Rodrigo Moreno Quicios, 2023-05-07

Phỏng vấn ông Andrii Yurash, đại sứ Ukraine tại Tòa thánh, ông tìm trung gian của Vatican để có được hòa bình cho đất nước ông.

Ông Andrii Yurash là đại sứ Ukraine tại Tòa thánh. Ông đến Rôma chỉ một thời gian ngắn trước khi đất nước ông lâm vào cảnh chiến tranh, ông đi tìm hòa giải từ Vatican để có được hòa bình, điều mà ông xem là “sứ mệnh” chứ không chỉ là một công việc.

Ông đánh giá công việc ngoại giao của ông ở Rôma như thế nào?

Đại sứ Andrii Yurash: Đó là một năm rất khó khăn với cá nhân tôi. Mỗi ngày tôi đều nghĩ đến tình hình đất nước tôi, về mọi chuyện đang diễn ra như thế nào, điều này không dễ dàng chút nào. Chắc chắn đó là năm khó khăn nhất khi chúng tôi giành được độc lập. Chúng tôi có những thách thức rất phức tạp: phải làm gì với chiến tranh, ở biên giới với kẻ thù xâm lược… Nhưng mặt khác, tôi rất hài lòng và tự hào về đất nước, con người và dân tộc của tôi.

Vì Ukraine đã cho thấy, họ có thể bảo vệ nền độc lập của mình và chúng tôi có thể tự tổ chức. Đã có những dự đoán rất gay cấn về cuộc chiến. Hầu hết các chuyên gia và chính trị gia đều cho rằng Ukraine chỉ còn ba hoặc bốn ngày tồn tại sau khi bắt đầu cuộc xâm lược, nhưng hơn một năm đã trôi qua và chúng tôi không trở nên yếu đi mà còn mạnh hơn rất nhiều.

Đúng là đến tháng thứ hai thứ ba, chủ yếu chúng tôi đơn độc trước kẻ xâm lăng, nhưng sau đó mọi người mới hiểu, chúng tôi có đủ tinh thần và nội lực để chống giặc. Sau khi hiểu rõ điều đó, Ukraine đã nhận được sự hỗ trợ từ nhiều quốc gia giúp chúng tôi thực hiện trong khả năng chúng tôi.

Sau nhiều mất mát trong những ngày đầu, đặc biệt là ở phía nam và phía đông đất nước, vào tháng 9, Ukraine đã có thể chiếm lại gần như toàn bộ khu vực Kharkov, sau đó chúng tôi đã có thể kiểm soát thành phố Kherson, thành phố duy nhất bị người Nga chiếm đóng. Đó là kết quả tốt đẹp trong năm đầu tiên giành lại lãnh thổ và tôi hy vọng trong tương lai gần Ukraine sẽ giải phóng mọi nơi để người dân chúng tôi về lại nhà. Chúng tôi có thể xem xét bất kỳ hình thức thương thuyết nào và có được các điều kiện an ninh tuyệt đối cho sự phát triển trong tương lai và xây dựng lại đất nước cũng như cho nền kinh tế của chúng tôi.

Ông có nhận thấy sự hỗ trợ của các nước châu Âu khác không? Một năm sau cuộc xâm lược, chúng tôi thấy lá cờ Ukraine trên mặt tiền của nhiều sứ quán khác nhau tại Tòa thánh…

Đúng rồi! Đây không phải là hình thức, mà là một biểu hiện thực sự của sự ủng hộ và đoàn kết. Rất nhiều quốc gia châu Âu và ngoài châu Âu đã bày tỏ sự ủng hộ của họ với Ukraine ngay từ ngày đầu tiên chúng tôi bị xâm lược. Họ treo cờ Ukraine trên cửa sổ hoặc trong các sứ quán. Nhưng đặc biệt quan trọng ở Rôma vì trên con đường có sứ quán Slovenia và Croatia cũng có sứ quán Nga.

Cũng vậy, các sứ quán Canada hay Đài Loan luôn có biểu tượng Ukraine trên cửa sổ của họ. Và nhờ đó, cờ Ukraine đã rất gần với cờ Nga. Đó là một hành vi rõ ràng cho thấy Slovenia nói riêng và ông Jakob Štunf, đại sứ xuất sắc của họ rất thân thiết với đất nước tôi. Đó cũng là dấu hiệu rõ cho người Nga, ở đây gần Quảng trường Thánh Phêrô, nơi cả thế giới ở gần chúng tôi và thể hiện sự gần gũi này qua nhiều cách.

Gần đây ông có nói về càc em bé Ukraine bị trục xuất sang Nga và các em đang bị tẩy não ở đó. Điều gì làm cho ông lo lắng nhất cho các em?

Đó là một trong những mối quan tâm lớn nhất của chính phủ nước tôi. Tổng thống Volodimir Zelensky đã bày tỏ nỗi lo này nhiều lần. Hơn 700.000 trẻ em Ukraine đã bị trục xuất sang lãnh thổ Nga theo nhiều cách khác nhau. Một số đi với gia đình các em, nhưng các em khác bị bắt cóc trực tiếp và hiện đang ở trong các trại đặc biệt để cải tạo.

Ukraine muốn nhận lại tất cả các em này và chúng tôi đang xin tất cả các tổ chức quốc tế, tất cả các đối tác của chúng tôi và tất cả các quốc gia mà chúng tôi có liên hệ giúp đỡ. Trẻ em là tương lai của bất kỳ quốc gia nào và trẻ em của chúng tôi là tương lai của chúng tôi. Chúng tôi muốn mang tương lai của mình trở lại vì chúng tôi chắc chắn rằng sau chiến thắng, chúng tôi sẽ cần sức mạnh và trí tuệ của các em để xây dựng lại đất nước chúng tôi.

Chúng tôi hiện đang xin Tòa thánh tham gia tích cực nhất có thể vào bất kỳ cuộc trao đổi tù nhân nào. Tôi biết tất cả các yêu cầu của Ukraine đã được thông qua Tòa thánh để đến phía Nga và chúng tôi hy vọng Nga sẽ có thể lắng nghe yêu cầu này từ một trong những tổ chức quốc tế có thẩm quyền nhất để hàng triệu người Ukraine bị bắt bằng vũ lực có thể trở về nhà.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Thủ tướng Ukraine xin Đức Phanxicô giúp giải cứu trẻ em Ukraine bị Nga bắt

Điều thuyết phục tôi, chúng ta cần nhiều phụ nữ lãnh đạo hơn ở Vatican

Điều thuyết phục tôi, chúng ta cần nhiều phụ nữ lãnh đạo hơn ở Vatican

americamagazine.org, Jill Rice, 2023-05-05

Các nhà lãnh đạo nữ là thành viên của phái đoàn đến Rôma với Công giáo mở rộng (Catholic Extension) trong cuộc họp báo tại Vatican ngày 27 tháng 4 năm 2023. Ảnh từ trái sang phải là: Melva Arbelo; Nữ tu Carol Keehan, Nữ tử Bác ái; Nữ tu Teresian Clarice Suchy; Nữ tu Norma Pimentel, Dòng Thừa Sai Chúa Giêsu; Nữ Tu Fatima Santiago, Dòng Thừa Sai Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ; Nữ tu Marie-Paule Willem, dòng Phanxicô Thừa sai Đức Mẹ; và Jean Fedigan. (Ảnh CNS/Carol Glatz)

Nếu đặt cho tôi tất cả các câu hỏi liên quan đến Giáo hội và chính trị, tôi sẽ mắc lỗi khi đứng về phía chủ nghĩa truyền thống, chủ nghĩa bảo thủ… bất cứ điều gì bạn muốn cho chúng một cái tên. Tôi luôn là người tuân theo quy tắc: tôi thích mặc đồng phục khi đi học ở các trường công giáo dành cho nữ sinh, tôi cảm thấy khó chịu khi linh mục đọc sai một số lời cầu nguyện trong thánh lễ. Thậm chí tôi còn thích thánh lễ la-tinh, ít nhất là trong vài lần tôi tham dự.

Vậy mà chỉ sau một thời gian ngắn làm việc ở trang America, tôi ngạc nhiên khi ý thức: Giáo hội cần nhiều phụ nữ “hơn” trong hệ thống phân cấp ở Vatican và các quy trình ra quyết định.

Thêm nữa, tôi thường không phải là người kêu gọi có những thay đổi lớn hoặc ủng hộ những ý tưởng cấp tiến. Tôi đã nghĩ, nếu Giáo hội đã hoạt động theo cách này trong 2.000 năm, bây giờ chúng ta là ai mà thay đổi Giáo hội?

Tôi thường không phải là người kêu gọi có những thay đổi lớn hoặc ủng hộ những ý tưởng cấp tiến. Tôi đã nghĩ, nếu Giáo hội đã hoạt động theo cách này trong 2.000 năm, bây giờ chúng ta là ai mà thay đổi Giáo hội? Nhưng tôi lại làm việc trong một cơ quan mà hầu hết là nam giới, và lần đầu tiên tôi nhận ra mình là thiểu số. (America Media có nhiều nhân viên nữ và giáo dân hơn so với 10 năm trước. Nhưng nam giới vẫn nhiều hơn nữ giới.) Nhưng chỉ mới vài tháng trước, các môi trường tôn giáo tôi từng đến, hầu hết hoặc toàn bộ là nữ giới. Các nhà chức trách tôn giáo mà tôi biết (ngoài linh mục giáo xứ của tôi) đều là phụ nữ, và từ những gì tôi thấy, họ không bao giờ cảm thấy cần phải có sự công nhận của nam giới đối với các quyết định của họ.

Tôi theo học ở một trường công giáo nhỏ dành cho nữ sinh từ lớp bốn đến lớp tám, sau đó tôi theo học một trường trung học công giáo dành cho nữ sinh. Sinh viên trường đại học của tôi đa số là nữ giới (gần 60%), và chương trình nghiên cứu công giáo tôi tham gia lại còn có đa số phụ nữ nhiều hơn. Vì thế hầu hết các cuộc nói chuyện về tôn giáo tôi tham dự với các nhà lãnh đạo, đồng nghiệp hoặc với gia đình, đều được phụ nữ khởi xướng, họ không ngại bày tỏ suy nghĩ của họ về giáo lý nhà thờ hoặc bất cứ điều gì khác.

Tôi chưa bao giờ thực sự xem trọng vai trò phụ nữ ở Vatican. Trong đầu tôi, thẩm quyền mà sơ Mary Thomas, hoặc các giáo viên giáo dân của tôi có đằng sau cổng trường đã mở rộng đến Giáo hội rộng lớn hơn. Ai dám nói với sơ Mary Thomas là ý kiến của sơ không được đón nhận về bất cứ vấn đề nào trong việc quản trị Giáo hội?

Phụ nữ có thể đặt vấn đề về hiện trạng và phần đóng góp của họ từ quan điểm của một người ở bên ngoài.

Giờ đây, với tư cách là phụ nữ, tôi thuộc nhóm thiểu số ở trang America, nhưng tôi đang làm việc ở môi trường tôn giáo mà tôi rất quen thuộc. Tôi lấy làm lạ, mặc dù việc phụ nữ đi làm ở các nơi khác trên thế giới có thể có những kinh nghiệm cuộc sống khác biệt và có lẽ không được các nam đồng nghiệp hiểu cách hoàn toàn, với tôi đó là điều bình thường.

Một số ví dụ: Tôi sẽ tránh đi một mình đến cửa hàng hồi giáo halal trước căn hộ của tôi sau 9 giờ tối (người đàn ông làm việc ở đó hơi quá thân thiện với phụ nữ trong tòa nhà của tôi). Tôi sẽ không nghĩ đến việc đi dạo khi trời tối, tôi cũng không yên tâm khi để cô bạn của tôi về nhà một mình lúc đêm khuya. Một số cô bạn của tôi cho tôi là người bạn mà như người mẹ: bảo vệ quá mức và có trách nhiệm với người khác. Nhưng thực tế, là phụ nữ, tôi phản ứng trước các vấn đề an toàn cá nhân theo cách khác với nam giới.

Điều này có liên quan gì đến việc điều hành Giáo hội không? Dù ai cũng có thể chăm sóc những người dễ bị tổn thương, nhưng đơn giản là phụ nữ nhạy cảm hơn với các vấn đề an toàn. Với cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục luôn hiện diện trong tâm trí của giáo dân, phụ nữ là người thường nhận thức rõ hơn, đấu tranh và ở bên cạnh những người cần được bảo vệ, có thể phụ nữ có thể đặt vấn đề về hiện trạng và phần đóng góp của họ từ quan điểm của một người ở bên ngoài.

Các phụ nữ như sơ Nathalie Becquart, thứ trưởng dưới quyền đầu tiên của Thượng Hội đồng Giám mục có chiều sâu và kinh nghiệm để làm công việc của sơ mà không cần được chịu chức. Đây không phải chỉ để đa dạng: các phụ nữ ở chức vụ này vì kỹ năng và kiến thức của họ. Và bây giờ phụ nữ được phép bỏ phiếu trong thượng hội đồng, tôi hy vọng kinh nghiệm sống của họ sẽ ảnh hưởng đến kết quả và các tài liệu của thượng hội đồng.

Nữ tu Nathalie Becquart người Pháp trong danh sách 100 phụ nữ ảnh hưởng nhất thế giới

Kinh nghiệm của tôi với rất nhiều nữ lãnh đạo trong các môi trường tôn giáo lẽ ra phải làm cho tôi luôn ủng hộ việc đề cao phụ nữ ở Vatican. Tôi là người đầu tiên biết sức mạnh của họ khi họ ở bàn quyết định. Từ lãnh đạo các trường học đến giám đốc giáo dục tôn giáo, quản lý giáo xứ tại rất nhiều nhà thờ, họ có quá nhiều kinh nghiệm. Phụ nữ là những nhà lãnh đạo học thuật và kinh doanh, viện trưởng các trường đại học công giáo và nhiều tổ chức phi lợi nhuận công giáo khác. Đúng ra họ đã ở trong thành phần lãnh đạo Giáo hội rồi.

Thượng Hội đồng Giám mục đã đưa ra, tương lai Giáo hội không chỉ phụ thuộc vào các linh mục hay giám mục mà còn tùy thuộc vào giáo dân hơn bao giờ hết và đặc biệt là phụ nữ. Và điều đó bắt đầu với một thái độ mới, nhất là từ những người trong chúng ta, kể cả tôi, những người đôi khi ngoan cố chống lại thay đổi.

Marta An Nguyễn dịch

Đức Phanxicô lo ngại về một “kháng cự khủng khiếp” đi ngược với Công đồng Vatican II

Đức Phanxicô lo ngại về một “kháng cự khủng khiếp” đi ngược với Công đồng Vatican II

Đức Phanxicô trong cuộc phỏng vấn với các tu sĩ Dòng Tên Hungary ngày 29-4-2023 tại tòa sứ thần Budapest.

Trong cuộc phỏng vấn với các tu sĩ Dòng Tên Hungary, bản ghi lại được công bố ngày thứ ba, 9 tháng 5 trên tạp chí Văn minh Công giáo, Đức Phanxicô cho biết đã rất lo ngại về sự tồn tại của một “chủ nghĩa phục hồi đáng kinh ngạc” chống lại Công đồng Vatican II. Để chống lại “căn bệnh hoài cổ” này, ngài đã hạn chế mạnh mẽ khả năng cử hành thánh lễ theo nghi thức tiền công đồng.

la-croix.com, Loup Besmond de Senneville, Rôma, 2023-05-09

Việc quay lùi lại là mối nguy hiểm đang đe dọa Giáo Hội ngày nay. Đây thực chất là điều mà Đức Phanxicô giải thích ngày 29 tháng 4 trong cuộc gặp riêng với các tu sĩ Dòng Tên Hungary, trong chuyến tông du 3 ngày ở Budapest. Ngài nói: “Mối nguy hiểm ngày nay là bước đi lui, một phản ứng chống lại tính hiện đại. Phải mất một thế kỷ để một Công đồng được hòa nhập. Và tôi biết sự kháng cự là khủng khiếp. Có một chủ nghĩa phục hồi đáng kinh ngạc.”

“Bệnh hoài niệm”

Đức Phanxicô thường xuyên chỉ trích tầm nhìn về Giáo hội dựa trên quá khứ, lần này ngài cho rằng đã có một “căn bệnh hoài cổ”.

Chính để chống lại căn bệnh này mà ngài đã xin tất cả các linh mục cử hành thánh lễ theo nghi thức đã được Công đồng Vatican II thông qua.

Ngài giải thích: “Đó là lý do vì sao tôi quyết định, từ nay trở đi các quy định liên quan đến việc cử hành theo Sách lễ Rôma năm 1962 là bắt buộc đối với tất cả các linh mục mới được thánh hiến. Sau tất cả những tham vấn cần thiết, tôi đưa ra quyết định này vì tôi thấy biện pháp mục vụ được Đức Gioan Phaolô II và Bênêđictô XVI thực hiện tốt đã được dùng một cách có ý thức hệ để quay trở lại. Cần phải ngăn chặn bước đi lui này, vốn không nằm trong tầm nhìn mục vụ của các vị tiền nhiệm của tôi.”

Tháng 7 năm 2021, trong một tự sắc mang tên Cử hành thánh lễ theo phụng vụ tiền Công đồng Traditionis custodes, ngài đã mạnh mẽ hạn chế khả năng cử hành thánh lễ theo nghi thức tiền Công đồng Vatican II. Kể từ đó, ngài liên tục siết chặt sự kiểm soát của Vatican đối với những thánh lễ này.

Ngày 21 tháng 2, Rôma áp đặt các giám mục trên khắp thế giới phải có được sự đồng ý của ngài trước khi cho phép một linh mục cử hành thánh lễ theo nghi thức cũ, hoặc cho phép cử hành ở một giáo xứ mới.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Gặp các tu sĩ Dòng Tên Hungary: Đức Phanxicô giải thích trường hợp hai tu sĩ Dòng Tên bị bắt dưới chế độ độc tài Argentina

Đối với các giáo hoàng (hiện tại và tương lai), lễ đăng quang vua nước Anh là hoài niệm về những chuyện đã qua

Đối với các giáo hoàng (hiện tại và tương lai), lễ đăng quang vua nước Anh là hoài niệm về những chuyện đã qua

cruxnow.com, John L. Allen Jr., 2023-05-07

Lễ đăng quang của giáo hoàng Phaolô VI tháng 6 năm 1963 do hồng y Alfredo Ottaviani chủ trì. (Wikipedia commons.)

Hồng y Quốc vụ khanh Pietro Parolin đại diện Đức Phanxicô ở Tu viện Westminster dự lễ đăng quang của vua Charles III và hoàng hậu Camilla ngày thứ bảy 6 tháng 5.

Chúng ta hy vọng ngài sẽ vui, vì ngài sẽ là ứng viên giáo hoàng một ngày nào đó, ngày thứ bảy vừa qua có lẽ gần với ngài hoặc một giáo hoàng tương lai sẽ đăng quang một cách trung thực với Chúa. Kể từ năm 1963, các giáo hoàng đã không còn đăng quang, giáo hoàng Phaolô VI là giáo hoàng cuối cùng mang các dấu hiệu giáo hoàng trong buổi lễ đăng quang. Mặc dù trên lý thuyết, một giáo hoàng tương lai có thể quyết định phục hồi lại mũ miện ba tầng mà các giáo hoàng đã từng đội để tượng trưng cho vai trò “buổi lễ đăng quang. Mặc dù trên lý thuyết, một giáo hoàng tương lai có thể quyết định phục hồi lại mũ miện ba tầng mà các giáo hoàng đã từng đội để tượng trưng cho vai trò “cha của các bậc quân vương”, nhưng gần như chắc chắn, chiếc mũ này sẽ không được các ngài dùng.

Tôi muốn nói, ai mà muốn bắt đầu nhiệm kỳ giáo hoàng của mình bằng một cử chỉ được hiểu là tái khẳng định một cách ngạo mạn về đặc quyền đã qua?

Qua nhiều thế kỷ, có nhiều phiên bản của chiếc mũ miện giáo hoàng. Mũ Đức Phaolô VI đội ngày 30 tháng 6 năm 1963, là chiếc mũ mới, được giáo dân thuộc tổng giáo phận Mila cũ của ngài tặng.

Vào ngày 13 tháng 11 năm 1964, Đức Phaolô VI quyết định từ bỏ các cạm bẫy của chế độ quân chủ trong một thánh lễ theo nghi thức byzantin, được gìn giữ như một phần của Công đồng Vatican II (1962-65). Ngày hôm đó, giáo hoàng đứng dậy khỏi ngai vàng, bước xuống vài bước rồi đặt chiếc mũ miện trên bàn thờ ở Đền thờ Thánh Phêrô, tượng trưng cho việc ngài từ bỏ nó. Tổng giám mục người Ý Pericle Felici, tổng thư ký của công đồng, thông báo Đức Phaolô VI đã được thúc đẩy để làm như vậy qua các cuộc thảo luận về đức khó nghèo tại Vatican II.

Sau đó chiếc mũ miện được bán đấu giá để lấy tiền cho người nghèo. Người công giáo Hoa Kỳ đã mua chiếc mũ này và hiện được trưng bày tại Vương cung thánh đường Đền thánh Quốc gia Đức Mẹ Vô nhiễm ở Washington, D.C.

Khi Đức Phaolô VI ra khỏi Đền thờ Thánh Phêrô, giáo dân tung hô ngài: “Vạn tuế giáo hoàng của người nghèo!” (Viva il Papa Povero!), dựa trên lời tung hô truyền thống “Vạn tuế giáo hoàng vua! (Viva il Papa Re!) của thời các triều giáo hoàng là các triều Quốc gia.

(Như một lời chú thích bên lề, một số người hăng say thời đó còn đề nghị các giám mục tập trung về họp Công đồng Vatican II để  thánh giá và nhẫn giám mục của họ tại Quảng trường Thánh Phêrô, bán lấy tiền cho người nghèo. Không cần phải nói, chuyện này không bao giờ xảy ra.)

(Một lời chú thích bên lề khác, Hồng y Alfredo Ottaviani là người trao mũ miện cho Đức Phaolô VI năm 1963, ngài đứng đầu Văn phòng Tòa Thánh và lãnh đạo phe đối lập bảo thủ tại Công đồng Vatican II, ngài ở bên kia thành phố, một hôm ngài gọi taxi và bảo tài xế đưa ngài đến Công đồng Vatican II; nhìn vào kiếng chiếu hậu, ông nhận ra đó là hồng y Ottaviani, ông chở ngài đến… Trent.)

Khi Đức Phaolô VI ban hành tông hiến Bầu cử giáo hoàng la-mã (Romano Pontefici Eligendo) năm 1975, ngài đặt các quy tắc bầu chọn người kế vị, ngài vẫn đưa ra quy định về lễ đăng quang, có lẽ ngài muốn dành quyền quyết định cho giáo hoàng tiếp theo. Ngài viết điều khoản cuối cùng: “Cuối cùng, Đức Thánh Cha sẽ được Hồng Y phó tế đăng quang và, trong một thời gian thuận tiện, sẽ nhận Đền thờ Lateran theo nghi thức quy định.”

Nhưng Đức Gioan-Phaolô I từ chối lễ đăng quang, một quyết định được Đức Gioan-Phaolô II khẳng định. Trong bài giảng nhậm chức ngày 22 tháng 10 năm 1978, ngài giải thích lựa chọn của mình: “Giáo hoàng Gioan-Phaolô I, người mà ký ức còn sống trong lòng chúng ta đã không muốn có mũ miện; người kế vị ngài hôm nay cũng không muốn. Đây không phải là lúc để trở lại với một buổi lễ và một vật được xem là biểu tượng của quyền lực tạm thời của các giáo hoàng một cách sai lầm.”

Ngài nói: “Thời đại chúng ta kêu gọi chúng ta, thôi thúc chúng ta, bắt buộc chúng ta phải nhìn lên Chúa và đắm mình trong suy niệm khiêm nhường và sốt sắng về mầu nhiệm quyền năng tối cao của chính Chúa Kitô.”

Mười tám năm sau, khi Đức Gioan-Phaolô II ban hành bộ quy tắc riêng của ngài để bầu chọn giáo hoàng tiếp theo trong tông hiến Đoàn chiên phổ quát của Chúa (Universi Dominici Gregis), ngài không đề cập đến lễ đăng quang. Thay vào đó, ngài viết điều khoản cuối cùng: “Đức Giáo Hoàng, sau nghi lễ long trọng nhậm chức và trong một thời gian thuận tiện, sẽ nhận Đền thờ Lateran theo nghi thức quy định.”

Thật vậy, không chỉ các giáo hoàng gần đây từ chối chiếc mũ miện trần gian mà họ còn trở nên dè dặt về những mô tả mang tính biểu tượng của nó. Cả Đức Gioan Phaolô I và Đức Gioan Phaolô II đều có hình ảnh mũ miện trên huy hiệu giáo hoàng của họ, nhưng Đức Bênêđictô XVI đã phá vỡ điều này, thay vào đó là chiếc mũ giám mục đơn giản, và Đức Phanxicô cũng theo gương người tiền nhiệm của ngài.

Và trớ thêu thay, có một nghịch lý giữa Vatican và Vương quốc Anh về vấn đề này – ở Vương quốc Anh, các quốc vương đã giữ vương miện nhưng mất đi phần lớn quyền lực của họ, trong khi trong Giáo hội công giáo, các giáo hoàng từ bỏ mũ miện, nhưng cơ bản họ vẫn giữ uy quyền mà chiếc miện này tượng trưng.

Đôi khi người ta nói một cách sai lầm, các giáo hoàng đã mất quyền lực trần gian năm 1870 với sự sụp đổ của các Quốc gia Giáo hoàng. Trên thực tế, họ bị mất lãnh thổ nhưng không mất quyền lực. Giáo hoàng vẫn là một nhà vua trần gian, dù các ngài cai quản một quốc gia cực kỳ nhỏ – chỉ cần hỏi mười bị cáo hiện đang bị tòa dân sự giáo hoàng xét xử về tội vi phạm tài chính là hiểu. Đức Phanxicô vẫn được trao quyền quyết định mọi vấn đề, thế tục và thiêng liêng, trong lãnh thổ Vatican từ học thuyết đến luật đi đường.

Theo thuật ngữ giáo hội, thẩm quyền của giáo hoàng chắc chắn vẫn là tuyệt đối. Điều 882 của Bộ Giáo Luật nêu rõ: “Giáo hoàng Rôma với tư cách là Đại diện của Chúa Kitô, và là mục tử của toàn thể Giáo hội, có quyền lực đầy đủ, tối cao và phổ quát trên toàn thể Giáo hội, một quyền lực ngài luôn thi hành mà không bị cản trở.”

Để diễn giải theo Shakespeare, vì thế khi nói đến một giáo hoàng, có nhiều lý do để cái đầu của ngài không yên, cả khi ngài không có mũ miện.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Lễ đăng quang của vua Charles III: nghi lễ tôn giáo giữa truyền thống và hiện đại

Mũ miện của các giáo hoàng: Đức Gioan-Phaolô I, Đức Gioan-Phaolô II, Đức Bênêđictô XVI và Đức Phanxicô

Gặp các tu sĩ Dòng Tên Hungary: Đức Phanxicô giải thích trường hợp hai tu sĩ Dòng Tên bị bắt dưới chế độ độc tài Argentina

Gặp các tu sĩ Dòng Tên Hungary: Đức Phanxicô giải thích trường hợp hai tu sĩ Dòng Tên bị bắt dưới chế độ độc tài Argentina

laciviltacattolica.com, Linh mục Dòng Tên Antonio Spadaro, 2023-05-09

Trong ngày thứ hai của chuyến tông du Hungary, 29 tháng 4, Đức Phanxicô đã gặp 32 tu sĩ Dòng Tên Hungary tại tòa sứ thần. Cuộc họp bắt đầu với lời chào mừng của linh mục bề trên Tỉnh dòng Attila András, ngài trình bày tình hình Tỉnh dòng Hungary. Ngài chào từng người một.

Trong số 32 tu sĩ Dòng Tên Đức Phanxicô gặp ngày 29 tháng 4, có một linh mục đã từng ở Chi-lê, năm nay đã 97 tuổi và là người có nhiều kỷ niệm chung với Đức Phanxicô. Và tại Budapest có một tu sĩ Dòng Tên người Hungary khác đã qua đời ngày 14 tháng 2 năm 2021, người đã cùng ở với Đức Phanxicô ở Argentina: linh mục Franz Jálics. Các tu sĩ đã hỏi Đức Phanxicô về câu chuyện của linh mục Jálics. Còn linh mục Orlando Yorio đã qua đời năm 2000, khi còn sống, linh mục đã xác nhận ngài không bị Đức Bergoglio tố cáo, ngài không bao giờ thay đổi quan điểm của ngài về công việc của Bergoglio.

Chúng tôi xin trích dẫn phần các tu sĩ Dòng Tên Hungary đặt câu hỏi với Đức Phanxicô về hai linh mục Jálics và Yorio đã cùng sống với ngài ở Argentina dưới chế độ độc tài quân phiệt Argentina. Linh mục Jálics là người Hungary, ngài đã qua đời ở Budapest. Các tu sĩ Dòng Tên cũng muốn cho Đức Phanxicô có cơ hội nói về tình huống này ở Argentina thời đó.

Xin cha cho biết mối quan hệ của cha với linh mục Ferenc Jálics? Chuyện gì đã xảy ra? Cha là Bề trên Tỉnh dòng đã sống trong tình huống bi thảm này? cha đã bị buộc tội nghiêm trọng trong vụ này.

Đức Phanxicô. Linh mục Ferenc Jálics và Orlando Yorio làm mục vụ trong khu phố của người lao động và các cha làm việc rất tận tụy. Cha Jálics là cha thiêng liêng và là cha giải tội của tôi trong năm thần học thứ nhất và thứ hai. Trong khu phố cha phục vụ có một chi bộ du kích. Nhưng hai cha không liên quan gì đến họ: các cha là mục tử, không phải chính trị gia. Các cha vô tội khi bị bắt làm tù binh. Quân đội không tìm thấy gì để buộc tội hai cha, nhưng các cha phải ngồi tù 9 tháng, bị đe dọa và bị tra tấn. Sau đó, hai cha được thả ra, nhưng các tháng tù đày này đã để lại trong lòng các cha nhiều vết thương sâu đậm. Ngay khi đó cha Jálics đến gặp tôi và chúng tôi nói chuyện. Tôi khuyên cha nên về Mỹ sống với mẹ của cha. Tình hình tại Argentina thực sự quá rối ren và bất định. Sau đó có tin đồn nói tôi đã giao nộp hai cha cho nhà cầm quyền nên họ bị tù. Các bạn biết, một tháng trước, Hội đồng Giám mục Argentina đã xuất bản hai tập, trong số ba tập đã được lên kế hoạch, gồm tất cả các tài liệu liên quan đến những gì đã xảy ra giữa Giáo hội và quân đội. Các bạn sẽ tìm thấy mọi thứ ở đó.

Nhưng chúng ta trở lại với những sự kiện tôi đang kể. Khi quân đội rời đi, linh mục Jálics xin phép tôi để đi giảng một khóa linh thao ở Argentina. Tôi để cha đi, ngay cả chúng tôi còn cùng nhau cử hành thánh lễ sau khóa linh thao. Sau đó khi là tổng giám mục, tôi có gặp lại cha và khi là giáo hoàng, cha có về Rôma gặp tôi. Chúng tôi luôn duy trì mối quan hệ này. Nhưng khi gặp tôi lần cuối ở Vatican, tôi thấy cha có vẻ đau khổ vì không biết nói chuyện với tôi như thế nào. Có một khoảng cách. Vết thương của những năm tháng đó vẫn còn trong tôi và trong cha, vì cả hai chúng tôi đều trải qua sự áp bức đó.

Một số người trong chính quyền muốn “chặt đầu tôi,” và họ không đề cập nhiều đến vấn đề của cha Jálics, nhưng họ đặt vấn đề về toàn bộ cách tôi hành động trong thời chế độ độc tài. Vì vậy, họ đưa tôi ra xét xử. Tôi được lựa chọn nơi tổ chức phiên điều trần. Tôi đã chọn làm ở tư dinh giám mục. Buổi điều trần kéo dài 4 giờ 10 phút. Một trong các thẩm phán đã rất khăng khăng khi đặt câu hỏi về cách tôi ứng xử. Tôi luôn trả lời trung thực. Nhưng, theo quan điểm của tôi, câu hỏi nghiêm túc duy nhất, có thực chất, được diễn đạt rõ ràng là câu hỏi của một luật sư của Đảng Cộng sản. Và nhờ câu hỏi đó, sự việc đã được sáng tỏ. Cuối cùng, sự vô tội của tôi đã được chứng minh. Nhưng trong phán xét này, hầu như không đề cập đến trường hợp của cha Jálics, mà chỉ đề cập đến những trường hợp khác của những người đã nhờ giúp đỡ.

Sau đó, tôi gặp lại trong cương vị giáo hoàng hai trong số các thẩm phán đó tại Rôma. Một đi cùng với một nhóm người Argentina. Tôi không nhận ra ông, nhưng tôi có cảm tưởng tôi đã biết ông. Tôi nhìn ông. Tôi tự nhủ, ”mình đã biết ông đó”. Ông ôm tôi rồi bỏ đi. Sau đó tôi gặp lại ông và ông tự giới thiệu. Tôi nói với ông: “Tôi đáng bị phạt gấp trăm lần, nhưng không phải vì lý do đó.” Tôi nói với ông để được bình an với ông. Đúng, tôi đáng bị phán xét vì tội của tôi, nhưng về điểm này tôi muốn làm rõ. Một trong ba thẩm phán khác cũng đến, và ông nói với tôi rõ ràng, họ đã nhận được chỉ thị của chính phủ để kết án tôi.

Nhưng tôi muốn nói thêm, khi hai linh mục Jálics và Yorio bị quân đội bắt giữ, tình hình ở Argentina rất hoang mang và không ai biết phải nên làm gì. Tôi đã làm những gì tôi cảm thấy phải làm để bảo vệ họ. Đó là một việc làm rất đau khổ.

Linh mục Jálics là người mục tử nhân lành, người của Chúa, một người đi tìm Chúa, nhưng cha lại trở thành nạn nhân của một nhóm chung quanh mà cha không thuộc về. Bản thân cha hiểu rõ điều này. Nhóm chung quanh này là lực lượng kháng chiến tích cực ở nơi cha đến làm tuyên úy. Các bạn sẽ tìm thấy sự thật về vụ án này trong hai tập tài liệu đã được xuất bản.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Các linh mục tương lai Hoa Kỳ, trẻ, năng động và xuất thân từ các gia đình giữ đạo

Các linh mục tương lai Hoa Kỳ, trẻ, năng động và xuất thân từ các gia đình giữ đạo

kath.net, 2023-05-05

Một cuộc khảo sát của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ cho thấy: trước khi họ vào chủng viện đa số các nam thanh niên thường xuyên tham dự giờ Chầu Thánh Thể (75%) và lần hạt Mân Côi (66%)

Kết quả phấn khích có được do các sinh viên thần học Hoa Kỳ khảo sát, họ sắp được thụ phong linh mục. Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ (USCCB) đã giao cho họ thực hiện cuộc khảo sát từ Trung tâm Ứng dụng tại Đại học Georgetown, và 334 trong số 458 nam chủng sinh sẽ chịu chức cuối năm nay đã trả lời. Các kết quả đã được Hội đồng Giám mục Mỹ công bố và được trang thông tin công giáo Aleteia đăng.

Tuổi trung bình của các tân linh mục là 33 tuổi. Thường thường họ sinh ra trong các gia đình công giáo và có giáo dục trường đạo, trước khi vào chủng viện đa số đều dự giờ Chầu Thánh Thể thường xuyên (75%) và thường xuyên lần hạt Mân Côi (66%). 81% muốn thành linh mục triều. Những chủng sinh này có xu hướng theo học tại chủng viện ở miền nam hoặc trung tây Hoa Kỳ, chỉ khoảng 30% ở bờ biển đông bắc hoặc tây. Nhiều người trong số họ đã theo học tại các trường công giáo (43% học trường tiểu học công giáo, 34% học trường trung học công giáo và 35% học đại học công giáo). Hơn 10% học tại gia. 64% là người da trắng, 16% người la-tinh, 10% người châu Á và 6% người da đen, dù một phần tư trong số họ được sinh ra ở nước ngoài, các quốc gia xuất xứ phổ biến nhất là Mexico, Nigeria, Việt Nam. và Colombia.

Khoảng một phần ba các ứng viên cho biết họ có một linh mục trong gia đình. Nhưng ảnh hưởng của cha mẹ lớn hơn: đại đa số (84%) có cả hai cha mẹ là công giáo. Gần hai phần ba cho biết họ được gia đình, các mục tử và cộng đồng ủng hộ. Tuy nhiên, gần một nửa cũng cho biết họ cảm thấy nản lòng khi không được các khu phố cụ thể khuyến khích trong tiến trình của họ.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Áo giáp, khiên, mộc và đồng phục trong đời sống của một cận vệ Thụy Sĩ

Áo giáp, khiên, mộc và đồng phục trong đời sống của một cận vệ Thụy Sĩ

fr.news.yahoo.com, Clement Melki, 2023-05-06

Kho quân cụ của Cận vệ Thụy Sĩ, kiếm, khiên, kích, áo giáp ngày 26 tháng 4 năm 2023 tại Vatican

Nhiều lần trong tuần, Jérémy và Paul mặc chiếc áo t-shirt và giày thể thao, gác một bên bộ đồng phục thời Phục hưng và cây giáo lớn. Họ sẽ tuyên thệ nhậm chức với tư cách là Vệ binh Thụy Sĩ, được giao nhiệm vụ bảo vệ giáo hoàng tại Vatican.

Anh Jérémy nói với hãng tin AFP: “Cần phải có hai người để mặc bộ đồ này: phần vòng quanh cổ, áo trước ngực, áo sau ngực, miếng đệm vai và mũ bảo hiểm. Mất khoảng 1 giờ 30 phút để mặc. Anh mặc chiếc áo giáp nặng 15 kí lô.

Chung quanh anh là súng trường ngắn, kiếm, mũ bảo hiểm và áo giáp nhắc lại lịch sử chiến đấu của đội quân lâu đời nhất thế giới, được Giáo hoàng Julius II thành lập năm 1506 và nổi tiếng với bộ đồng phục sọc xanh, vàng và đỏ sặc sỡ.

Xuất thân từ gia đình làm nghề nông ở bang Fribourg, anh đã học làm thợ mộc và sẽ tuyên thệ ngày thứ bảy 6 tháng 5 cùng với 22 đồng đội khác – trong tổng số 125 cận vệ – cam kết “hy sinh mạng sống” cho giáo hoàng ít nhất trong 26 tháng.

Chàng trai trẻ tóc vàng với đôi mắt xanh, thân hình cao to cảm thấy tự hào và xúc động khi khoác lên mình bộ đồng phục lần đầu tiên: “Đó là một thế giới khá kỳ lạ: càng quan tâm đến nó thì chúng tôi càng bị thu phục để đến đây”.

“Vô cùng đa dạng”

Cách xa hơn vài mét, trong sân được trang trí bằng cờ của các bang Thụy Sĩ, anh Paul, 22 tuổi – tên họ gia đình không được nêu lên ở đây vì lý do bảo mật – anh cùng nhóm lặp lại các cử chỉ chính xác của lời thề.

Vào Đội tháng 1 năm 2023, anh đã có hai tháng đào tạo, một tháng trước đó với cảnh sát Thụy Sĩ, trước khi bắt đầu phục vụ vào tháng 3.

Đi tuần tra ngày đêm ở các lối vào và những nơi trọng yếu của Vatican. Anh cười nói: “Khi mới đến đây, chúng tôi nói “Ồ!” Chúng tôi dành thì giờ để xem tất cả những tranh ảnh này, thật tuyệt đẹp các kiểu trang trí như cung điện hoàng gia, đằng sau cánh cửa là hàng dài khách chờ vào xem và chụp ảnh Nhà nguyện Sixtine. Năm 2016, trong chuyến đi Rôma với gia đình, anh thấy mình hội đủ điều kiện để vào Đội: công dân Thụy Sĩ, độc thân, giữ đạo, tuổi từ 19 đến 30, cao tối thiểu 1m74 và có hạnh kiểm ‘không chê vào đâu được’.

Như mọi tân binh, anh phải học một số lượng lớn công việc trong một thời gian ngắn: học tiếng Ý, cách chào, hành quân theo đội hình, dùng kích, thủ tục canh gác và phải nhận diện các cộng sự viên của Tòa Thánh.

Anh Paul cho biết: “Đây là một vinh dự cho nước Thụy Sĩ, nhưng nó rất phức tạp, công việc vô cùng đa dạng và Đội luôn kiểm tra các hiểu biết của mình.”

“Ý thức trách nhiệm”

Lịch sử của Đội trong mấy mươi năm qua bị đánh dấu qua hai sự kiện bi thảm: vụ mưu sát Đức Gioan Phaolô II năm 1981 và cái chết bí ẩn của một phó hạ sĩ và cấp trên của ông năm 1998.

Hiến binh Vatican cùng chia sẻ với Đội trong việc bảo vệ an ninh giáo hoàng và liên quan đến việc quản lý hàng triệu khách du lịch đến thăm quốc gia Vatican hàng năm.

Dù khi tuyển chọn phải hội đủ điều kiện sức khỏe tốt, nhưng các tân binh được khuyến khích phải trau dồi thể dục thể thao. Trước phòng tâp thể dục, anh Jérémy nói: “Thật khó khăn khi phải đứng hàng giờ. Và chúng tôi phải luôn sẵn sàng can thiệp nếu có chuyện gì xảy ra”.

Chúng tôi có nhiệm vụ giữ một hình ảnh đẹp cho một công việc được phô bày rất nhiều. Anh nói đùa: “Giáo hoàng nói chúng tôi là danh thiếp của ngài và người ta nói chúng tôi là những người Thụy Sĩ được chụp ảnh nhiều nhất thế giới!”.

Đức Phanxicô bày tỏ lòng biết ơn với các tân cận vệ Thụy Sĩ

Tuy nhiên, cam kết làm việc trong Đội có những ràng buộc: ngược với đa số các bạn trẻ cùng tuổi, chúng tôi không có quyền tự do la cà các quán bar hoặc gặp gỡ mọi người.

Anh Jérémy giải thích: “Tuy không phải tu viện, chúng tôi có quyền ra ngoài, nhưng phục vụ là ưu tiên hàng đầu. Điều này thấm nhuần trong chúng tôi ý thức trách nhiệm”.

Martin, tân cận vệ Thụy Sĩ: “Tôi muốn tìm một việc làm có ý nghĩa”

Giống như anh, nhiều tân binh vào Đội để nuôi dưỡng đức tin qua thánh lễ hoặc các buổi tĩnh tâm, một cách để suy nghĩ về tương lai của họ. Thời gian còn lại, họ có thể đi thăm Rôma, đi biển, leo núi hay đi chơi trong các khu vườn tuyệt đẹp của Vatican.

Jérémy nhắc: “Chúng tôi vinh dự được sống trong một thế giới ngập tràn lịch sử, Đội là một gia đình lớn, ở đây chúng tôi có một tình bạn tuyệt vời, giúp đỡ lẫn nhau”, anh không loại trừ khả năng ở lại phục vụ thêm một năm nữa.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Các gia đình do thái giáo và hồi giáo truyền đạo tốt hơn các gia đình công giáo

Các gia đình do thái giáo và hồi giáo truyền đạo tốt hơn các gia đình công giáo

Một báo cáo gần đây của Viện Thống kê và Nghiên cứu kinh tế INSEE cho thấy các gia đình do thái giáo và hồi giáo trao truyền tôn giáo cho con cái của họ tốt hơn nhiều so với người công giáo. Điều này đặc biệt được giải thích do sự xã hội hóa tôn giáo được thực hiện nhất quán hơn trong gia đình.

la-croix.com, Marguerite de Lasa và Capucine Licoys, 2023-05-05

Theo nghiên cứu của Viện thống kê INSEE công bố ngày 30 tháng 3 năm 2023, “84% người lớn lên trong các gia đình do thái tiếp tục theo tôn giáo của cha mẹ”.

Người do thái giáo và hồi giáo truyền đức tin tốt hơn là người công giáo. Đó là một trong những khía cạnh nổi bật của cuộc khảo sát này, theo đó “91% người lớn lên trong các gia đình hồi giáo và 84% trong các gia đình do thái tiếp tục giữ đạo của cha mẹ”, so với chỉ 67% các trẻ em được các cha mẹ công giáo nuôi dạy.

Theo nghiên cứu, truyền thống gia đình mạnh mẽ này chủ yếu được giải thích bằng giáo dục tôn giáo trong gia đình. Nghiên cứu nêu lên: “Việc xã hội hóa tôn giáo của cha mẹ trong hai tôn giáo này kiên trì hơn, gần ba phần tư nói điều này rất quan trọng với họ.”

 

Nhà xã hội học Simona Tersigni đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của cơ thể trong quá trình trao truyền, bà giải thích: “Theo truyền thống hồi giáo, việc học đạo trải nghiệm qua cơ thể và dần dần mang lại kết quả. Chẳng hạn với lễ Ramadan, trẻ em và thanh thiếu niên học cách tuân giữ ở một độ tuổi nhất định.”

Kinh nghiệm cơ thể của tôn giáo

Bà Tersigni giải thích: “Đạo hồi bắt buộc phải đọc năm lời cầu nguyện mỗi ngày và luật buộc ăn chay tháng Ramadan. Giữ đạo được đánh dấu theo ngày và năm.” Cô Kantcho, 25 tuổi, người Mali cho biết cô không nói nhiều về tôn giáo với ba đứa con còn nhỏ, nhưng các con thấy cô làm nghi thức tẩy rửa và cầu nguyện năm lần mỗi ngày.

Bà bảo mẫu Sabrina, 54 tuổi, bà có con đã lớn, bà cho biết: “Các con tôi thấy chúng tôi ăn chay tháng Ramadan, đến lượt chúng, chúng tuân giữ.” Bà nuôi dạy con “trong tinh thần cởi mở” và tôn trọng tôn giáo. Khi chúng còn nhỏ, trước khi ngũ, bà đọc kinh Coran cho các con nghe, bà luôn nhắc các con không ăn thịt heo và không uống rượu.

Bà Simona Tersigni giải thích tiếp: “Đạo hồi mang dấu ấn kinh nghiệm di cư của các thế hệ đầu tiên và đó là trụ cột của bản sắc. Nhưng bản sắc này không cố định, có thể có những người vô thần tự cho mình là người hồi giáo, họ không ăn thịt heo vì họ đã được xã hội hóa trong môi trường hồi giáo.”

Bổn phận của ký ức

Bà Martine Cohen, nhà xã hội học về do thái giáo ở Pháp cho rằng trụ cột của việc trao truyền cũng nằm trong truyền thống hội họp gia đình, với người do thái “mối liên hệ với thần thánh là trên hết, vượt lên mối liên hệ cộng đồng”. Ông Lionel Medioni, 58 tuổi, người cha của ba đứa con cũng đồng ý quan điểm này. Việc giữ đều đặn ngày xa-bát mỗi thứ sáu hàng tuần trong gia đình giúp ông thảo luận sâu sắc với các con, đó luôn là dịp để cả nhà trao đổi và đặt câu hỏi về tôn giáo.

Các sức mạnh khác cũng được phát huy tác dụng trong do thái giáo. Theo bà Martine Cohen, “bản sắc tập thể được xây dựng qua việc người do thái bị đàn áp và có một vai trò quan trọng trong việc trao truyền đạo”. Xuất thân từ một gia đình do thái gốc ma-rốc, cô Andrea Dahan, 24 tuổi, cho rằng “nỗi sợ văn hóa do thái sẽ bị mai một qua nhiều thế hệ” đòi hỏi ký ức phải có một bổn phận đặc biệt quan trọng. Cô giải thích: “Chúng tôi liên tục được nhắc nhở người dân của chúng tôi đã phải chịu đựng nhiều đau khổ, từ việc bị lưu đày ở Ai Cập đến nạn diệt chủng Holocaust, rồi bị trục xuất khỏi Tây Ban Nha, nên chúng tôi không bao giờ xấu hổ khi phải giải thích vì sao chúng tôi mừng lễ này lễ kia. Ngược lại, chúng tôi còn được khuyến khích.”

Marta An Nguyễn dịch

Tại sao các gia đình công giáo khó trao truyền đạo cho con cái

Tại sao các gia đình công giáo khó trao truyền đạo cho con cái

Tại sao các gia đình công giáo khó trao truyền đạo cho con cái

Theo một khảo sát của INSEE (Viện thống kê Quốc gia và các Nghiên cứu kinh tế) được công bố vào tháng 3, việc truyền bá tôn giáo trong các gia đình công giáo thấp đáng kể so với các gia đình do thái giáo và hồi giáo. Trong một xã hội phi kitô giáo, truyền thống giữ đạo trong gia đình là điều kiện cần thiết để duy trì việc giữ đạo được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

la-croix.com, Heloise de Neuville, 2023-05-05

Các gia đình vào cuối thánh lễ, ở Rennes vào tháng 3 năm 2019. Thierry Pasquet

Nói về người công giáo Pháp có lẽ nghệ sĩ hài Gad Elmaleh là người nói về điều này hay nhất. Trong lần trình diễn gần đây của ông, nghệ sĩ hài người do thái, gốc pháp-ma-rốc, người gần với kitô giáo trong những năm gần đây, đã nhẹ nhàng chế giễu điều mà ông cho là thiếu niềm kiêu hãnh của người công giáo với tôn giáo của họ, so với người do thái giáo hay người hồi giáo khi được hỏi về danh tính tôn giáo của họ.

Những gì còn lại trong phim của Gad Elmaleh? Còn nhiều lắm

Trong khi người do thái giáo và hồi giáo không do dự khi khẳng định danh tính của họ thì người công giáo lại bối rối: “Ồ, nó hơi phức tạp. Ồ, làm thế nào để nói đây? Ồ, mẹ tôi được rửa tội, chị tôi vô thần… Còn bố tôi, bố ở đâu tôi cũng không biết!”

Ra khỏi tôn giáo một cách dửng dưng

Đoạn thoại trên minh họa một cách hài hước cuộc khủng hoảng trong các gia đình công giáo và các con số trong một nghiên cứu gần đây của INSEE nói lên cách thuyết phục. Kết quả được công bố vào ngày 30 tháng 3: tỷ lệ người công giáo liên tục giảm ở Pháp, chiếm 29% số người được hỏi từ 18 đến 59 tuổi vào năm 2020, so với 43% mười năm trước đó.

Các tác giả giải thích việc suy giảm này là do sinh sản từ thế hệ này sang thế hệ khác suy giảm. Trong khi ở các gia đình do thái giáo và hồi giáo tỷ lệ sinh suất cao hơn – 91% người được lớn lên trong các gia đình hồi giáo và 84% trong các gia đình do thái và họ được cha mẹ truyền đức tin cho con cái. Chỉ có 67% những người được cha mẹ công giáo nuôi dạy còn giữ đạo. Giữ đạo – cầu nguyện, đi hành hương, đi xem lễ – là những yếu tố then chốt để trao truyền tôn giáo. Ông Yann Raison du Cleuziou, nhà xã hội học công giáo nhận xét: “Nếu trong gia đình, cha mẹ không làm gì để mang lại giá trị cho việc giữ đạo thì trong ba thế hệ, những người giữ đạo lúc đầu có con không giữ đạo, những đứa con này sẽ sinh ra con cái không giữ đạo.”

Các gia đình quan tâm đến việc trao truyền đạo

Rời khỏi Giáo hội công giáo lại càng dễ hơn vì không như do thái giáo hay hồi giáo, bây giờ kitô giáo còn rất ít ảnh hưởng trên đời sống xã hội. Ông Pierre Bréchon, giáo sư danh dự về khoa học chính trị tại trường Science Po Grenoble nhận xét: “Việc bỏ đạo không là một thảm kịch như trước, con cái ra khỏi nhà cha mẹ là xong, cha mẹ gần như không còn biết đến đời sống đạo của con.”

Ông đã có một nghiên cứu về các giá trị của người Pháp, ông nhận xét thấy sự truyền bá đức tin hiệu quả ”trong các gia đình giữ một hình thức không thẩm thấm với các văn hóa xung quanh khác”. Những gia đình công giáo cẩn trọng và khá bảo thủ này đã hướng dẫn thành công cho con cái họ trên con đường thiêng liêng, cẩn thận lựa chọn việc xã hội hóa tôn giáo cho con cái (trường công giáo, các phong trào thanh thiếu niên, vòng bạn bè của con cái, v.v.).

Một nhất quán sẽ thành công? Theo nhà xã hội học Yann Raison du Cleuziou, việc truyền đạt thành công từ thế hệ này sang thế hệ khác, chính xác hơn, là kết quả của sự kết hợp hai chiều: nêu cao giá trị của nghi thức và chiều kích “tổng thể” đức tin mà một đứa trẻ có thể tiếp nhận và thấm nhuần trong tất cả khía cạnh đời sống của nó. Nếu “các gia đình công giáo ‘ủy quyền’ cho các tổ chức tập thể việc trao truyền đức tin (các chương trình của ban tuyên úy, các phong trào thiếu niên…v.v.) – như một khía cạnh giáo dục – thì tỷ lệ truyền tải tôn giáo sẽ thấp hơn nhiều”.

Một ý thức thiểu số thúc đẩy truyền tải

Trên thực tế, những người công giáo trả lời phỏng vấn báo La Croix là cha mẹ có con cái đã trưởng thành ở độ tuổi 30, họ cho biết họ đã thất vọng vì đã không thành công trong việc trao truyền đức tin cho con cái. Một số người đặt lại vấn đề, hồi đó họ nghĩ nên “để con cái chọn lựa tôn giáo của chúng khi chúng trưởng thành”. Một bà phụ trách giáo lý cấp quốc gia nhớ lại: “Chúng ta đã không cho con cái đủ hiểu biết để chúng có lựa chọn sáng suốt. Để loại bỏ đạo của cha mẹ, thì trước hết phải hiểu đạo của cha mẹ là đạo gì để biết mình có nên bỏ hay không.”

Các số liệu là không thể chối cãi: chỉ 2% người lớn lên trong gia đình công giáo không giữ đạo sẽ trở lại đạo khi trưởng thành. Thực tế là công giáo đã trở thành thiểu số ở Pháp. Nhà xã hội học  Yann Raison du Cleuziou lưu ý: “Trong bối cảnh thiểu số, một tôn giáo sẽ có khuynh hướng tái cấu trúc để không biến mất. Việc tái cấu trúc này dẫn đến việc làm mạnh hơn các hoạt động quan trọng trong nội bộ.”

Tuy nhiên, trong vấn đề tôn giáo, quy luật số đông luôn tồn tại cùng với bí ẩn của những trải nghiệm mật thiết. Ngay cả với những gia đình đặt đức tin vào trọng tâm đời sống gia đình, việc truyền bá đức tin vẫn là một ẩn số lớn. Bà Catherine, mẹ của bảy người con giải thích: “Bốn đứa con đầu tiên của tôi có đức tin sâu đậm, ba đứa con sau ít nhiều gần gũi với tôn giáo. Tôi không biết vì sao đứa này tin, đứa kia không tin vì chúng tôi cùng giáo dục một cách,” bà là bà mẹ nội trợ ở Dijon.

Tuy nhiên, bà nêu lên hai yếu tố cần thiết đối với bà: trước hết là cầu nguyện chung trong gia đình buổi tối, sau bữa ăn tối. Bà nói: “Thành thật mà nói, không có chuyện huyền bí vĩ đại nào trong thời gian cầu nguyện này, nhưng chúng có giá trị tồn tại. Với một độ lùi, tôi nhận ra chúng ta có thể nuôi dưỡng lòng biết ơn với những điều tốt đẹp trong gia đình.”

“Thiếu nhất quán”

Yếu tố thứ nhì là làm cho phù hợp. Bà Catherine tin chắc, với điều này, nghi thức phải vào trong thông điệp tình yêu được in trong đức tin công giáo và tìm con đường đến với trái tim. Hình ảnh của cha mẹ, người trao truyền đức tin nhưng cũng là người có thẩm quyền, có thể mâu thuẫn. Ông Frédéric, 67 tuổi, một cựu thương gia nói chứng từ: “Có thể có những nút thắt trong quan hệ giữa cha mẹ và con cái, nên có thể làm ngăn cản sự trao truyền nếu mối quan hệ này bị xung đột, hoặc nếu con cái nhận thấy thiếu sự nhất quán trong gia đình”.

Bây giờ chỉ có hai người con của ông cảm thấy đủ gần gũi với Giáo hội để chúng có thể nói về Chúa Giêsu cho các con của chúng, ông phân tích: “Tôi nghĩ hai đứa con đầu đã may mắn gặp xung quanh chúng những người công giáo thực sự sống với Chúa Kitô, trong khi hai đứa sau bị loại giảng dạy công giáo theo mô hình lặp lại của xã hội, kiểu phải thành công về kinh tế.” Một ví dụ cho thấy, số phận của một tôn giáo chắc chắn phụ thuộc vào logic tái sản xuất xã hội của nó, nhưng cũng phụ thuộc vào kinh nghiệm cá nhân về sự nhất quán trong tinh thần phúc âm được xem là đích thực.

Công giáo vẫn là tôn giáo đầu tiên ở Pháp

Năm 2019 2020, 51% dân số từ 18 đến 59 tuổi ở Pháp tuyên bố  họ không theo tôn giáo nào.

Công giáo vẫn là tôn giáo hàng đầu (29% dân số theo công giáo), hồi giáo nổi bật với số lượng tín hữu ngày càng tăng (10% dân số) và khẳng định chỗ đứng tôn giáo thứ nhì của họ tại Pháp.

Sự phát triển nhanh chóng nhất là với giáo phái phúc âm. Mười năm trước họ chỉ có 2,5%, năm 2019-2020 họ chiếm 9% dân số. Chưa có nghiên cứu việc trao truyền đức tin trong giáo phái này, sự phát triển của họ tại Pháp là do người châu Phi nhập cư gần đây, họ đem tôn giáo ở quê hương họ đến Pháp.

76% người hồi giáo nói tôn giáo rất quan trọng với họ, so với 27% người công giáo và 39% những người theo các đạo kitô giáo  khác.

Marta An Nguyễn dịch

Các gia đình do thái giáo và hồi giáo truyền đạo tốt hơn các gia đình công giáo

Bài mới nhất