Giáo hoàng Gioan XXIII rảo bộ trên thềm mái tòa tháp từ thế kỷ IX trong vườn Vatican, ngày 15 tháng 4 năm 1963
Theo dòng hồi ức trở về những năm 1950, những năm cuối triều giáo hoàng Pius XII, cha John Oeterle cho biết hình ảnh thời thơ ấu của mình về giáo hoàng là một người ‘rất ngoan đạo, mỏng manh và thoát tục’.
Nhưng sau khi Đức Pius qua đời năm 1958, người kế vị là Giáo hoàng Gioan XXIII, một người cho dù đầy khôn khéo trên những cương vị điều hành và ngoại giao của giáo hội, vẫn toát ra một vẻ đơn sơ nồng hậu từ gốc nông dân Ý quốc.
Đây là một giáo hoàng với vẻ ngoài ‘thật năng động và đầy sinh khí’, theo lời cũng của cha Oesterle, bây giờ là tuyên úy của bệnh viện UPMC Mercy. ‘Đúng là Gioan XXIII khác biệt sâu sắc. Tôi không thể hình dung cuộc đời và đời linh mục 47 năm của mình sẽ ra sao nếu không có giáo hoàng Gioan.’
Trước Ảnh hưởng Phanxicô là Ảnh hưởng Gioan XXIII
Cũng như giáo hoàng Phanxicô đương vị đã đánh động trí hình tượng của cả người Công giáo lẫn không Công giáo – với cái ôm chặt theo nghĩa đen dành cho người nghèo và người bệnh tật, với việc vạch mặt lên án kiểu đặc quyền của giáo sỹ và sự bất công kinh tế, với tinh thần cởi mở dành cho những người đối địch với giáo hội – Giáo hoàng Gioan cũng có tác động đầy sâu sắc của mình trong suốt hơn nửa thế kỷ vừa qua.
Giáo hoàng Phanxicô đã tôn phong giáo hoàng Gioan lên bậc hiển thánh, cùng với Gioan Phaolô II, người được chính Gioan XXIII phong giám mục và là người phong giám mục cho Phanxicô, giám mục đầu tiên được phong trong triều giáo hoàng của ngài.
Được bầu lên khi đã 77 tuổi, Gioan XXIII đã lật ngược những suy nghĩ là ngài sẽ chỉ là một giáo hoàng giữ cửa. Ngài khởi xướng Công đồng cách mạng Vatican II 1962-1965, mở ra những cải cách sâu rộng nhất trong giáo hội trong suốt nhiều kỷ. Ngài bỏ bớt những lễ phục vua chúa của giáo hoàng, và ban hành những văn kiện giáo lý bước ngoặt về hòa bình và công lý.
Dù ngài mất sớm vào nằm 1963, trước khi Công đồng hoàn tất, sau thời gian dũng cảm chống chọi căn bệnh ung thư dạ dày đầy đau đớn, nhưng Công đồng này chính là di sản của giáo hoàng Gioan, một Công đồng mở thánh lễ ra các ngôn ngữ khác thay vì chỉ dùng tiếng La Tinh, loại bỏ chủ trương bài Do Thái, đối thoại với các tôn giáo khác, lên tiếng xác nhận dõng dạc cho tự do lương tâm và kêu goi tất cả mọi người Công giáo, chứ không chỉ lớp giáo sỹ ưu tú, hãy sống đời thánh thiện.
Người ta nhớ đến giáo hoàng Gioan qua cách xử sự dũng cảm nhưng nhẹ nhàng của ngài, kiểu một người ông mập mạp tươi cười với những câu đùa tự phát (như khi được hỏi có bao nhiêu người làm việc ở Vatican, ngài trả lời ‘khoảng một nửa’), và sự nồng ấm (đêm đã gần khuya, ngài nói với đám đông ở quảng trường thánh Phêrô là, ‘Nào, giờ hãy về nhà và hôn tặng cho đám trẻ ở nhà, nói với chúng đó là cái hôn từ giáo hoàng Gioan’).
Những giáo hoàng kế tiếp như Phaolô VI và Gioan Phaolô II, trong khi tán thành Vatican II, vẫn đặt ra những ranh giới cho tinh thần cải cách này, tái xác nhận quan điểm của giáo hội về điều khiển sinh sản nhân tạo, linh mục nữ, và đồng tính luyến ái. Giáo hoàng Phanxicô vẫn giữ những giáo lý này, nhưng cũng vẫn có uy tín với những người nằm ngoài ranh giới đó, và như thế với ngài di sản của giáo hoàng Gioan là một cầu nối rõ ràng hơn so với các triều giáo hoàng trước.
John Thavis, tác giả quyển ‘Nhật ký Vatican’, một tập bút ký về ba thập kỷ ở Roma, đăng trên Hãng Tin Công giáo, cho biết, ‘Tôi thấy giáo hoàng Phanxicô là một người gần khuôn với Gioan XXIII hơn. Ngài có một cách tiếp cận đơn giản hơn với đức tin và công cuộc phúc âm hóa.’
Nicholas Cafardi, hiệu trưởng danh dự và giáo sư luật học tại Đại học Duquesne, đồng thời đã có thời gian dài giữ những cương vị giáo dân lãnh đạo trong giáo hội, lưu ý rằng cha mẹ của Jorge Bergoglio, hay giáo hoàng Phanxicô, có gốc Bắc Ý như Angelo Roncalli, hay giáo hoàng Gioan XXIII.
Khi thấy Phanxicô, ông Cafardi nói rằng, ‘Tôi thấy Roncalli.’
Và lòng quãng đại của Gioan XXIII, đem cho hết tiền sinh nhai của mình để giúp gia đình và người nghèo – cũng tương hợp với tinh thần tránh xa những thứ sang trọng của Phanxicô. Cha Jerome Vereb, một linh mục gốc Pittsburgh, đã làm việc nhiều năm tại Vatican, nhớ lại lần ghé thăm một đồng liêu thân thiết của giáo hoàng Gioan, và được ông cho xem chiếc ví mỏng lét của giáo hoàng quá cố khi ngài qua đời.
‘Tôi chẳng nhận ra nó là chiếc ví nữa. Ngài chẳng có một xu trong ví.’
Thời linh mục trẻ, cha Roncalli ủng hộ phong trào lao động đang lên cũng như các ‘linh mục công nhân’, những người nhìn ra mối liên kết bất khả phân ly giữa công bằng trần thế và nhân đức thiêng liêng. Ngài làm việc khắp châu Âu với tư cách đại sứ Tòa thánh, hăng hái đem các bí tích đến cho các tín hữu Công giáo miền hẻo lánh, che chở cho nhiều người Do Thái trong thảm họa diệt chủng thời Đức quốc xã, an ủi các nạn dân của chiến tranh và thiên tai, thúc đẩy đối thoại với tất cả mọi người, từ cộng sản cho đến Hồi giáo hay Kitô giáo Chính thống.
Nhiều năm về sau khi làm giáo hoàng, ngài vẫn làm việc vì mục tiêu này. Nhận ra bức tường cao chia rẽ Công giáo và Chính thống, ngài nói, ‘Tôi cố để dỡ bớt một viên gạch chỗ này chỗ kia.’ Trong buổi tiếp kiến các đại diện Do Thái giáo, ngài dùng câu chuyện kinh thánh cựu ước về việc chia ly và đoàn tụ gia đình, mà nói rằng, ‘Tôi là Giuse, anh em của các anh.’
Xơ Betty Sundry ở Pittsburgh, nhớ lại tác động mãnh liệt của tông thư bước ngoặt ‘Hòa bình trên Trái đất’, hay cũng là một lời dạy của giáo hoàng Gioan XXIII. Năm 1963, văn kiện này mở ra một tinh thần mới, kêu gọi không chỉ các tín hữu Công giáo mà là tất cả mọi người ‘thiện tâm’ hãy lùi xa bờ vực chiến tranh hạt nhân và thúc đẩy hòa bình và công lý.
Cho đến tận ngày nay, ‘Tôi vẫn trích dẫn văn kiện này rất nhiều bất kỳ lúc nào nói về sự sống và hòa bình,’ theo lời của xơ Sundry, trưởng ban xã hội của Dòng các Nữ tu của Chúa Quan Phòng.
Gioan XXIII chứng thực lời nói bằng hành động, ngài mở kênh đối thoại với các nguyên thủ của Hoa Kỳ và Xô Viết để tìm cho ra một lối thoát nhưng vẫn giữ được thể diện cho họ trong cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cuba.
Cha Oesterle nhớ lại thời mình háo hức học hỏi những văn kiện Công đồng còn mới nóng bỏng tay với các bạn học ở chủng viện thánh Meinrad ở Ấn Độ trong những năm 1960.
‘Thời tôi mới lớn đó, mục tiêu là có một giáo hội lớn hơn và tốt hơn, và nếu người ta không muốn theo giáo hội, thì thật tồi tệ. …. Tôi thật không thể tin nổi khi các giám mục về căn bản đang hình dung một kiểu giáo hội mới gắn kết với thế giới, chứ không chỉ đóng khung trong phạm vi La Tinh, và [tuyên xưng] giáo hội là dân tộc của Chúa.’
Ông nói thêm: ‘Dường như với tôi, tất cả mọi người mọi người đều sẽ nhảy hết lên một cỗ xe. Đó là một trong những chuyện ngây thơ của tôi hồi còn ở chủng viện.’
Một vài người phản đối đôi chút những thay đổi đầy bất ngờ và nhanh chóng, chẳng hạn như việc không dùng bộ lễ tiếng La Tinh nữa.
Nhưng qua nhiều thập kỷ, Công đồng chịu thêm nhiều chỉ trích từ phía bảo thủ, khi họ nối kết chuyện này với việc sụt giảm con số linh mục và tu sỹ mới ở Hoa Kỳ và các nước Tây phương, cũng như phàn nàn về kiểu tùy tiện bất kính của nhiều người trong thánh lễ.
Những người tiến bộ ủng hộ công đồng, thì than rằng tính chất tham vấn của Công đồng bị bỏ phí không được dùng đến trong những quyết định từ trên xuống của các giáo hoàng kế vị về các vấn đề giới tính và tình dục.
Giáo hoàng Phanxicô đã lặp lại nhiều lần rằng, ngài là ‘con của giáo hội’ và trung thành với giáo lý của giáo hội. Nhưng sự đảo chiều cung cách mục vụ của ngài gợi nhớ nhiều đến Đức Gioan XXIII.
Cha Vereb nói rằng, ‘Gioan XXIII không phải là một người theo chủ nghĩa tự do. Nhưng ngài có nói rằng, ‘Chúng ta hãy mở những cánh cửa sổ và hãy lắng nghe’, bởi giáo hội sẽ bị lệch lạc nếu không lắng nghe thế giới.’