Các cuộc phiêu lưu của cha Kiké

261

Nhóm Từng Bước Một, 1 tháng 2 – 2015

Đức ông Kiké, người xây dựng lại Giáo hội Cao Miên

Xong sứ vụ với các nữ tu Mục tử Nhân lành, chúng tôi lên đường đi  Pattaya (Thái Lan) qua ngã phía Bắc Cao Miên. Theo lời khuyên của một trong những người bạn linh mục của chúng tôi, Olivier de Fontmagne, chúng tôi được Đức ông Enrique Figaredo Alvargonzález, tên thường gọi là Kiké tiếp. Cha truyền giáo ở Battambang từ 15 năm nay, chúng tôi may mắn khám phá được rất nhiều chương trình cha làm ở đây và ghi lại chứng tá của tu sĩ Dòng Tên người Tây Ban Nha rất yêu mến nước Cao Miên này.

Cha biết đến Á châu từ khi còn là sinh viên, khi đó cha làm thiện nguyện cho Dịch vụ lo cho người Tị nạn của Dòng Tên (Service Jésuite aux Réfugiés (JRS) năm 1985. Ngài làm việc bên cạnh người tị nạn Cao Miên trong một trại ở Thái Lan. Tiếp xúc với những người nghèo nhất, nhất là những người bị tật nguyền vì mìn cá nhân đã tác động và định hướng cho các dấn thân sau này của ngài. Năm 1991, ngài tham dự vào việc thành lập “nhà bồ câu” ở Banteay Prieb, một trung tâm đón tiếp và đào tạo các trẻ em nạn nhân của chiến tranh. Và chín năm sau, khi trung tâm Banteay Prieb đang lúc thành công, ngài được gởi đến Battambang để bắt đầu một sứ vụ mới. Kiké bị dồn ở chân tường, phải bắt đầu lại từ số không. Ngôi nhà thờ cũ của Battambang bị chế độ Pol Pot triệt hạ, bây giờ là một bãi đất trống. Chính trên bãi đậu xe mà Kiké sẽ xây lại Nhà thờ Battambang.

Với sự giúp đỡ của bằng hữu và giáo dân, Kiké xắn tay áo lên xây dựng lại Doãn phận tông tòa Battambang và từ đó ngài quản trị cho đến nay. Mục đích là tái thiết lại cuộc sống hậu chiến ở Cao Miên, để làm chứng cho sức mạnh của tình yêu, của lòng thương xót, lòng trắc ẩn của Chúa, Đấng chiến thắng cái chết. Nhưng bắt đầu từ đâu? Cha khởi đầu bằng việc gặp dân chúng trong mục đích xây dựng các cộng đoàn như những gia đình vì sợi giây xã hội đã bị tổn thương nhiều ở Cao Miên do chiến tranh và do bị chiếm đóng liên tục.

Trong vòng 15 năm, dần dần ngài lên nhiều chương trình trên nhiều lãnh vực để đáp ứng phần lớn các nhu cầu của người dân Battambang: lập trường học, trạm y tế, xưởng chế tạo xe lăn – bây giờ được bán khắp nơi trên thế giới – , một mái ấm đón tiếp các sinh viên ở các làng lân cận, một chương trình cho vay với tiền lời thấp để các gia đình nghèo có vốn làm ăn. Doãn phận tông tòa Battambang chu toàn vai trò dịch vụ quần chúng. Tất cả chương trình này cha muốn các tổ chức Phi Chính Phủ góp phần vào và họ cùng làm việc tay trong tay với nhau. Cha đi các nước ở Âu châu và nhất là ở Tây Ban Nha để gây quỹ làm thêm các chương trình mới khác.

Khi nói chuyện với cha, tôi không thể ngăn mình hỏi cha: “Nhưng làm sao Chúa giúp cha thấy được tất cả các chương trình này?” Cha cười và trả lời: “Các chuyện này làm từng bước một”. Trong bụng tôi không thể nín cười. Ngài nói tiếp: “Thật ra, tôi làm những gì tôi thích: tôi thích nhảy, thích chụp hình, thích âm nhạc, thích giáo dục, thích xây dựng”. Khi đó tôi mới hiểu, dù Chúa đòi hỏi chúng ta từ bỏ tất cả để theo Chúa, chấp nhận bị dồn vào chân tường như trường hợp cha Kiké bị năm 2000, nhưng Chúa không đòi hỏi mình làm những chuyện mình không thích. Chính chúng ta đôi khi lầm trên các phương tiện để có hạnh phúc nhưng phó thác vào Chúa là cách đảm bảo các ước muốn to lớn của mình được hoàn thành, ngoài những gì mình tưởng tượng.

Nếu Đức ông Kiké là linh mục, là nhà quản trị tài năng, người có tầm nhìn xa và mê nghệ thuật thì trước hết, cha là tôi tớ khiêm tốn phục vụ Chúa, người hy sinh cuộc sống mình để xây dựng Nước Chúa. Và đó là điều tác động đến tôi nhiều nhất ở cha Kiké. Cha rất ấn tượng nhưng không làm người khác sợ. Khi chúng tôi sắp từ giả cha để đi, chúng tôi xin cha viết ý chỉ cầu nguyện của cha trong sổ tay của chúng tôi. Và cha nói với tôi: “Thật ra khi nào mình cũng muốn làm những chuyện không thể tưởng tượng được cho Chúa: những chương trình mang đầy tham vọng, những dự án to lớn dưới mắt người đời. Mình để lên hàng đầu nghĩ rằng làm như vậy để vinh danh Chúa. Nhưng Chúa không muốn đứng hàng đầu, Ngài chọn chỗ cuối cùng”.

 

Quentin

Jean

Marta An Nguyễn dịch