Chiến thắng chủ nghĩa tương đối bằng ‘chủ nghĩa nhân văn đích thực’

449

CNA – Carl Bunderson

Một giám mục chủ chốt ở Liên hiệp Anh nói rằng để đương đầu với quan điểm hiện đại vẩn đục về nhân văn vốn đã bị xáo trộn bởi chủ nghĩa tương đối, thì tốt nhất là nhờ đến các Kitô hữu sống trọn vẹn quan điểm nhân thể của Giáo hội.

Giám mục Philip Egan đã dẫn dắt giáo phận Portsmouth nằm trên bờ biển phía nam nước Anh, từ mùa thu năm 2012, và ngài đã thể hiện đặc nét của mình qua những nỗ lực không ngừng nghỉ dạy dỗ đàn chiên và chăm lo cho công cuộc phúc âm hóa.

Để biết thêm về suy nghĩ của ngài, tôi đã có buổi trao đổi qua điện đàm với ngài hồi đầu năm nay. Trong lần điện đàm đó, ngài đã cho thấy sự cần thiết cần có các Kitô hữu, để loại bỏ thuyết hư vô và chủ nghĩa tương đối của nền văn hóa đương đại, bằng một ‘chủ nghĩa nhân văn đích thực’.

Và đây là cuộc trao đổi của chúng tôi, đã được biên tập lại để rõ ràng hơn.

Bishop Philip Egan

Thưa cha, tôi đã được biết rất nhiều về những nỗ lực giảng dạy của cha trong giáo phận, với rất nhiều thư mục vụ của cha trong thời gian vừa qua, xin cám ơn cha vì điều này.

Anh biết đó, rõ ràng, một linh mục có 3 vai trò: thánh hóa, giảng dạy và điều hành – cả ba làm nên một người mục tử. Nhưng tôi nghĩ ngày nay và thời thời đại này, vai trò tuyên xưng Lời Chúa và giảng dạy rất quan thiết. Không phải chỉ bởi vì chúng ta phải tuyên xưng chân lý Đức Kitô, nhưng còn là cho nền văn hóa mà chúng ta đang sống nữa. Xét nhiều cách, tôi nghĩ Giáo hội có một kiểu sứ mạng chữa lành trong nền văn hóa đương thời, và chúng ta có chân lý, và tôi nghĩ việc quan trọng là phải tuyên xưng nó.

Ở Hoa Kỳ, chúng tôi đang trong cuộc chiến pháp lý về quỹ tránh thai, và bản tính của hôn nhân, với các lập luận thường dựa trên nền tảng tự do tôn giáo hay tự do lương tâm, nhưng theo tôi một nền tảng vững chắc hơn cho tranh luận này nên viện đến sư hợp lẽ của lập trường của chúng ta. 

Đây là một lĩnh vực rất phức tạp, và tôi muốn nói rằng tôi đã không nghĩ thấu suốt hết tất cả mọi yếu tố của nó, nó là một chuyện mà chúng ta đang khám phá, vậy nên sẽ có những thử nghiệm và sai lầm. Nhưng cách riêng về việc tránh thai, có một sự phân tách giữa sự sinh sản và hành vi giao hợp. Tôi có thể hiểu lý do vì sao có người đặt căn cứ trên tự do lương tâm và tự do tôn giáo. Nó là một căn cứ tốt, nhưng thường thì các lập luận của chúng ta cứ chồng chất mãi lên. Như Newman đã nói, chúng kết nối thành chuỗi, tất cả những cái nhỏ kết với nhau tạo nên một lập luận mạnh mẽ.

Nó cho thấy tại sao chúng ta thiên về quan điểm nhân thể khác hẳn, bởi tôi nghĩ, xét cho cùng thì đó chính là vấn đề. Chủ nghĩa thế tục tìm thấy trong nền văn hóa đương thời một mảnh mất màu mở để sinh sôi một nhận thức mới về nhân loại – nó là một kiểu nhân học vị lợi, một cách nhìn mới về ý nghĩa của con người. Và tôi nghĩ trách nhiệm của chúng ta là thể hiện cho thấy rằng Kitô giáo, cách tiếp cận Công giáo là cách sống tự nhiên, sống ân sủng trong Chúa Kitô, là con đường đến một chủ nghĩa nhân văn đích thực, một hạnh phúc thật, đó là một con đường hạnh phúc, và là quan điểm trọn vẹn về nhân thể.

Trong bài giảng hồi tháng 3 tại Trường hoàng gia Luân Đôn, cha đã nói rằng ‘Kitô giáo hướng đến một chủ nghĩa nhân văn đích thực,’ và tôi rất cảm kích điều này bởi từ ‘nhân văn’ đã bị lạm dụng quá nhiều, thật tốt khi các Kitô hữu nhận ra rằng ‘nhân văn’ không phải là một từ xấu.

Tôi không biết là tôi có muốn nói mạnh đến thế hay không, nhưng khi chúng ta đọc kinh Tin kính, ‘chúng tôi tin’ hay ‘tôi tin’ ‘một Thiên Chúa’, thì đó chúng ta cũng thực sự có ý như vậy, chúng ta cũng tin vào con người, chúng ta tin vào nhân loại, chúng ta tin vào quan điểm trọn vẹn về nhân thể đã được Chúa Kitô cứu rỗi, và đó là con đường đến với hạnh phúc thực và nhân văn thực mà chúng ta đang nói đến.

Tôi nghĩ thật trọng đại khi nói đến nhân văn ‘đích thực’, nhưng trong thư thánh Phaolô đã có viết rồi: Đức Kitô là Ađam mới, là con người mới, là ‘Vui mừng và hi vọng’: Đức Kitô là con người hoàn hảo, Ngài là mẫu mực, là kiểu mẫu của sáng tạo mới, mà chúng ta được mời gọi tiến vào. Và khi đi theo điều này, có một nhân học thay thế cho kiểu hư vô thuyết vốn là nền tảng cho một phần lớn nền văn hóa đương thời.

Xin đừng hiểu lầm tôi trong chuyện này, bởi tôi nghĩ chúng ta đang sống trong một thế giới tuyệt diệu, một thế giới đầy hấp dẫn, một thế giới của những khám phá mới, và một thế kỷ tuyệt vời là thế kỷ XXI. Vâng, có nhiều bất công và vấn đề nhân văn lớn cần phải đối mặt, nhưng tôi không muốn nói rằng thế giới này xấu xa, hay nền văn hóa đương thời là xấu xa. Tất nhiên có nhiều giá trị thế tục được rút ra từ các giá trị Kitô giáo nền tảng, nhưng chúng thường bị méo mó theo nhiều cách khác nhau, nên tôi không có kiểu tiếp cận một hai trắng đen, nhưng tôi rất lo lắng khi chúng ta, đang dần dần từng chút một, tiến tới một kiểu nhân học mới trong văn hóa đương thời này, một quan điểm mới về con người, rất khác với truyền thống mà chúng ta đã biết, và khác với sự mà tôi gọi là cách sống tự nhiên trong Chúa Kitô.

Cha có đọc bộ ba sách (Space Trilogy) của C.S. Lewis?

Có, thực sự cũng không lâu lắm, nhưng tôi đã đọc, và tôi cũng đang đọc lại quyển ‘Thuần tính Kitô giáo’ (Mere Christianity) của C.S.Lewis và thưởng thức nó.

Những gì cha nói, về kiểu nhân học mới, nhắc tôi nhớ về bộ ba sách đó, đặc biệt là quyển cuối cùng, ‘Thủ tiêu con người’ một chủ đề xuyên suốt nhiều tác phẩm của ông.

Đúng, đúng, tôi biết anh rất hứng thú với khoa biện giáo, theo tôi những cái của Lewis mà tôi thấy, thành thực là, rất mơ hồ, đó là vào thời của ông và các nhà biện giáo giữa thế kỷ XX, họ thuộc một nền văn hóa có một ‘thường thức’ mà tất cả mọi người đều theo, nói theo kiểu Anh là ‘người đàn ông trên xe buýt Clapham’, một người bạn có thể nói chuyện và yêu cầu điều gì đó, thời đó mọi người đều hiểu x hay y là thế nào, và tất cả đều sẽ đồng ý về cái này hay cái kia.  Nhưng vấn đề là, theo cách nào đó, từ sau Thế chiến II, cụ thể là từ thập niên 1960, sự toàn cầu hóa mạnh mẽ của thuyết đa nguyên, của nền văn hóa tây phương đương đại, nơi có vẻ chẳng còn một thứ ngôn ngữ chung, còn thời của Lewis, ông có thể nêu ra một điều gì đó mà ai ai cũng biết, và tất cả chúng ta đều đồng ý là vậy.

Điều đó khiến cho khoa biện giáo ngày nay phức tạp hơn, mà tôi không nói là chúng ta không thể làm được, nhưng biện giáo thực sự chính là sự xác thực của chứng tá Kitô giáo. Tôi nghĩ chứng tá Kitô giáo xác thực sẽ là tiếng nói mạnh mẽ vang đến tận lòng của người ta, có ảnh hưởng lớn đến họ. Thế đó, người này người kia, họ tin những gì họ nó, và họ sống theo đó. Có một điều gì đó thánh thiện, thực sự xác thực về họ.’ Có thể tin chắc là thế. Nhưng khoa biện giáo viết và lý luận, thì thật mơ hồ, bởi truyền tải đức tin cũng là truyền tải lý luận.

Nói thế là thế nào?

Vâng, tôi nghĩ trong thời hậu hiện đại, thiếu sự tin chắc, và việc này đã trở nên phổ biến rồi. Tư tưởng của các triết gia đã được giũa thành mức độ bình dân, và theo cách nào đó, chân lý bây giờ rất tương đối. Như anh đã nói trước đó, với chủ nghĩa tương đối, và chủ nghĩa tự do đi kèm với nó, chúng ta không thể phản bác nó, thậm chí lý luận cũng không còn mạnh mẽ nữa, bởi anh nói thế này, tôi nói thế nọ, rồi người khác lại bảo, ‘thôi, còn thế này thì sao …’

Còn về luật tự nhiên: nếu tôi dùng một khái niệm như luật tự nhiên, thì những người Công giáo chúng ta sẽ đồng thuận, nhưng rồi lại chẳng thể nhắc đến luật tự nhiên khi thảo luận bên ngoài Công giáo. Anh nói đàn ông kết hôn với đàn bà là chuyện tự nhiên, rồi có người đáp rằng ‘tại sao hai người đàn ông không thể kết hôn? Tôi biết có anh này yêu anh kia, chị này yêu chị nọ, và họ đưa ra tất cả những ngoại lệ, hay viện dẫn đến các nhà nhân học, và nói rằng ‘đó đó, có bộ lạc này kia hành xử như thế.’ Thực sự thì khá là khó khăn, ngay cả với việc dùng những khái niệm như luật tự nhiên khi nói chuyện với những người ngoài Công giáo.

Là một người trở lại, và không được dạy dỗ gì về tôn giáo, chính vấn đề của thuyết tương đối đã đưa tôi đến chân lý khách quan và Giáo hội Công giáo, nên tôi luôn có vấn đề với sự khó khăn này.

Có thể nói, anh không thể có đức tin mà không cần lý luận, quan điểm Công giáo có lẽ là thế … Nhưng rồi tôi cũng lập luận rằng anh không thể có sự tin chắc vào chân lý theo cách hệt như của Newman, và nhiều tư tưởng gia vĩ đại trong lịch sử giáo hội, mà không cần đến ân sủng.

Vậy chúng ta hãy quay lại những điều mà chính giáo hoàng Benedicto đã nói, đặc biệt là ở Hạ Nghị viện, và rồi trong bài diễn văn ở Regensburg và Berlin Bundestag, và tôi có trích lại đôi điều trong bài nói chuyện ở địa hạt King’s. Nên tôi nghĩ lòng ham mê chân lý là một điều có phúc, và như tôi viết trong thư mục vụ cho giáo phận mình rằng, chân lý luôn luôn đầy ân sủng, khi bạn nói ra chân lý, thì nó mang đầy Thần Khí, xuyên thấu tâm hồn người nghe, và và mời gọi họ đón nhận chân lý đó. Tất nhiên, bạn có thể luôn chối bỏ chân lý, thánh vịnh đã viết rằng: ‘ôi ngày hôm nay, ngươi sẽ nghe tiếng ngài, đừng cứng lòng nữa’.

Nhưng nếu chúng ta nói chân lý, và chúng ta thực hành chân lý một cách ân cần trìu mến cũng như đúng đắn, thì cũng vậy đối với lòng tin chắc và cầu nguyện, luôn luôn được phép hi vọng rằng có người sẽ thực sự chấp nhận chân lý trong lòng, có lẽ họ không thực hành chân lý ngay lập tức, nhưng có lẽ là về sau, họ sẽ thực sự nghe thấy và tự mình áp dụng, và Lời Chúa có thể biến đổi con người đó.

Cũng trong bài diễn văn ở Trường Hoàng gia, cha đã nói đến tầm quan trọng của việc phát triển một ‘biện giáo Công giáo hữu hiệu’, và nó nhắc cho tôi nhớ về một loạt các áp phích của tổ chức Catholic Truth Society trình bày tầm quan trọng của đức tin trong địa hạt khoa học. Đó có phải là ví dụ cho biện giáo hữu hiệu mà cha muốn nói đến?

Tôi nghĩ thật đúng là thế, tuyệt. Có một loạt sách bỏ túi, một tiến trình cho người ta trở thành người Công giáo, nhưng một trong những quyển sách nhỏ đó, mọi chương đều trình bày ảnh hưởng của Công giáo trên văn hóa và lịch sử, tất nhiên là trên cả những nhà khoa học lừng lẫy nhất. Chủ nghĩa khoa học và tư duy khoa học có thắng thế, và nó khiến chúng ta nghĩ rằng: khoa học cho chúng ta chân lý, nó cho chúng ta tất cả những tiện ích tuyệt vời này, và tất nhiên chúng ta sẽ không chối bỏ, nhưng chỉ trong mức độ nhận thức của con người mà thôi. Rồi cần phải có một kiểu lập luận khoa học luận, và nên đưa nó vào làm một phần của khoa biện giáo.

Điều tôi thấy thích nơi những áp phích mà anh vừa nhắc đến, là chúng là một điển hình cho việc nắm bắt trí tưởng. Tôi nghĩ là vào thời giáo hoàng Gioan Phaolô, và nửa sau thế kỷ XX, có một sự va chạm mạnh về lý luận, nhưng ngày nay, tôi dám nói rằng vấn đề không chỉ là lý luận có quan trọng hay không, mà còn là ai đang nắm bắt trí tưởng của chúng ta? ai đang điều khiển trí tưởng của chúng ta? làm sao chúng ta thể hiện Tin mừng theo cách đánh động được tâm hồn, nắm bắt được trí tưởng, và khơi lên những cảm xúc tốt đẹp? Và tất nhiên, là một người Công giáo là một việc rất khó, khi phải chịu nhiều chỉ trích xúc phạm, và đủ kiểu khác nữa, nhiều người Công giáo bị tổn thương, và điều này khiến cho mọi việc thực sự có đôi chút khó khăn. Vậy nên có một biện giáo nội bộ, bên cạnh biện giáo bên ngoài.

Nhưng tôi nghĩ chúng ta không chỉ thảo luận về những lập luận lớn, những hệ tư tưởng, mà còn phải bàn về cái ‘làm sao chúng ta nắm bắt được trí tưởng của người ta’? Và quay lại chủ đề biện giáo, một môn đệ thực của Chúa Kitô có thể thực sự là một chứng tá hùng hồn. Sự thánh thiện thực sự là tâm điểm của biện giáo.

Cha có nói đến tầm quan trọng của việc nắm bắt trí tưởng. Đó có phải là lý do cha nói rằng phần quan trọng nhất trong công cuộc tân phúc âm hóa là thăng tiến di sản Kitô giáo của chúng ta hay không?

Tôi nghĩ rằng các yếu tố trong di sản của chúng ta, thực sự, rất quan trọng đối với công cuộc tân phúc âm hóa, một ví dụ là các thánh ca Gregori, và phụng vụ La Tinh. Tôi không thể đưa ra một thiết lập đặc biệt cho việc này, nhưng tôi rất vui lòng ủng hộ việc dùng các phụng vụ này trong giáo phận mình nếu giáo dân muốn. Chắc chắn tôi rất hăng hái với sự đa dạng của toàn thể phụng vụ của giáo phận, khuyến khích việc dùng các thánh ca Gregory và phụng vụ La Tinh, bởi tôi nghĩ cho những người trẻ, và nó sẽ nhắc nhớ mọi người về tính phổ quát của Giáo hội qua không gian và thời gian. Đó là một ví dụ về cái mà tôi muốn nói về di sản, phục hồi nó, và bảo đảm nó là một phần của việc truyền tiếp đức tin đang diễn ra, nó có tác động lay động tâm hồn.

Khi nói đến ‘phụng vụ La Tinh’ cha muốn nói đến một nghi lễ đặc biệt nào?

Không nhất thiết phải vậy. Tôi rất vui khi có được một nghi lễ đặc biệt cho giáo phận mình, nhưng tôi nghĩ hầu hết mọi người sẽ không mê các nghi lễ đặc biệt cho lắm. Nhưng tôi cho rằng trong nghi lễ bình thường, thánh lễ Novus Ordo, thì đôi lúc và ở nhiều nơi khác nhau, sẽ tốt nếu có thêm các thánh ca Gregori và phụng vụ La Tinh, tôi nghĩ nó sẽ rất hấp dẫn với các thanh niên.

Thực vậy, hiện nay, tôi đang tận lực cho một việc táo bạo ở nhà thờ chính tòa này: Tôi đang cố thiết lập một ban nhạc đương đại. Nhưng đi kèm với nó, là một dự án thứ hai, thiết lập một ban nhạc Gregori, để có thể chắc rằng chúng ta có đủ cả hai. Chúng tôi đang thực hiện một thánh lễ cho các sinh viên đại học, bởi có rất đông sinh viên ở Portsmouth, và tôi nghĩ đây là một phần việc để chúng ta vươn xa hơn.

Căn bản hơn, vị trí tâm điểm của Thánh Thể, chầu Thánh Thể, yêu mến Chúa Kitô, và tất cả những phương tiện giúp người ta lớn lên trong cầu nguyện. Tất cả những điều này là một phần di sản, và đó là ví dụ mà tôi muốn nói.

Carl Bunderson sống ở Denver, Colorado, là trợ lý biên tập cho Hãng Tin Công giáo. Ông đã theo học tại chủng viện thánh Gioan Vianney ở Denver, có bằng tú thần học ở Đại học Giáo hoàng Laterano Roma, và bằng B.A về kinh tế của Đại học Colorado tại Boulder.

 

J.B. Thái Hòa chuyển dịch