Crux – John L. Allen Jr. – 05/9/2015
Vài năm trước, tôi có dịp ngồi lại với hồng y Timothy Dolan của New York tại dinh của ngài trong nhà thờ chính tòa thánh Patrick, nói chuyện về một mối bận tâm ngày càng tăng mà cả hai chúng tôi cùng chia sẻ, về các báo cáo về nạn bách hại bài Kitô giáo khắp thế giới.
Hồng y Dolan, người có bằng tiến sỹ về lịch sử Giáo hội và là người ý thức về sức mạnh của ký ức, đã hỏi tôi rằng, ‘Tại sao Kitô hữu chúng ta không có tài liệu nạn Holocaust của mình?’
Nhưng ý của ngài không phải là một suy tư Kitô giáo về cuộc diệt chủng người Do Thái, vốn đã có rất nhiều rồi. Ngài đang hỏi vì sao không có một khối bài viết, kịch nghệ, âm nhạc, nghệ thuật … lấy cảm hứng từ các bậc tử đạo mới của Kitô giáo.
Ví dụ như, tại sao không có một bộ phim như ‘Danh sách Schindler’ về các Kitô hữu bị tàn sát ở Kandhamal, Ấn Độ hồi năm 2008, một cơn bạo lực bài Kitô giáo lớn nhất đầu thế kỷ XXI do tay những người Ấn giáo cực đoan? Tại sao không có một ‘Nhật ký Anne Frank’ cho các trẻ em Kitô trở lại từ Hồi giáo, những trẻ thường phải giấu kín nỗi sợ lo lắng cho mạng sống của mình?
Một cách tổng thể, tại sao các Kitô hữu không kể câu chuyện mình bị bách hại một cách đủ lôi cuốn để cho thế giới chú ý? Chắc chắn không phải là do thiếu nguyên liệu, bởi ước tính cứ mỗi hai giờ, có một Kitô hữu bị giết vì các lý do liên quan đến đức tin trên khắp thế giới.
Tôi cho rằng thật phức tạp để trả lời được câu hỏi trên, nhưng có lẽ có một điểm mở đầu là, các Kitô hữu không kể những chuyện này bởi vì, quá thường là họ không biết gì về chúng.
Trong 4 tháng qua đồng nghiệp Inés San Martín và tôi đã thu thập các câu chuyện về những bậc tử đạo Kitô mới. Chúng tôi đã có chuyến đi đến El Salvador, Colombia, Ai Cập, Ấn Độ và Nigeria, gặp hơn 200 nạn nhân chịu bạo lực bài Kitô giáo.
Mỗi người chúng tôi gặp, theo cách riêng của mình, kể lại toàn bộ câu chuyện. Và đây là 3 ví dụ trong vô số các chuyện khác.
“Quá nhiều nạn nhân! Quá nhiều đau đớn.”
Xơ Meena Lalita Barwa là một nữ tu Công giáo đang phục vụ ở Kandhamal. Xơ và một linh mục địa phương, cha Thomas Chellen, bị những người Ấn giáo cực đoan điên cuồng lôi đi, miệng thì kêu ‘Giết Kitô hữu!’ Họ cố gắng buộc cha Chellnen cưỡng hiếp xơ Barwa, và khi cha không chịu thì bị đánh tàn bạo. Họ chỉ dừng lại khi nghĩ rằng cha đã chết, nhưng kì diệu thay, cha vẫn sống sót.
Xơ Barwa, cháu của tổng giám mục John Barwa của Cuttack-Bhubaneswar, bị cưỡng hiếp, ít nhất là bởi một người, xơ không nhớ được bao nhiều người, khi đã bị mất ý thức vì bị tấn công quá nặng, và rồi xơ bị lôi đi diễu hành trên đường, gần như trần truồng, còn đám thủ ác thì không ngừng gào thét.
Bây giờ, xơ Barwa đang học bằng luật để đấu tranh vì công lý cho các nạn nhân khác, và xơ thấy nhẹ lòng hơn khi nghĩ về chuyện đau lòng mình đã trải qua theo cách thiêng liêng.
‘Bởi Chúa Giêsu Kitô không phải là một phụ nữ, nên có những đau khổ Ngài không thể trải qua để cứu độ thế gian. Tôi thích nghĩ rằng tôi đã giúp hoàn thiện hi sinh của Chúa.’
Chioma Dike là người Công giáo ở Nigeria, và là mẹ của 5 người con, đã mất chồng và con trong một vụ đánh bom do tay Boko Haram, tại nhà thờ thánh Theresa ở Madalla, cách thủ đo Abuja khoảng một tiếng đồng hồ, trong ngày lễ Giáng Sinh 2011.
Đáng kinh ngạc là, bà nói rằng bà không hận thù những người đã chia lìa gia đình bà.
‘Tôi không giận dữ. Tôi cầu nguyện xin Chúa tha thứ cho họ, bởi họ không biết việc họ làm.’
Giám mục Misael Vacca Ramirez của giáo phận Duitama-Sogamoso, Colombia, bị phiến quân cánh tả bắt cóc hồi năm 2004, và giam giữ trong 3 ngày.
Cuộc nội chiến đẫm máu ở Colombia, đã kéo dài suốt 60 năm, khiến 200.000 người thiệt mạng, và 90.000 người ‘mất tích.’ Giám mục Vacca biết là mình có thể bị giết, như 2 giám mục cùng với 85 linh mục khác trước đó.
Chúng tôi gặp nhau tại nhà của ngài, lắng nghe câu chuyện ngài kể, thường bị gián đoạn bởi những dòng nước mắt. Ngài giải thích rằng ngài đang nghĩ về tất cả những người đã chết, không thể sống sót như ngài, những người thường bị lãng quên và bỏ rơi.
‘Quá nhiều nạn nhân. Quá nhiều đau đớn.’ Ngài đau lòng nói.
Nếu các Kitô hữu để cho những câu chuyện như thế bị quên lãng, chết đi hoàn toàn cùng với những người đã trải qua đau đón này, thì đó là một thất bại trầm trọng của tình đoàn kết và sức sáng tạo.
Như một bước để bảo đảm chuyện này không xảy ra, có lẽ các Kitô hữu cần một Yad Vashem, tượng đài tưởng niệm thảm họa diệt chủng thời Đức quốc xã, đặt ở Jerusalem. Các Kitô hữu cũng có thể được hưởng lợi từ một trung tâm tầm thế giới để tưởng niệm, nghiên cứu và biện hộ, đứng ra đảm nhận sứ mạng bảo đảm rằng các chứng tá này sẽ được thu thập, và để thế giới không bao giờ quên lãng.
Và không có chuyện cạnh tranh với người Do Thái hay bất kỳ ai về việc ai chịu nhiều đau khổ hơn. Làm như thế thật là vô ích. Thay vào đó, phải bảo đảm rằng không môt nỗi đau nào bị lờ đi, bao gồm những đau đớn của các Kitô hữu.
Trung tâm tưởng niệm này có thể được tài trợ và điều hành chung bởi nhiều phái, vốn đều được hưởng lợi ích từ việc thúc đẩy sự hiệp nhất sâu sắc hơn, trong ‘đại kết của máu,’ theo lời Đức Giáo hoàng Phanxicô.
Một tác giả mà cả tôi và đức cha Dolan đều mến, là tiểu thuyết gia Michael Connelly, đã viết ra một nhân vật thám tử tên là Harry Bosch, theo đuổi công lý với châm ngôn này, ‘Tất cả mọi người hoặc không ai cả.’
Câu này đúng với các Kitô hữu hay bất kỳ ai khác, và một đài tưởng niệm Kitô giáo có thể là một cách mạnh mẽ để ghi khắc điều này.
J.B. Thái Hòa chuyển dịch